|
Người Việt Chúng
Tôi rất lo ngại...
Gần đây dư luận Việt Nam sôi nổi v́ bỗng được hỏi ư
kiến về một dự thảo chương tŕnh dạy tiếng Hoa bốn tiết một tuần ở cấp
tiểu học và trung học đăng trên trang thông tin điện tử của Bộ Giáo Dục
và Đào Tạo.
Trước phản ứng kinh ngạc sững sờ của người dân, trang
điện tử của Bộ Giáo Dục vội vàng giải thích, rằng “Đối tượng áp dụng là
học sinh dân tộc Hoa cấp tiểu học và trung học cơ sở đang sinh sống ở
Việt Nam.”
Mọi người bớt thắc mắc về chương tŕnh giáo dục này,
nhưng phải tự hỏi: Tại sao người Việt ḿnh lại phản ứng mạnh mẽ như vậy
trước một chương tŕnh dạy ngoại ngữ? Tại sao các trường vẫn bắt học
sinh phải tập nói tiếng Anh rất sớm th́ không ai nói ǵ, đụng tới tiếng
Trung Hoa th́ cả làng cả nước xôn xao?
Trong một bài viết đang được phổ biến rất rộng răi
trên các mạng điện tử, nhà văn Song Chi đă nêu ra đầy đủ các lư do khiến
người Việt Nam bị “dị ứng, cảnh giác quá độ,” trước bản thông tư gây
hiểu lầm trên. Hiểu rơ các nguyên do đó, sau khi nghe Bộ Giáo Dục nói
rằng, “Phạm vi áp dụng: môn học tiếng Hoa là môn học tự chọn dành cho
học sinh dân tộc Hoa có nguyện vọng;” hầu như không ai thấy cần bàn tán
thêm nữa.
Nhưng thực ra, vẫn c̣n rất nhiều điều đáng thắc mắc.
Thắc mắc ở ngay những lời giải thích rằng dạy tiếng Hoa là “môn học tự
chọn dành cho học sinh có nguyện vọng muốn học.” Hơn nữa, đó chỉ là
những “học sinh dân tộc Hoa cấp tiểu học và trung học cơ sở đang sinh
sống ở Việt Nam.”
Thắc mắc đầu tiên là những “học sinh dân tộc Hoa đang
sinh sống ở Việt Nam” là các em nào? Có phải là con em của các người
Trung Quốc đang làm việc tại Việt Nam hay không? Hay là các em gốc Hoa
mà cha mẹ sinh sống ở Việt Nam, có thể từ nhiều đời, và đă chính thức
thành công dân Việt. Nếu là trường hợp thứ nhất, th́ cha mẹ các em thuộc
loại di dân hợp pháp hay không? Nếu di dân hợp pháp, th́ tại sao con em
của họ lại được biệt đăi như vậy, so với con em của những người ngoại
quốc khác cũng đang làm việc tại nước ta? Thông thường, di dân ở một
nước thường lo giáo dục tiếng mẹ đẻ cho con cái họ. Người Việt ở Mỹ, ở
Pháp vẫn mở các trường dạy Việt ngữ khắp nơi. Họ hoàn toàn tự do, và lo
lấy, không tiêu đến đồng nào trong ngân sách nhà nước sở tại. Ít có nơi
nào lại được cơ quan chính phủ lo đặt chương tŕnh dạy tiếng Việt trong
các trường công, trừ khi di dân thỉnh cầu, với số người quy tụ rất đông
đảo trong cùng một khu vực. Nếu một học khu đă đồng ư cho dạy tiếng Việt
ở trường công, do chính phủ đài thọ, th́ nhà trường sẽ bị bắt buộc phải
dạy tiếng mẹ đẻ cho con em các di dân hợp pháp gốc từ các nước khác.
Thường các chương tŕnh dạy tiếng mẹ đẻ của di dân vẫn được chính quyền
gốc của họ hỗ trợ công khai. Chính phủ Nam Hàn giúp các lớp dạy tiếng
Hàn Quốc; chính phủ Nhật tài trợ các lớp dạy tiếng Nhật; mọi việc giúp
đỡ đều được hoan nghênh mà không ai nghi ngại một ẩn ư chính trị nào cả.
Ở Việt Nam, ngoài chương tŕnh dạy tiếng mẹ đẻ cho
các học sinh gốc Hoa, có di dân từ nước nào khác được quyền dạy trẻ em
của họ tiếng mẹ đẻ trong trường công lập Việt Nam hay không? Tại sao lại
ưu đăi người Trung Quốc?
Nếu đối tượng của chương tŕnh dạy tiếng Hoa là những
“học sinh dân tộc Hoa,” tức là con em của những người Việt gốc Hoa, đă
là nhóm thiểu số trong dân Việt, có thể sống vĩnh viễn ở Việt Nam, th́
chương tŕnh dạy tiếng Hoa cho họ cũng gây một t́nh trạng bất công khác.
Tại sao không thấy chương tŕnh dạy tiếng gốc tổ tiên, tiếng mẹ đẻ cho
những trẻ em Việt gốc Khmer hay gốc Champa? Trong nước Việt Nam có bao
nhiêu nhóm dân tộc thiểu số. Khi so sánh th́ thấy người gốc Hoa xưa nay
dễ hội nhập, dễ đồng hóa, v́ văn hóa, phong tục, tín ngưỡng giống người
Việt hơn cả. Họ đi đâu cũng sống được cho nên con cháu họ có thể nhanh
chóng trở thành người Việt trong vài thế hệ. Chính các đồng bào gốc Chàm
hay gốc Khơ Me hội nhập khó hơn, v́ phong tục, tôn giáo không giống
người Việt.
Như vậy th́ tại sao lại chiếu cố đặc biệt tới các
đồng bào gốc Hoa như vậy? Điều đáng lo là chính chương tŕnh dạy tiếng
mẹ đẻ cho các trẻ em gốc Hoa sẽ làm quá tŕnh hội nhập và đồng hóa của
các em bị chậm lại. Việt Nam muốn chọn làm một quốc gia đa chủng, như
Canada (hai ngôn ngữ chính), Thụy Sĩ (bốn ngôn ngữ chính), Ấn Độ (hàng
trăm ngôn ngữ); hay muốn giống các quốc gia thuần nhất, chỉ dùng một
ngôn ngữ chính thức? Nếu theo mô h́nh thứ nh́, th́ tại sao lại nâng cao
địa vị của một tiếng Hoa trong nền giáo dục Việt Nam như vậy?
Thời cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, chính phủ Việt Nam
Cộng Ḥa đă có một kế hoạch thúc đẩy tiến tŕnh hội nhập và đồng hóa của
người Việt gốc Hoa. Dụng ư này được đưa ra minh bạch công khai, không
che đậy ǵ cả. Tên người Hoa khai sinh phải viết theo lối Việt Nam, theo
âm chữ Hán Việt chứ không theo các thổ âm Trung Quốc. Các trường của Hoa
kiều đều phải dạy tiếng Việt làm ngôn ngữ chính. Các văn kiện hành
chánh, hợp đồng, các bảng hiệu phải viết bằng tiếng Việt. Luật lệ này
rất giống các đạo luật ở Québec trong thập niên 1970, bắt phải dùng
tiếng Pháp, để bảo vệ ngôn ngữ xứ này trước cảnh “xâm lấn” của tiếng
Anh. Một kết quả của kế hoạch Ngô Đ́nh Diệm, là sau 20 năm, ai vào Chợ
Lớn thấy phong cảnh đă Việt Nam hóa, không c̣n là một thành phố Trung
Hoa như trước nữa. Nhiều người Việt gốc Hoa sau đó đă hoàn toàn hóa
thành người Việt, họ không tơ tưởng ǵ về tổ quốc thứ hai của họ nữa.
Tại sao bây giờ nước Việt Nam muốn đi ngược lại tiến
tŕnh trên? Tại sao lại t́m cách bảo vệ ngôn ngữ của một sắc dân thiểu
số, khiến cho sợi dây liên lạc giữa họ với nước tổ của họ bền chặt hơn?
Đây là một quyết định về chính sách quốc gia chứ không phải là một vấn
đề thuần túy giáo dục.
Chưa hết. Thông cáo của Bộ Giáo Dục nói chương tŕnh
dạy tiếng Hoa có tính cách tự nguyện; “cho học sinh có nguyện vọng;”
nhưng có điều nào giới hạn số học sinh xin học để không thu hút những
người Việt không phải gốc Hoa hay không? Bao nhiêu gia đ́nh người Việt
cũng đang muốn cho con học tiếng Hoa, họ có thể nhân cơ hội này cũng ghi
tên xin học. Các học sinh có cần chứng minh ḿnh là người gốc Hoa, hay
chỉ cần ghi tên xin học là đủ? Chứng minh như thế nào?
Hiện nay chính phủ Bắc Kinh đang phát triển mạng lưới
Viện Khổng Tử, đem truyền bá văn hóa và ngôn ngữ Trung Hoa khắp thế
giới. Họ có thể t́nh nguyện giúp việc dạy tiếng Hoa ở Việt Nam, giống
như họ đang thí nghiệm tại một số trường tiểu học và trung học tại
California, và khắp nơi khác trên thế giới. Thử tưởng tượng có ngày Viện
Khổng Tử sẽ khuyến khích các trẻ em ở Việt Nam học tiếng Hoa bằng các
cuộc liên hoan, du lịch, các học bổng sang Tầu tập huấn thêm, chưa kể
các món quà tặng kẹo, bánh, đồng phục, thường xuyên! Họ đă có sẵn một
môi trường do Bộ Giáo Dục Việt Nam đặt nền tảng, ai dại ǵ mà không
thong thả bước vào “giúp” để khai thác?
Trong mười năm, hai chục năm, những học sinh học
tiếng Hoa đó sẽ đi làm. Họ có thể dần dần trở thành lớp người lănh đạo
trong nhiều nghề, nhiều ngành, nhiều cơ quan chính phủ ở nước ta. Họ có
thể được khuyến khích lập thành các hiệp hội, các đoàn thể; và sợi dây
liên lạc của họ sẽ được chính quyền Trung Quốc giúp cho thêm chặt chẽ.
Hiện đă có các công ty Trung Quốc đang được phép khai
thác tài nguyên rừng, mỏ của Việt Nam. Đă có hàng chục ngàn công nhân
Trung Quốc đang lập ra những khu cư trú biệt lập (như một thành phố
Trung Hoa). Lại thêm ư định của Bắc Kinh lập Đặc Khu Nam Hải để cai quản
cả Vùng Lưỡi Ḅ. Lại có một chính quyền Việt Nam lúc nào cũng khép nép,
nhũn nhặn với các “đồng chí anh em.” Nay lại có thêm một vài thế hệ
những bạn trẻ được học tiếng Hoa từ bậc tiểu học, nay mai sẽ lớn lên gia
nhập cuộc đời. Nói thật, trước viễn ảnh đó, người Việt chúng tôi rất lo
ngại!
Nêu lên mối lo ngại đó, rơ ràng là người viết vẫn
mang tâm lư “lấn cấn, dị ứng,” như nhà văn Song Chi mô tả. Muốn biết tại
sao một người Việt Nam, như kư giả này, lại “lấn cấn, dị ứng” như vậy,
xin quư vị cứ đọc bài của Song Chi, sẽ hiểu đầy đủ và rành mạch. Với
lịch sử hai ngàn năm đụng chạm, với kinh nghiệm trải qua các biến cố
trong nửa thế kỷ gần đây, người Việt Nam rất khó tránh khỏi những lấn
cấn, dị ứng khi đụng tới chuyện nào dính dáng với Trung Quốc.
Ngô Nhân Dụng
|
|