Kỹ nghệ du lịch của Trung Quốc
Nguyễn Hưng Quốc
H́nh: AP
Bạn bè tôi,
nghe tôi kể về giá chuyến đi du lịch ở Trung
Quốc vừa rồi, đều bất ngờ: Chỉ có 350 đô Úc
trong 9 ngày cho mỗi đầu người. Chi phí bao
gồm toàn bộ việc ăn, ở và di chuyển nội địa
từ thành phố này qua thành phố khác (không
kể vé máy bay từ Bắc Kinh đến Nam Kinh). Về
ăn, bao gồm cả ba bữa; hai bữa ăn trưa và ăn
tối đều ở những tiệm ăn khá sang trọng.
Nhưng nổi bật nhất là về chuyện ở: Tất cả
đều là các khách sạn từ bốn sao đến năm sao,
trong đó, có những khách sạn quốc tế nổi
tiếng như Sheraton và Hilton. Tôi vào
internet t́m hiểu giá ở khách sạn Hilton:
240 đô một đêm! Như vậy, tính ra, giá nguyên
cả tour du lịch 9 ngày chưa đủ để trả hai
đêm ở khách sạn.
Thú thực,
bản thân tôi cũng rất ngạc nhiên trước cái
giá quá mềm như vậy. Nhân viên trong văn
pḥng du lịch giải thích: Đó là tour đặc
biệt, thỉnh thoảng mới có, được chính phủ và
một số đại công ty ở Trung Quốc tài trợ để,
thứ nhất, quảng bá h́nh ảnh của Trung Quốc;
và thứ hai, giới thiệu một số sản phẩm đặc
thù của các công ty ấy.
Chuyện chính
phủ Trung Quốc có tài trợ hay không, tôi
không thể kiểm tra được. Nhưng chuyện các
công ty tài trợ th́ có lẽ có: Họ tài trợ ở
tay này và lấy lại ở tay khác. Bằng việc bán
hàng cho du khách.
Trung b́nh
mỗi ngày, đoàn du lịch có khoảng ba hay bốn
hoạt động khác nhau, trong đó, bao giờ cũng
có một hoạt động mất nhiều th́ giờ nhất: mua
sắm. Không phải muốn mua ǵ hay ở đâu cũng
được. Thường, hướng dẫn viên chở thẳng đến
một nơi nào đó, có khi rất xa trung tâm
thành phố, có vẻ như được xây dựng để bán
hàng riêng cho du khách từ nước ngoài.
Chính ở
những nơi ấy, tôi mới được chứng kiến tận
mắt kỹ nghệ móc túi trắng trợn và tài t́nh
của ngành du lịch Trung Quốc.
Ngày đầu
tiên, chúng tôi được chở đến Viện Y dược
Trung Quốc ở Bắc Kinh. Có một người tự xưng
là giáo sư tiếp đoàn và giới thiệu về Viện.
Ông cho y dược cổ truyền là một trong những
thành tựu đặc thù của văn hóa Trung Quốc.
Viện của ông là một trong những trung tâm
lâu đời và thành công nhất của nền y dược
ấy. Sau đó, ông đề nghị mọi người được khám
bệnh miễn phí. Người khám bệnh cho tôi là
một bác sĩ đă lớn tuổi. Người phiên dịch là
một cô gái trẻ, nói tiếng Anh rất lưu loát.
Đầu tiên, ông bắt mạch cho tôi. Sau, ông
chăm chú nh́n các đầu ngón tay. Ngẩng đầu
lên, ông hỏi tôi:
- Anh bị cao
huyết áp, phải không?
- Thưa
không, huyết áp của tôi b́nh thường.
Ông bảo tôi
thè lưỡi ra cho ông xem, rồi hỏi:
- Thỉnh
thoảng anh bị xây xẩm mặt mày, phải không?
Tôi đáp:
- Thưa,
không.
Ông hơi có
vẻ lúng túng. Lát sau, giải thích thêm:
- Nh́n móng
tay của anh, tôi thấy máu lưu thông không
đều. Như vậy tim anh có vấn đề. Có lẽ anh
thường đi khám bệnh ở các bệnh viện Tây
phương. Có điều, y học Tây phương chỉ thấy
ngọn chứ không thấy gốc. Họ chỉ thấy bệnh
khi bệnh đă phát triển rơ ràng và trầm
trọng. Bởi vậy, khi họ nói anh mắc bệnh ǵ
đó th́ lúc ấy đă quá muộn rồi. Y học Trung
Quốc, ngược lại, có thể phát hiện được cả
mầm bệnh. Ví dụ, nghe mạch và nh́n các ngón
tay của anh, tôi biết việc lưu thông máu của
anh có vấn đề. Nguyên nhân của vấn đề ấy nằm
ở tim. Hậu quả của vấn đề ấy lại càng nguy
hiểm hơn, nó có thể ảnh hưởng đến cả gan và
thận của anh. Không điều trị sớm th́ một
ngày nào đó, anh sẽ thấy trong thân thể của
anh ở đâu cũng có bệnh cả. Mà lúc ấy, việc
điều trị trở thành quá muộn.
Tôi hỏi:
- Nếu muốn
điều trị từ bây giờ th́ phải làm thế nào?
Ông rút từ
xấp tài liệu một danh sách thuốc và nói:
- Chúng tôi
có bán một số thuốc Bắc được chế biến dưới
h́nh thức viên như thuốc Tây. Anh chỉ cần
uống bốn hộp trong hai tháng, các triệu
chứng bệnh sẽ khỏi.
- Giá mỗi
hộp thuốc là bao nhiêu?
Trước khi
trả lời, ông nhấn mạnh: Đó là những loại
thuốc quư hiếm, được tinh chế theo các công
thức từ ngàn đời và không thể t́m mua ở đâu
khác ngoài Viện Y dược nơi ông đang làm việc
cả. Cuối cùng, sau khi tôi gặn hỏi, ông mới
cho biết: mỗi hộp (30 viên) tương đương với
50 đô Úc. Bốn hộp, như vậy, khoảng 200 đô.
Tôi cám ơn ông và bảo tôi sẽ suy nghĩ. Ông
thúc ép: “Anh không có nhiều th́ giờ để suy
nghĩ, bởi v́, lát nữa, anh sẽ đi thăm những
nơi khác, không có cơ hội để trở lại. Mà
thuốc của chúng tôi th́ không thể t́m thấy ở
bất cứ ở đâu khác.” Tôi lại cám ơn và bước
ra ngoài.
Ở ngoài, đă
có khá nhiều người khám bệnh xong. Có thể
chia họ thành ba nhóm theo ba phản ứng khác
nhau: Một nhóm, rất hể hả, khoe vừa mua một
đống thuốc, có khi trị giá đến trên một ngàn
đô, và như vậy, vấn đề sức khỏe của họ coi
như giải quyết xong, không c̣n phải lo lắng
ǵ nữa. Một nhóm khác, hoàn toàn không tin,
kể lại những lời phán của thầy thuốc như một
chuyện hài hước. Nhóm thứ ba, thường là từng
cặp, mặt mày bí xị, nếu không căi cọ th́
cũng lườm nguưt nhau. Họ đều nói tiếng Tàu
nên tôi không hiểu. Một người bạn trong
nhóm, cũng người Tàu nhưng ở Mỹ, dịch sang
tiếng Anh cho tôi nghe: Mấy bà vợ muốn mua
thuốc; mấy ông chồng lại ngăn cản. Vợ bèn
chửi chồng là ích kỷ, thấy vợ bị bệnh sắp
chết mà tiếc tiền không chịu mua thuốc theo
lời bác sĩ dặn!
Sự căng
thẳng giữa các cặp vợ chồng ấy dường như kéo
dài cả ngày sau đó. Vợ th́ hậm hực; c̣n
chồng th́ đăm chiêu. Không khí trong xe im
ắng hẳn.
Những ngày
sau, ngày nào chúng tôi cũng được chở đến
một nơi nào đó để mua sắm. Cũng những lối
quảng cáo như thế. Và cũng có những hục hặc
trong các gia đ́nh du khách về chuyện người
th́ muốn mua và người th́ muốn ngăn cản như
thế. Hàng ngày.
Chỉ xin kể
hai chuyện chính.
Trước khi
đến Tô Châu, chúng tôi được chở đến một vườn
trà (chè) nghe nói là rất nổi tiếng ở Trung
Quốc. Trà được trồng trên những ngọn đồi
trùng trùng điệp điệp. Xanh ngắt. Giữa những
ngọn đồi ấy là một ṭa nhà khá đồ sộ. Chúng
tôi được mời vào pḥng vừa uống trà vừa nghe
một người được giới thiệu là giáo sư nói
chuyện. Ông nói về lịch sử trà và văn hóa
uống trà của người Trung Hoa. Ông nói về lai
lịch vườn trà chúng tôi đang thăm viếng. Đặc
biệt, ông nói về một trong những công dụng
quan trọng của trà mà thế giới chưa biết:
trị ung thư. Ông khoe ông đang viết một cuốn
sách về việc đó. Sách đă được một nhà xuất
bản lớn bên Mỹ đồng ư xuất bản. Rồi ông
chứng minh công dụng của trà bằng cách lấy
một nắm gạo đổ vào một cái ly thủy tinh. Sau
đó ông lấy một lọ nước màu đỏ mà ông cho
biết là những chất độc thường thấy trong
việc chế biến thức ăn ở Trung Quốc và Việt
Nam. Ông đổ lọ nước ấy vào ly gạo. Gạo đang
trắng biến thành màu đen ngay tức khắc. Đen
thui. Như nước trong các ống cống ở Việt
Nam. Ông nhấn mạnh: Đây chính là nguyên nhân
gây ra bệnh ung thư trầm trọng ở các nước
đang phát triển. Rồi ông hỏi xin từ đám du
khách một b́nh nước lọc họ mang theo uống.
Ông rót nước ấy vào ly gạo. Ly gạo vẫn đen
thui. Ông lại lấy b́nh trà rồi rót nước trà
vào ly, lấy đũa khoắng qua khoắng lại vài
cái: nước trong ly đang đen ng̣m bỗng trở
thành trong suốt. Bao nhiêu chất đen lắng
hết xuống đáy. Ông giơ ly lên cho mọi người
xem:
“Quư vị thấy
chưa? Trong thực phẩm quư vị ăn hàng ngày,
có bao nhiêu là độc tố. Chỉ cần uống trà này
vào, mỗi ngày vài lần, bao nhiêu độc tố ấy
sẽ bị đào thải hết ra ngoài. Bà con không
c̣n bị họa ung thư đe dọa nữa!”
Rồi ông giải
thích thêm: Không phải trà nào cũng có tác
dụng thần kỳ như vậy. Chỉ có trà ở nơi chúng
tôi đang thăm viếng mới được như vậy mà
thôi. Lư do là v́ chất đất và chất nước ở
địa phương. Bởi vậy, người ta không thể sử
dụng trà ở bất cứ đâu khác để thay thế. Nếu
không mua trà ở đây, bà con sẽ mất đi một cơ
hội ngàn vàng để ngăn chận ung thư và nhiều
thứ bệnh hiểm nghèo khác!
Thế là nhiều
người trong đoàn du lịch, nhất là những
người lớn tuổi, mua ào ào. Mà giá trà không
rẻ chút nào cả. Nửa kư trà xanh giá 750 nhân
dân tệ, tức khoảng 120 đô Mỹ! Nhiều người
mua đến cả mấy kư để trữ!
Ở Hàng Châu,
chúng tôi được chở vào một tiệm cẩm thạch
rất lớn. Người đại diện tiệm tự giới thiệu
là giáo sư, em trai của chủ nhân. Ông nói
rất dông dài, cả gần một tiếng đồng hồ, bằng
tiếng Quảng Đông. Một người bạn đứng bên
cạnh thầm th́ dịch lại sang tiếng Anh cho
tôi hiểu. Đại khái, ông biết tất cả những
người trong đoàn (khoảng 60 người) đều là
người gốc Hoa từng ở hoặc Việt Nam hoặc
Trung Quốc ra sống ở nước ngoài. Ông thông
cảm với tâm trạng và cuộc sống của họ. Bởi
chính ông cũng là một người như thế. Ông
sinh ra ở Việt Nam, trong một gia đ́nh gốc
Hoa. Chiến tranh Trung Việt xảy ra, cả gia
đ́nh ông bị đuổi về Trung Quốc. Không thích
chế độ cộng sản, nhưng gia đ́nh ông không
c̣n chọn lựa nào khác. May, ở Trung Quốc,
nhờ bố ông có nghề làm nữ trang nên càng
ngày càng làm ăn phát đạt. Nhưng ông không
thích buôn bán. Ông chọn con đường khác:
nghiên cứu và trở thành giáo sư. Mỗi năm ông
thường dạy học ở Trung Quốc nửa năm và sang
Singapore dạy học nửa năm. Ở Singapore, ông
dạy học bằng tiếng Hoa và tiếng Anh; sinh
viên ngoại quốc rất thích. Hôm nay, v́ người
anh cả của ông đi Mỹ họp hành trong một
tháng, ông thay mặt anh để trông nom cửa
tiệm. Rồi ông nhấn mạnh: vốn là một học giả,
lại thông cảm với tâm trạng của những người
tị nạn cộng sản sống xa quê hương, ông không
xem chuyện lời lỗ là điều quan trọng. Ông
quyết định giảm giá đặc biệt cho đoàn du
lịch: 90%! Mọi người trong đoàn du lịch vỗ
tay rầm rầm!
Lúc ông nói
xong, mọi người đổ xô đi chọn hàng. Người
th́ mua nhẫn; người th́ mua ṿng đeo tay
hoặc đeo cổ; người th́ mua những vật trang
trí h́nh thú vật hoặc hoa trái để về bày
trong tủ kính ở nhà.
Nghe ông
giáo sư giới thiệu sinh ra ở Việt Nam, tôi
lân la đến nói chuyện. Tôi hỏi: “Anh biết
nói tiếng Việt hả?” Ông ngơ ngác không hiểu
ǵ cả. Tôi hỏi lại, thật chậm: “Anh sinh ra
ở Việt Nam hả?” Ông cũng không hiểu. Tôi
chuyển sang tiếng Anh: “Can you speak
Vietnamese?” Ông cũng ngơ ngác không hiểu.
Một người đứng bên cạnh, vốn là Hoa kiều ở
Mỹ, dịch sang tiếng Tàu. Ông nghe xong rồi
gật gật: “Việt Nam! Việt Nam!” Rồi lỉnh đi
chỗ khác.
Vài phút sau,
ông biến mất ra khỏi pḥng. Chỉ c̣n lại các
nhân viên đang tất bật bán hàng cho du khách.
Mấy ngày sau, ở Thượng Hải, một chị trong
đoàn, sau khi đi gặp một người bạn cũ từ
Hồng Kông về Trung Quốc làm việc, báo tin
buồn cho cả đoàn: chiếc ṿng đeo tay chị mua
với giá 800 đô Mỹ là cẩm thạch giả!