Những Nhạc Sĩ Vô Cùng Bất Hạnh

 

Đă có nhiều bài viết và nhận xét khác nhau của khán thính giả khắp nơi về chương tŕnh Asia 55 chủ đề “75 Năm Âm Nhạc Việt Nam, kỳ 2 – Hát Với Thần Tượng” được phát hành cách đây vài tuần. Theo ư kiến của đa số khán giả, DVD Asia 55 kỳ này đă đáp ứng được những đ̣i hỏi của mọi người như: mới lạ, rực rỡ về ánh sáng, màu sắc và âm thanh qua các tiết mục lồng trong những bài hát có quen, có lạ, có mới, có cũ, có vui, có buồn..v..v.. khiến cho người xem như bị lôi cuốn từ đầu tới cuối. Thêm một lần nữa, Trung Tâm Asia đă cống hiến cho chúng ta một tác phẩm thật tuyệt vời và đầy giá trị về nghệ thuật cũng như lịch sử của nền âm nhạc Việt Nam. Tuy nhiên, sau khi xem xong cuồn DVD Asia 55 này, những cảm xúc và ấn tượng để lại trong đầu (khiến cho nhiều người băn khoăn, suy gẫm) lại là những ǵ? Có thể nói đó chính là những h́nh ảnh khó quên của vài nhạc sĩ xuất hiện trong Asia 55 qua những đoạn video clips phỏng vấn ngắn ngủi nhưng vô cùng quư hiếm. Tiêu biểu nhất vẫn là những nhạc sĩ Văn Cao, Trúc Phương, Thăng Long, Đỗ Lễ, Châu Kỳ, Nguyễn Văn Tư … Cho dù họ đă ĺa trần hay c̣n sinh sống ở quê nhà, nhưng họ có một điểm chung là đă làm “kiếp tằm nhả tơ” để đem đến cho đời biết bao ca khúc tuyệt vời suốt mấy chục năm qua. Nhưng đàng sau những tác phẩm “để đời” ấy là những quăng đời u tối, nhọc nhằn và phần số vô cùng nghiệt ngă mà ít có ai ngờ tới.

 

Qua cuồn DVD Asia 55 kỳ này, lần đầu tiên chúng ta được nghe và biết chút ít về những nhạc sĩ khá bất hạnh nêu trên, nhưng c̣n biết bao nhiêu câu chuyện khác về họ mà chúng ta chưa biết và cũng không hề thấy đề cập đến trong những đoạn phim phỏng vấn. T́m hiểu thêm về cuộc đời của họ, chúng ta lại càng đau xót nhiều hơn cho những kiếp đời mà tạo hóa đă “bắt phong trần, phải phong trần” cho đến mức tang thương cùng tận. Vậy mà số phận của họ vẫn đúng là cái số “con tằm đến thác vẫn c̣n vương tơ” ?

 

Xin cùng nhau t́m hiểu thêm nơi đây vài quăng đời bi thương và tiêu biểu của những nhạc sĩ đă xuất hiện trong DVD Asia 55 chủ đề “75 Năm Âm Nhạc Việt Nam, kỳ 2”:

http://files.myopera.com/diemxuacafe/blog/truc%20phuong.jpg

Nhạc sĩ Trúc Phương

 tên thật là Nguyễn Thiện Lộc. Ông sanh năm 1939 tại xă Mỹ Hoà, quận Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh (Vĩnh B́nh) ở vùng hạ lưu sông Cửu Long, miền Nam Việt Nam. Cha ông là một nhà giáo sống thầm lặng và nghiêm khắc. Nhưng tâm hồn của chàng trai Thiện Lộc th́ rất lăng mạn, ...


Yêu thích văn nghệ nên đă tự học nhạc, và bắt đầu sáng tác những bài hát đầu tiên lúc vừa 15 tuổi. Xung quanh nhà ông có trồng rất nhiều tre trúc, nên từ nhỏ ông đă yêu mến những âm thanh kẽo kẹt của tiếng tre va chạm với nhau và sau này đă chọn tên là Trúc Phương để nhớ về thời thơ ấu của ông với những cây tre trúc. Cuối thập niên 1950, ông sinh hoạt văn nghệ với các nghệ sĩ ở ty Thông Tin tỉnh Vĩnh B́nh một thời gian ngắn, rồi lên Sài G̣n dạy nhạc và bắt đầu viết nhạc nhiều hơn. Bài hát “Chiều Làng Quê” được ông sáng tác vào thời gian này để nhớ về khung cảnh thanh b́nh ở làng xóm của ông(do Phương Hoài Tâm, Phương Hồng Quế, Phương Hồng Ngọc tŕnh bày trong Asia 55),một bài khác cũng rất nổi tiếng với giai điệu trong sáng, vui tươi là “T́nh Thắm Duyên Quê”.


Không tiền bạc và không một ai thân quen ở đô thành Sài G̣n, ban đầu Trúc Phương ở trọ trong nhà một gia đ́nh giàu có bên Gia Định và dạy nhạc cho cô con gái của chủ nhà. Không bao lâu sau th́ cô gái này đă yêu chàng nhạc sĩ nghèo tạm trú trong nhà, v́ con tim cô ta đă dần dần rung động trước tài năng của Trúc Phương. Biết được chuyện này, ba mẹ của cô gái bèn đuổi Trúc Phương đi nơi khác. Sau chuyện t́nh ngang trái này, Trúc Phương càng tự học thêm về âm nhạc và càng sáng tác hăng hơn. Nhưng những bài hát sau này lại nghiêng về chủ đề t́nh yêu đôi lứa với những nghịch cảnh chia lià.

Trúc Phương sáng tác rất dễ dàng, nhưng với bản tính trầm lặng, bi quan và khép kín sau những cuộc t́nh dang dỡ, những bài hát sau này của ông thường mang âm điệu u buồn, thê lương như phảng phất nỗi sầu của cổ nhạc miền Nam . Nổi tiếng nhất là “Nửa Đêm Ngoài Phố” với tiếng hát liêu trai Thanh Thúy. Sau đó là “Buồn Trong Kỷ Niệm” với những câu hát đớn đau, buốt nhói tim gan người nghe như “Đường vào t́nh yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn. Đôi khi nhầm lẫn đánh mất ân t́nh cũ, có đau chỉ thế, tiếc thương chỉ thế. Khi hai mơ ước không chung lối về …”. Có người cho là bài hát này ông đă viết ra sau khi bị thất t́nh một cô ca sĩ lừng danh thời đó.


Nhạc của Trúc Phương có một giai điệu rất đặc biệt của riêng ông, mà khó lầm lẫn với người khác được.Nhạc của ông có âm hưởng cổ nhạc miền nam,Nó có vẻ trầm buồn, ray rức, ưu tư trước thời cuộc dạo đó (là chiến tranh triền miên) và buồn phiền v́ những mối t́nh dang dở, trái ngang. Nên khi soạn ḥa âm cho những bài hát của Trúc Phương, nhạc sĩ ḥa âm phải sử dụng ít nhất là một trong vài loại nhạc khí cổ truyền của miền Nam như đàn bầu, đàn tranh, hay đàn c̣ (hoặc violon) th́ mới có thể diễn tả hết cái hay của gịng nhạc Trúc Phương và người nghe lại càng thấm thía với nỗi muộn phiền, nhức nhối tim gan của ông sau này.


Điều trớ trêu là tuy tên tuổi và tài năng sáng chói, nổi bật so với những người viết nhạc thời bấy giờ, nhưng t́nh duyên của nhạc sĩ Trúc Phương th́ vô cùng lận đận. Khoảng năm 1970, Trúc Phương được một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp, cao sang đài các đem ḷng yêu thương ông, do sự rung cảm truyền đạt từ tài năng và những tác phẩm tuyệt vời của ông. Kết cuộc là cả hai đă nên duyên chồng vợ. Tuy sống trong cảnh nghèo nàn, nhưng đời sống của họ rất là nghệ sĩ. Đó là những năm tháng hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Trúc Phương và sức sáng tạo nghệ thuật của ông càng sung măn hơn bao giờ hết với hàng chục bài hát ra đời mỗi năm. Nhưng niềm vui của đôi uyên ương này lại không kéo dài được lâu bền. Bởi v́ sau một thời gian chung sống với nhau, những t́nh cảm ban đầu trở nên phai lạt dần theo năm tháng và hai người đă lặng lẽ chia tay nhau. Câu hát ngày nào lại rơi đúng vào trường hợp này “khi hai mơ ước đă không cùng chung hướng về” và “đường vào t́nh yêu có trăm lần vui, nhưng có vạn lần buồn” ? Giờ th́ nhạc sĩ Trúc Phương âm thầm đau khổ trong cô đơn và lại vùi đầu vào men rượu để sáng tác thêm nhiều bài hát trong nỗi đau thương cùng cực, pha chút chán chường cho nhân t́nh thế thái.

Bạn bè thường gặp ông ngồi yên lặng bên những ly rượu nơi một quán nhỏ ở đường Tô Hiến Thành, quận 10, gần nhà của ông. Có lẽ đó là một cách làm cho nhạc sĩ tạm quên đi những cay đắng của t́nh đời. Đó cũng chính là lúc bài hát “Thói Đời” được sáng tác với những câu như “Bạn quên ta, t́nh cũng quên ta, nên chung thân ta giận cuộc đời, soi bóng ḿnh bằng gương vỡ nát, nghe xót xa ngùi lên tṛng mắt”… và “Người yêu ta rồi cũng xa ta … “Cỏ ưu tư” buồn phiền lên xám môi …”. Thực ra phải nói là “cỏ tương tư” tức “tương tư thảo” là tên gọi văn hoa của thuốc lá. Khi những người đang yêu nhau, nhớ nhau, hẹn ḥ nhau th́ châm điếu thuốc thả khói mơ màng, nh́n rất thơ mộng và nghệ sĩ [ngó trên tay thuốc lá cháy lụi dần, anh nói khẽ gớm sao mà nhớ thế (Hồ Dzếnh). Nhưng đối với Trúc Phương trong “Thói Đời” th́ điếu thuốc lá “cỏ tương tư” lại biến thành ra “cỏ ưu tư” làm cho đôi môi trở nên màu xám xịt qua những nỗi đau thương, nhung nhớ ngập tràn. Những giọt rượu nồng của cơi “trần ai” này lại càng gợi thêm “niềm cay đắng” để cho nỗi ưu tư “in đậm đường trần” và ông đă than thở “ḿnh c̣n ai đâu để vui ? khi trót sa vũng lầy nhân thế ”?

http://4.bp.blogspot.com/_kf2YP2xPVY0/StqhrVxWhvI/AAAAAAAAAEg/Ve6Ow1lVYfM/s320/TrucPh1995.jpg

Bài hát "Thói Đời" đă gây xúc động cho hàng triệu con tim cùng chung số phận nghiệt ngă của cuộc đời. Với riêng bản thân Trúc Phương th́ “Thói Đời” lại như là một lời tiên tri thật chính xác cho quăng đời c̣n lại của ông suốt gần 25 năm sau đó (1971-1995).

Sau năm 1975, Trúc Phương ở lại và sống tại Sài G̣n. Sự nghiệp sáng tác nhạc của ông dừng lại, tất cả những ca khúc của ông đều bị cấm phổ biến và tŕnh diễn.. Ông có vượt biên lần đầu năm 1976 nhưng không thành công.V́ vậy ông và gia đ́nh bị mất nhà ở tại số 301 Lư Thường Kiệt,Q.11 Những năm sau đó,ông đă nhiều lần vượt biên,bị bắt lại,và sống không nhà cửa. Không có nghề nghiệp ǵ trong tay, ông làm đủ mọi việc để sinh sống.Với hai bàn tay trắng, ông trở về quê cũ sống nhờ vả bạn bè, mỗi nơi một thời gian ngắn. Có người hỏi sao ông không về quê ở hẳn với thân nhân, Trúc Phương đă trả lời “Má của tôi th́ già yếu đang ở dưới quê Cầu Ngang (Trà Vinh), nhưng bà nghèo quá, lại phải nuôi đám cháu nheo nhóc, không đủ ăn … nên tôi không thể về đó để làm khổ cho bà thêm nữa .”


Ở dưới tỉnh nhà Trà Vinh với bạn bè xưa cũ một thời gian, Trúc Phương lại t́m đường về Sài G̣n. Ban ngày ông làm thuê, làm mướn đủ mọi thứ nghề và lang thang khắp nơi. Buổi tối ông đón xe về xa cảng miền Tây để thuê chiếc chiếu $1 ngả lưng qua đêm, như ông đă trả lời phỏng vấn trong đoạn video clip hiếm hoi mà vô cùng quư giá vào năm 1995. Ông tiếp tục cuộc sống thầm lặng tới năm 1996 th́ âm thầm ra đi, để lại cho đời những khúc nhạc buồn như chính cuộc đời ông, phản ảnh nhiều nỗi niềm khắc khoải của đám đông thanh niên thời chiến, những thập niên 1960 - 1970. Ông đă sống qua một thời vàng son của văn nghệ miền Nam.Nhiều trung tâm ca nhạc đă thu thanh, thu h́nh những bài hát của Trúc Phương ở hải ngoại nhưng chắc chắn là ít có người đă biết tin ông âm thầm từ giă cơi đời trong cảnh nghèo nàn, bi đát và cô đơn trong căn pḥng trọ tồi tàn, nhỏ hẹp ở quận 11, Sài G̣n vào ngày 18 tháng 9 năm 1995. Ông được những người quen, lối xóm chôn cất ở nghĩa trang Lái Thiêu. Ra đi trong nghèo túng, đau khổ như thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên ở Mỹ,Nhạc sĩ Trúc Phương đă để lại cho đời nhiều nhạc phẩm nổi tiếng trong kho tàng "nhạc vàng" miền Nam Việt Nam.Trúc Phương có một số lượng sáng tác rất lớn, được biết đến từ những năm cuối thập niên 1950 và được phổ biến nhất trong suốt thập niên 1960 và sau này tại hải ngoại như: Nửa đêm ngoài phố, Buồn trong kỷ niệm, Thói đời, Hai lối mộng, Kẻ ở miền xa...Nhiều nữ ca sĩ thành danh nhờ tŕnh bày những tác phẩm của ông như trường hợp Thanh Thuư. Qua đoạn video clip ngắn ngủi chỉ vỏn vẹn có 2 phút mà thôi nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên nhiều người trong chúng ta được thấy h́nh ảnh sống động và nghe chính giọng nói của nhạc sĩ rất nổi tiếng này tỏ bày tâm sự của ông.

 

Tác phẩm nổi tiếng :

1.Ai Cho Tôi T́nh Yêu  
2.Bông Cỏ May  
3.Bóng Nhỏ Đường Chiều  
4.Buồn Trong Kỷ Niệm 
 
5.Chắp Tay Lạy Người  
6.Chiều Cuối Tuần  
7.Chiều Làng Em  
8.Chín Ḍng Sông Ḥ Hẹn  
9.Chuyện Chúng Ḿnh 1 & 2  
10.Chuyện Ngày Xưa  
11.Con Đường Mang Tên Em  
12.Để Trả Lời Một Câu Hỏi 
 
13.Đêm Gác Trọ  
14.Đêm Tâm Sự  
15.Đ̣ Chiều  
16.Đôi Mắt Người Xưa  
17.Hai Chuyến Tàu Đêm  
18.Hai Lối Mộng  
19.24 Giờ Phép  
20.H́nh Bóng Cũ 
 
21.Kẻ Ở Miền Xa  
22.Lời Ca Nữ  
23.Mắt Em Buồn  
24.Sau Những Lần Gối Mỏi aka Tâm Sự Một Người Đi Xa 
25.Mưa Nửa Đêm  
26.Người Xa Về Thành Phố 

 
27.Người Xóm Cũ 
 
28.Những Lời Này Cho Anh  
29.Nửa Đêm Ngoài Phố 
30.Sau Lưng Kỷ Niệm  
31.Siết Chặt Bàn Tay 
 
32.Tàu Đêm Năm Cũ  
33.Thói Đời  
34.Thư Gửi Người Miền Xa aka Viết Thư T́nh 
35.T́nh Đêm Phố Cũ
 aka Phố Cũ Đêm Về 
36.T́nh Thắm Duyên Quê  
37.Trả Nhau Ngày Tháng Cũ  
38.Trên Bốn Vùng Chiến Thuật 

 
39.Tự T́nh Trong Đêm  
40.Xin Cảm Ơn Đời 

http://www.nhomai.vn/forum/anhnhomai/20344ab775ab549de.jpg


 

Nhạc sĩ Văn Cao (1923-1996):
 

Có một thi sĩ trong nước đă miêu tả chân dung nhạc sĩ Văn Cao bằng bốn câu thơ như sau:
 


 

"Thiên Thai từ giă về dương thế
Suối Mơ ngày ấy Buồn Tàn Thu

Sân đ́nh ngất nghểu ngôi Tiên Chỉ

Uống rượu say rồi hát Quốc Ca !"

 

Trong bài thơ này có bốn bản nhạc tiêu biểu nhất của nhạc sĩ Văn Cao là Thiên Thai, Suối Mơ, Buồn Tàn Thu và bài Quốc Ca của nước CHXHCN Việt Nam. Ngoài ra ông c̣n được giới văn nghệ sĩ miền Bắc đặt cho biệt danh “Cụ Tiên Chỉ”. (Thời phong kiến trước năm 1945, cụ Tiên Chỉ là chức vụ to nhất ở trong làng. Mỗi khi có hội họp, tế lễ, cụ Tiên Chỉ luôn luôn được mời ngồi chiếu trên). Tác giả của bài Tiến Quân Ca (Quốc Ca) có rất nhiều tài như hội họa, âm nhạc, làm thơ, viết văn phê b́nh … Trong vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm”, nhạc sĩ Văn Cao bị xếp vào thành phần lănh đạo. Biệt danh “Cụ Tiên Chỉ” là do giới văn nghệ sĩ đặt cho ông để chỉ tài năng đa dạng của ông, nhưng cái biệt danh này lại khiến cho chính quyền cộng sản gán cho ông, kết tội ông là người cầm đầu nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm” chỉ trích chế độ đương thời.
 

Ông bị treo bút, không được sáng tác, về làm người minh họa cho báo Văn Nghệ suốt hơn 30 năm, đến khi già ốm và chết vào năm 1996. Đă hàng chục năm dài, nhạc sĩ Văn Cao buồn cho thế sự, buồn cho t́nh đời, nên ông đành mượn chén rượu giải sầu. Tài uống “rượu suông” (uống rượu mà không có thức nhắm) của ông Văn Cao thật kinh người. Ông có thể ngồi uống hàng lít rượu mà vẫn không say, vẫn tỉnh táo như thường.
 

Trong chương tŕnh Asia 55, chúng ta được xem một đoạn video clip của nhạc sĩ Văn Cao trả lời phỏng vấn năm 1995 trước khi ông mất, về những bài hát thời tiền chiến của ông với thật nhiều kỷ niệm luyến tiếc. Thần trí ông thật minh mẫn và ông đă kể lại rành mạch từng cảm xúc của ông khi sáng tác những bài hát này cách đây hơn 60 năm.
 


 

Có một giai thoại do chính người con trai thứ ba của ông là kỹ sư xây dựng Nguyễn Nghiêm Bằng (sanh năm 1951) kể lại cho một người bạn và được giới văn nghệ sĩ miền Bắc truyền tụng sau này là: Vào lúc Văn Cao bị “đánh tả tơi” sau vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm” th́ bà Nghiêm Thúy Băng - vợ của ông – đă có lần mắng vào mặt mấy “thằng bạn chí cốt” của chồng, giờ đang nắm chức cao quyền trọng như sau:
 

“Các ông ghen tài rồi thù chồng tôi ..các ông kỷ luật anh ấy … nhưng chồng tôi vẫn là người được nhân dân tôn kính …Khi bài “Tiến Quân Ca” của anh ấy cất lên, ngay cả các ông vẫn phải gục đầu xuống !”. (trích từ cuốn “Nhận Diện Chân Dung Nhà Văn” của Lư Hồng Xuân, Văn Nghệ, California, USA, 2000)
 

(H́nh bà Văn Cao và nhạc sĩ Văn Cao ở nhà riêng, 1994)
 

Trước kia, giới văn nghệ sĩ ở Hà Nội vẫn thường than thở với nhau là nhạc sĩ Văn Cao là tác giả duy nhất của bài Quốc Ca (so với những tác giả Quốc Ca khác trên thế giới) vẫn c̣n sống sót được trong suốt 50 năm (1945-1995), nhưng lại là người bị chế độ trù dập và phải cư trú trong một căn nhà rất tồi tàn, nghèo khổ, xoàng xĩnh nhất ở thủ đô Hà Nội.(Nghĩa la không được chính quyền ưu đăi ǵ cả so với công lao của ông).
 

Khoảng năm 1993, bỗng dưng giới sinh hoạt văn nghệ Hà Nội được tin sẽ có một buổi lễ kỷ niệm “Nửa Thế Kỷ Âm Nhạc VN” nhằm vinh danh các nhạc sĩ đă đóng góp vào kho tàng âm nhạc VN. Buổi lễ được thực hiện rất trang trọng tại nhà hát lớn Hà Nội với nhiều viên chức chính quyền và quan khách ngoại quốc tham dự. Đến tiết mục thứ 13, ban tổ chức cho hát bài “Làng Tôi” và mời tác giả là nhạc sĩ Văn Cao lên sân khấu để ban tổ chức trao tặng bó hoa danh dự. Khán giả nồng nhiệt vỗ tay rào rào hàng chục phút. Nhưng mọi người chờ hoài mà không thấy nhạc sĩ Văn Cao đâu cả . Có người nói là :” Ông Văn Cao đ̣i thay tiết mục, ông đề nghị hát bài “Thiên Thai” không được, nên buồn bực không tới dự, v́ ban tổ chức đă tự ư chọn bài “Làng Tôi” (1947) của ông sắp xếp vào chương tŕnh.(trích “Vài Câu Chuyện Làng Văn Hà Nội” kư sự văn học của Lư Kiệt Luận, California, USA, 1994)


 

Nhạc sĩ Đỗ Lễ (1941-1997):
 

Trường hợp mất đi của nhạc sĩ Đỗ Lễ cũng khá thương tâm. Ông đă cống hiến hầu hết cuộc đời tài hoa của ḿnh cho âm nhạc, cho t́nh yêu và đă để lại cho đời những bài hát thật tuyệt vời về những cuộc t́nh trái ngang, phụ phàng, cay đắng. Nhưng cuối cùng ông lại tự kết liễu đời ḿnh bằng một liều thuốc độc trong một căn pḥng khách sạn khi từ Mỹ trở về thăm quê hương (tháng 3 năm 1997)
 


 

Tên thật của ông là Đỗ Hữu Lễ, sinh ngày 12-10-1941 tại Hà Nội. Học tiểu học trường Hàng Vôi, trung học Chu Văn An (1952), Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài G̣n (1953), Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định (1954), Đại Học Khoa Học Sài G̣n (1959), Đại Học Luật Khoa Sài G̣n (1963). Tự học nhạc năm 1951 và bắt đầu sáng tác từ năm 1956 khi vừa tṛn 15 tuổi. Tuyệt vọng v́ yêu một ca sĩ (Lệ Thanh) nhưng không được đáp lại và khi nàng lên xe hoa th́ ông sáng tác bài Sang Ngang rất nổi tiếng sau này và đă làm cho biết bao nữ sinh rơi nưóc mắt.

 


 

“Thôi nín đi em
Lệ đẫm vai rồi
Buồn thương nhớ ai…

Mai bước sang ngang

Ḷng thêm nát tan

T́nh đă dở dang…

Thôi khóc làm ǵ

Đă lỡ duyên thề
Thương nhau làm chi…

Nỗi buồn ai hay

Khi ḿnh chia tay

Xa cách nhau rồi …”


Lúc đó có nữ ca sĩ (Y. X ) đă tŕnh bày lần đầu tiên bài hát này ở các pḥng trà và sau đó đă trở thành bà Đỗ Lễ. Tuy nhiên cuộc t́nh của họ chỉ kéo dài được 6 năm và tan vỡ sau khi họ có với nhau ba mặt con. (Sau này người vợ của nhạc sĩ đă ôm cầm sang thuyền khác và đă định cư ở Mỹ).
 

Trước đó nhạc sĩ Đỗ Lễ có phụ trách một chương tŕnh ca nhạc trên đài Truyền H́nh ở Sài G̣n hàng tuần mang tên là “Thời Trang Nhạc Tuyển”. Chương tŕnh này quy tụ các ca sĩ như Hoàng Oanh, Khánh Ly, Thanh Lan, Phương Hồng Hạnh, Ngọc Minh, Thanh Tuyền, Giao Linh, Hương Lan, Caroll Kim, Hoài Xuân, Xuân Đào, tam ca Sao Băng, 3 Con Mèo, 3 Trái Táo …Đặc biệt là chính Đỗ Lễ lại là người hoạ sĩ vẽ trang trí cho sân khấu những show truyền h́nh của ông, nên ông được nhiều người gọi là họa sĩ “Sang Ngang” như tên một bài hát của ông.
 

Sau khi chia tay với người vợ đầu, thời gian cô đơn này nhạc sĩ Đỗ Lễ quá đau thương, nên ông đă sáng tác nhiều bản nhạc nghe rất năo ḷng như T́nh Phụ. Chính bản nhạc này đă được hăng phim của Thẩm Thúy Hằng chọn làm nhạc chủ đề cho phim “Nàng” với tiếng hát của Carol Kim. Trong chương tŕnh Asia 55, bài hát này đă được Nguyên Khang và Y Phương tŕnh bày rất điêu luyện qua từng lời ca than oán và nét mặt ưu sầu của họ đă đă diễn tả rất chính xác tâm trạng đau buồn của nhạc sĩ và hàng triệu người khác có cùng chung một tâm sự suốt mấy chục năm qua.Sau năm 1975, nhạc sĩ Đỗ Lễ sinh sống bằng cách mở lớp dạy nhạc tại Sài G̣n. Đến năm 1994 nhạc sĩ Đỗ Lễ được thân nhân băo lănh qua Mỹ định cư tại thành phố Philadelphia, tiểu bang Pennsylvania. Nhưng đời sống nơi xứ lạ này không làm ông yên tâm hay thoải mái như bao nhiêu người khác, mà ông lại một ḿnh quay về chốn cũ, với nhiều kỷ niệm xưa để tự kết liễu đời ḿnh ở đó trong cô đơn, thất vọng năo nề như những lời tiên tri trong các bài hát của ông ?
 


 

Nhạc sĩ Thăng Long (1937- ):
 

Nếu không có những người phóng viên của Trung Tâm Asia và đài truyền h́nh SBTN về tận Việt Nam t́m kiếm và quay phim, phỏng vấn nhạc sĩ Thăng Long th́ ít ai c̣n biết đến tung tích của ông.

 


Tuy là một nhạc sĩ nổi tiếng cùng thời và cùng lứa tuổi với những nhạc sĩ khác như Duy Khánh, Lam Phương, Thanh Sơn, Trúc Phương …nhưng hầu như sau này ít ai c̣n nhớ đến tên của nhạc sĩ Thăng Long. Có lẽ v́ đời sống của ông khá b́nh dị và ông thích kiếp sống giang hồ như những bài hát của ông sáng tác cách đây hơn 40 năm như Kiếp Giang Hồ, Giă Từ Gác Trọ, Trở Về Gác Trọ ...
 

Cuộc đời của ông thật quá phong trần. V́ ngay sau khi chào đời vào năm 1936 ở tỉnh Hải Dương, miền Bắc th́ ông đă mồ côi mẹ . Năm 15 tuổi th́ chàng thanh niên tên Nguyễn Văn Thành lại mồ côi cha. Một ḿnh lưu lạc vào Nam, ông phải lang thang kiếm sống bằng cây đàn với một nhạc sĩ mù hát dạo khắp đô thành. Vậy mà năm 1963 ông đă thành trưởng ban của một ban nhạc mang tên Hồ Gươm, chuyên tŕnh diễn trên đài phát thanh Tiếng Nói Quân Đội ở Sài G̣n với nhiều ca sĩ tên tuổi đương thời. …
 

 


 

Nh́n tấm h́nh chụp của nhạc sĩ Thăng Long vào năm 1965 qua dáng dấp trẻ trung, nhưng đượm nét phong trần với túi hành lư quảy một bên vai và bên vai kia là cây đàn guitar rất nghệ sĩ. Nhưng không ngờ, cho đến bây giờ trong đoạn phim video clip, ông vẫn c̣n giữ lại cây đàn yêu quư như một tài sản độc nhất theo ông suốt hơn 40 năm nay. Không được may mắn như những nhạc sĩ khác cùng thời với ông (như Thanh Sơn, Nguyễn Ánh 9) có được một việc làm nơi chốn đô thành, nhạc sĩ Thăng Long phải về ẩn cư nơi vùng quê nghèo nàn của miền Tây là một làng nhỏ (Phú Lộc) của tỉnh Sóc Trăng. Thấy ông phải vất vả với số tuổi 70 để dạy từng bài học âm nhạc cho những thanh niên trong xóm, mà cảm xúc dâng trào, thương nhạc sĩ lăo thành này quá đổi. Tuy vậy, khi được hỏi về bài hát “Quen Nhau Trên Đường Về” th́ cặp mắt của nhạc sĩ Thăng Long sáng hẳn lên. Ông say mê nói về những cảm xúc của hơn 40 năm trước nơi bùng binh chợ Sài G̣n, với những âm thanh và h́nh ảnh của thời quá khứ xa xăm đă tạo nên nguồn cảm hứng để cho ông viết ra bài hát rất nổi tiếng này .
 

Thật ngạc nhiên khi thấy tài năng độc đáo và cảm xúc đầy nghệ sĩ tính của người nhạc sĩ này, v́ khi ngồi nghỉ chân nơi công viên, ông chỉ thoáng nghe một điệu kèn đám ma ̣ e như “ tàng tang tang táng tạng táng tang tàng tang …” mà cái làn hơi (air) đó, cộng với cảnh hẹn ḥ tâm sự bên nhau của đôi trai gái xa lạ, đă khiến ông tạo nên giai điệu mượt mà quyến rũ, giàu t́nh cảm quê hương với những lời ca như:

“Chiều này có phải anh ra miền Trung ..

Về thăm quê mẹ cho em về cùng

Rồi ta sẽ đi chung chuyến tàu

Về đến sông Hương núi Ngự

Để nh́n trăng soi cuối thôn …"

 

Ngoài ra khi thấy chàng quân nhân trẻ tuổi đang bịn rịn giă từ cô gái để đi về hướng nhà ga xe lửa chạy ra Trung phần, ông đă gởi gấm những lư tưởng và chí hướng thật cao đẹp cho chàng thanh niên trẻ ra đi phục vụ quê hương, giữ yên bờ cơi (đặt nợ nước trước t́nh nhà), với những lời ca như:
 

"Thương anh không phải v́ “t́nh yêu” ..
không phải v́ “sang giàu”

Mà v́ “cùng chung chí hướng” …

Thương anh, thân dăi dầu nắng mưa

Băng rừng sâu núi đồi, mang về khúc hát “khải hoàn” …”

 

Ôi những lời hát ngày xưa, sao nghe thật đậm đà và có quá nhiều ư nghĩa chân thành, tha thiết với giai điệu nhẹ nhàng êm ái mà cũng rất trữ t́nh, lăng mạn. Tất cả như quyện vào nhau giữa t́nh yêu đôi lứa và t́nh yêu mến quê hương đất nước.
 

Không biết nơi quê nhà nhạc sĩ Thăng Long có dịp xem được chương tŕnh Asia 55 trong DVD hay không ? Nhưng ở khắp mọi nơi, có lẽ đă có nhiều khán thính giả rưng rưng nước mắt cảm động khi lần đầu tiên được thấy và nghe tâm sự của ông và nhất là được thưởng thức giọng hát “vang tiếng một thời” của danh ca Minh Hiếu.
 

Đây là một tiết mục rất đặc sắc của chương tŕnh Asia 55, được nhiều người chú ư và khen ngợi. Nhứt là việckết hợp bài hát đă một thời gắn liền với người “Hạ Sĩ Nhất Danh Dự” trong quân lực VNCH ngày nào với dàn nhạc đặc sắc của Trung Tâm Asia bên cạnh chiếc xe xích lô quen thuộc của đô thành Sài G̣n xa xưa.
 

Giờ đây nơi quê nhà hẻo lánh, sống chuỗi ngày c̣n lại bên cây đàn mang theo bên ḿnh suốt hơn 40 năm qua, không biết người “nhạc sĩ giang hồ” Thăng Long có biết được những bài hát của ḿnh vẫn được trân trọng đón nhận và ghi khắc trong tâm tư của nhiều thế hệ người Việt lưu vong khắp nơi.


 

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tư ( 1925- ):
 

Một trong những nhạc sĩ được phỏng vấn ở chương tŕnh Asia 55 này đă để lại thật nhiều ấn tượng và nỗi bàng hoàng xúc động cho khán giả là nhạc sĩ lăo thành Nguyễn Văn Tư. Cuộc đời của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tư khá thăng trầm và nhiều lận đận từ những ngày c̣n trẻ cho đến lúc tuổi già xế bóng như hiện giờ . Trong đoạn video clip phỏng vấn ông vào năm 1995, chúng ta thấy nhạc sĩ Nguyễn Văn Tư thật khoẻ mạnh, yêu đời và rất vui vẻ tâm sự về bài hát Dư Âm của ông sáng tác cách đây gần 60 năm với những kỷ niệm và những cảm xúc như mới vừa xăy ra và nhắc lại những lời ca êm ái mượt mà trong bài hát. Nhưng trong đoạn phim sau đó, khi gặp lại ông vào tháng 5 năm nay (2007), nhạc sĩ Nguyễn Văn Tư đă tỏ ra thất vọng chán chường, và phát biểu những lời không ai có thể ngờ được như:


 


 


“Tôi bây giờ phải nói thật với các bạn là tôi sống khổ, sống rất khổ, thiếu thốn mọi thứ …mà tôi trách cái xă hội … Tôi chỉ sống bằng t́nh thưong cảm của anh em bạn bè … Bạn bè đến thăm tôi, thấy tôi khổ ...th́ có bao nhiêu tiền móc ra cho tôi …Tôi quư những đồng tiền đó lắm …

 

Có điều tôi muốn nói là … tôi nhận thấy không có chế độ nào bẩn thỉu như cái chế độ này. Nó coi người ta như rơm rác, nó không coi con người ra ǵ cả ..rơm rác…bẩn thỉu ….”
 

Nghe mà lạnh ḿnh. Tại sao vậy ? Tại v́ nhạc sĩ Nguyễn Văn Tư là một nhạc sĩ đă có nhiều bài hát được tŕnh diễn trong vài chục năm dài, kể từ tiền chiến và sau này như “Tiễn Anh Lên Đường, Người Đi Xây Hồ Kẻ Gỗ” …và trong quá khứ ông cũng đă được chế độ cộng sản ưu đăi so với nhiều văn nghệ sĩ khác. Năm 2000 ông được trao tặng giải thưởng HCM về Văn Học cho các tác phẩm: “Mẹ Yêu Con, Bài Ca 5 Tấn, Tấm Áo Chiến Sỹ Mẹ Vá Năm Xưa, Một Khúc Tâm T́nh Của Người Hà Tĩnh, Dáng Đứng Bến Tre …”. Năm 2005 và 2006 ông đă được tôn vinh trong những “Đêm Vinh Danh Tác Phẩm Nguyễn Văn Tư”. Nhưng bây giờ ông lại trở nên bất măn và không sợ hăi ǵ mà nói thật ḷng ḿnh cho những phóng viên từ nước ngoài trở về gặp ông tại nhà riêng của ông ở Sài G̣n.

 


 


 

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tư sinh ngày 5 tháng 3 năm 1925 tại thành phố Vinh, Nghệ An. Thuở bé ông học ở trường Quốc Học Vinh và được một giáo viên người Pháp dạy cho những bài hát của Tino Rossi đang thịnh hành. Sau đó ông học nhạc lư với một linh mục người Tây Ban Nha và học đàn với một nhạc sĩ người Trung Hoa . Năm 1944 ông đi hát cho một pḥng trà ở Vinh để kiếm sống. Năm sau, ông tham gia kháng chiến và hoạt động văn nghệ cho tỉnh Nghệ An trong lănh vực nhạc và kịch. Năm 1948 ông công tác ở đoàn văn hoá tiền tuyến thuộc Quân Huấn Cục. Từ năm 1950, ông nhận nhiệm vụ đi xây dựng đoàn văn công của Sư đoàn 304 và làm trưởng đoàn.


Cuối năm 1950, khi về chơi ngang nhà người bạn ở huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An, ông đă viết bài Dư Âm để nói về cô em gái của người bạn này. Như chính lời kể của ông về lai lịch bài hát “Dư Âm”:
 

“-Đây là một h́nh ảnh hoàn toàn có thực. Người con gái mà tôi yêu đó, ít hơn tôi gần 10 tuổi. Cho nên lúc đó gia đ́nh cô không cho phép tiến tới hôn nhân. Người con gái đó đă phản ứng khi lần cuối cùng gặp nhau là nàng đợi đêm đến lúc trăng lên, mới ra sau nhà gội đầu, rồi ôm đàn ra hát. Đó là một cơn điên trong người nàng, như một phản ứng quyết liệt chống lại gia đ́nh phong kiến. Và gửi cho tôi một lời thông điệp. Cho nên tôi ghi nhận h́nh ảnh đó một cách trọn vẹn. Đó cũng là h́nh ảnh tôi đă ấp ủ bấy nhiêu năm, và tôi vẫn coi đó như một nguồn cảm hứng để viết lên những lời ca trong bài Dư Âm.”
 

Chính bài hát “Dư Âm” này đă khiến cho nhạc sĩ Nguyễn Văn Tư bị đơn vị đưa ra kiểm điểm v́ đă sáng tác một bài hát quá ủy mị, không hợp với thời toàn quốc đang kháng chiến lúc đó. Hầu như bài hát Dư Âm này bị cấm tŕnh diễn ở miền Bắc trong nhiều năm dài và chỉ được phổ biến rộng răi ở miền Nam tự do sau này.
 

Năm 1951, ông giải ngũ và xin về làm việc ở Chi hội Văn nghệ Liên khu IV. Năm 1952, ông quen biết và sau đó lập gia đ́nh với cô Bạch Lệ (là em gái của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, tác giả bài “Đêm Đông”). Cuối năm 1957, ông cùng với Nguyễn Xuân Khoát, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao được chỉ định thành lập Hội Nhạc Sĩ Việt Nam. Sau đó khi đang là ủy viên chấp hành khóa đầu tiên của hội th́ xăy ra vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm khiến cho những người bạn của ông như Văn Cao, Hoàng Cầm, Trần Dần phải bị kỹ luật, bị tù … Nên theo lời khuyên của Lưu Hữu Phước, ông tránh xa khỏi Hội Nhạc Sĩ này và xin đi nghiên cứu dân ca ở miền quê. Đầu năm 1961, ông được biệt phái về Hưng yên, thời gian này nhạc sĩ Nguyễn Văn Tư đă viết một số ca khúc như Chim Hót Trên Đồng Đay, Ḍng Nước Quê Hương (1963), Tiễn Anh Lên Đường (1964).
 

Năm 1975, ông chuyển về Viện Nghiên Cứu Âm Nhạc, thuộc Bộ Văn Hóa, cơ sở II tại thành phố HCM. Trong khoảng thập niên 1990 ông vẫn sáng tác nhiều, khoảng hơn 20 bài, nhưng không có bài nào nổi tiếng.
 

Vào năm 2004, lúc được 79 tuổi, ông bị tắc ngẽn mạch máu năo 2 lần và bị liệt hai lần, nhưng dần dần hồi phục. V́ vậy, chúng ta mới nghe được những lời phát biểu và nhận xét thật xác đáng của ông về chế độ CS hiện nay ở trong nước. Với số tuổi đời hơn 82 nhưng thần trí của ông vẫn c̣n rất sáng suốt, dù nhạc sĩ lăo thành phải than là “giờ đang sống rất khổ” như mọi người đă thấy trong Asia 55. (Chắc chắn là đoạn phim phỏng vấn này ít ai ở trong nước có thể xem được?)
 


 

Trên đây là sơ lược về những mảnh đời có thể nói là khá bất hạnh của vài nhạc sĩ đă được phỏng vấn trong chương tŕnh Asia 55. Bất hạnh v́ họ đă sớm ĺa trần hay vẫn c̣n đang sống cuộc đời cơ cực nơi quê nhà trong quên lăng của biết bao nhiêu người đă và đang thưởng thức những bài ca của họ. Có lẽ nhiều người trong chúng ta đang ngậm ngùi chua xót cho những nhạc sĩ kém may mắn này và băn khoăn tự hỏi ḿnh phải làm ǵ để tỏ ḷng tri ân cho những cống hiến tuyệt vời của họ?