Thật là một cơ
hội ngàn vàng để
t́m hiểu sâu xa
về vị tân Giáo
Hoàng Phanxicô
ngoại thường của
chúng ta về đời
sống, tâm
t́nh, nhận định và
chủ trương của
ngài.
Cuộc phỏng vấn
dài này kéo dài
3 buổi khác
nhau, tại chính
pḥng trọ của
ngài ở Casa
Santa Marta -
Nhà Thánh Matta,
trong Tháng
8/2013 vừa rồi.
Nhân vật phỏng
vấn ngài là Cha
Antonio Spadaro,
chủ nhiệm của tờ
La Civiltà
Cattolica
của Ḍng tên bên
Ư, một tạp chí
được phát hành ở
Rôma từ năm
1850. Vị
linh mục Ḍng
Tên này đă phỏng
vấn ngài với tư
cách là đại diện
cho 16 tờ báo
khác nữa của
Ḍng tên trên
khắp thế giới,
chẳng hạn như
Thinking Faith,
America v.v. Các
vị chủ bút của
các tờ báo này
đă gửi các câu
hỏi cho Cha
Spadaro, người
đă đúc kết chúng
lại một cách thứ
tự. Ngôn ngữ
được sử dụng cho
cuộc phỏng vấn
này là bằng
tiếng Ư, và sau
khi bản tiếng ư
được chấp nhận
th́ một nhóm 5
chuyên viên độc
lập (Massimo
Faggioli, Sarah
Christopher
Faggioli,
Dominic
Robinson, S.J.,
Patrick J.
Howell, S.J.,
and Griffin
Oleynick) đă
được ủy thác để
cùng nhau thực
hiện bản dịch
sang tiếng Anh
là bản được
người dịch này
sử dụng trong
việc cố gắng
thực hiện nhanh
bao nhiêu có thể
để phổ biến
trong cộng đồng
Dân Chúa Việt
Nam về vị giáo
hoàng Phanxicô
đương kim đặc
biệt của chúng
ta.
Ngôn ngữ được sử
dụng cho cuộc
phỏng vấn này là
bằng tiếng Ư, và
sau khi bản
tiếng ư được
chấp nhận th́
một nhóm 5
chuyên viên độc
lập đă được ủy
thác để cùng
nhau thực hiện
bản dịch sang
tiếng Anh là bản
được người dịch
này sử dụng
trong việc cố
gắng thực hiện
nhanh bao nhiêu
có thể để phổ
biến trong cộng
đồng Dân Chúa
Việt Nam về vị
giáo hoàng
Phanxicô đương
kim đặc biệt của
chúng ta.
Nội dung của
cuộc phỏng vấn
bao gồm những
câu hỏi liên
quan đến các vấn
đề thứ tự sau
đây:
1- Jorge Mario
Bergoglio là ai?
2- Tại sao ngài
lại trở thành
một tu sĩ Ḍng
Tên?
3- Một tu sĩ
Ḍng Tên làm
Giám Mục Rôma có
nghĩa là ǵ?
4- Ḍng Tên
5- Mô Phạm:
Peter Faber, 'Vị
Linh Mục Cải
Cách' ('Reformed
Priest’)
6- Kinh Nghiệm
trong Việc Quản
Trị Giáo Hội
7- Nghĩ tưởng
cùng với Giáo
Hội
8- Các Giáo Hội
trẻ trung và Các
Giáo Hội cổ xưa
9- Giáo Hội như
là một Bệnh Viện
Lưu Động (Field
Hospital)
10- Một Vị Giáo
Hoàng của Ḍng
Tu
11- Ṭa Thánh
Rôma
12- Nữ Giới
trong Đời Sống
của Giáo Hội
13- Công Đồng
Chung Vaticanô
II
14- T́m Kiếm và
T́m Gặp Thiên
Chúa trong hết
mọi sự
15- Tính chất
vững chắc và sai
lầm
16- Chúng ta cần
phải lạc quan?
17- Nghệ thuật
và sáng tạo
18- Nơi tiền tuyến
và trong pḥng
thí nghiệm
19- Việc tự thức nhân
bản
20- Việc cầu
nguyện
Cha Spadaro đă bắt
đầu viết về cuộc
phỏng vấn này bằng
những nhận định
của ḿnh về nơi
cư trú hiện nay
của Đức Thánh
Cha cũng như về
thái độ của ngài
trong cuộc hỏng
vấn như sau:
"Cảnh trí giản
dị, khắc khổ. Chỗ
làm việc là một
cái bàn nhỏ. Tôi
ngạc nhiên chẳng
những về tính chất
giản dị của đồ đạc
mà c̣n về những
vật ở trong căn
pḥng này nữa.
Chỉ có vài thứ
thôi. Những thứ
này bao gồm ảnh Thánh
Phanxicô, một tượng Đức
Mẹ Luján là quan
thày của Nước Á
Căn Đ́nh, một tượng
chuộc tội và một
tượng Thánh
Giuse đang thiếp
ngủ. Cái linh đạo
của Đức Jorge
Mario Bergoglio
không phải được
làm nên bởi 'những
thứ năng lực hài
ḥa' như ngài
nói, mà là những
bộ mặt con người,
đó là Đức Kitô,
Thánh Phanxicô,
Thánh Giuse và Mẹ
Maria.
"Đức Giáo
Hoàng nói về
chuyến viếng
thăm Ba Tây của
ngài. Ngài cho
đó thực sự là một
ơn Chúa ban, đến
dộ, đối với ngài,
Ngày Giới Trẻ Thế
Giới là một 'mầu
nhiệm'. Ngài nói
rằng ngài không
quen nói với quá
nhiều người: 'Tôi
có thể gặp gỡ cá
nhân, từng người
một, để giao tiếp
riêng với người
đó trước mặt tôi.
Tôi không quen với
các thứ đám
đông', vị giáo
hoàng bày tỏ.
Ngài cũng nói về
giây phút trong
cuộc mật nghị hồng
y bầu giáo hoàng
khi mà ngài bắt
đầu nhận thức được
rằng ngài có thể
là vị giáo hoàng.
Vào bữa trưa Thứ
Tư ngày 13/3,
ngài đă cảm thấy
một b́nh an sâu
xa khôn tả trong
ḷng và niềm an
ủi, như ngài nói,
cùng với một thứ
tối tăm cả thể.
Và những cảm nhận
này đă theo ngài
cho đến ngài được
chọn bầu vào chiều
hôm đó.
"Vị giáo
hoàng đă nói trước
về vấn đề rất
khó khăn của ngài trong
việc để cho phỏng
vấn. Ngài nói rằng
ngài thích suy
tư hơn là cống
hiến những câu
trả lời tại chỗ cho
các cuộc phỏng vấn.
Trong cuộc phỏng
vấn này, Đức
Giáo Hoàng đă mấy
lần ngắt
quăng những ǵ
ngài đang nói để
trả lời cho một
câu hỏi, hầu
thêm vào một điều
ǵ nữa cho một
câu trả lời trước
đó. Nói chuyện với
Đức Giáo Hoàng
Phanxicô là một
thứ lưu lượng
núi lửa tư tưởng
được quyện lại với
nhau. Ngay cả việc
ghi nhận cũng
khiến cho tôi
cái cảm giác
không thoải mái
làm sao ấy, như
thể tôi đang cố
gắng chèn nén một
mạch suối đối
thoại đang dâng
trào".
1- Jorge Mario
Bergoglio là ai?
Tôi hỏi thẳng
Đức Giáo Hoàng
Phanxicô rằng:
"Jorge Mario
Bergoglio là
ai?" Ngài chăm
chăm nh́n vào
tôi một cách
trầm lặng. Tôi
hỏi ngài xem tôi
có được hỏi ngài
câu này hay
chăng. Ngài gật
đầu và trả lời
rằng: "Tôi không
biết phải diễn
tả làm sao cho
thích đáng nhất
đây...
Tôi là một tội
nhân.
Đó là một định
nghĩa chính xác
nhất.
Nó không phải là
một lời nói bóng
gió, một thứ văn
chương. Tôi là
một tội nhân".
Đức Giáo
Hoàng tiếp tục
chia sẻ và tỏ ra
tập trung vào
vấn đề như thể
ngài không ngờ
về một câu hỏi
như thế, như thể
ngài bị bắt buộc
phải chia sẻ
thêm. "Đúng thế,
có lẽ tôi có thể
nói rằng tôi hơi
khéo léo một
chút, rằng tôi
có thể thích ứng
với các hoàn
cảnh mà nói, thế
nhưng tôi cũng
thật sự là hơi
ngây ngô thẳng
thắn. Phải đấy,
thế nhưng cái
tóm gọn đúng
nhất, cái xuất
phát từ trong
ḷng và tôi cảm
thấy đúng nhất
là thế này: Tôi
là một tội nhân
được Chúa đoái
thương". Và ngài
lập lại rằng: "Tôi
là một kẻ được
Chúa đoái thương.
Tôi luôn cảm
thức được câu
tâm niệm của
ḿnh, Miserando
atque Eligendo
(v́ thương mà
chọn) là những
ǵ rất đúng với
tôi".
Câu tâm niệm này
được lấy từ các
Bài Giảng
của tác giả Bede
the Venerable,
vị viết trong
phần dẫn giải
của ḿnh về câu
truyện Phúc Âm
liên quan đến
việc Thánh
Mathêu được Chúa
Giêsu kêu gọi:
"Chúa Giêsu đă
trông thấy một
người thu thuế,
và v́ Người nh́n
anh ta bằng
những cảm xúc
yêu thương nên
đă chọn anh ta,
Người đă nói
cùng anh ta
rằng: 'Hăy theo
Ta'". Đức Giáo
Hoàng c̣n thêm:
"Tôi nghĩ động
danh từ Latinh
miserando
này không thể
dịch sang cả
tiếng Ư lẫn
tiếng Tây Ban
Nha. Tôi
thích dịch nó
bằng một động
danh từ (gerund)
khác vốn không
có, đó là
misericordiando
('mercy-ing' -
việc thương
xót)".
Đức Giáo Hoàng
tiếp tục chia sẻ
mà nói, khi nhẩy
qua một đề tài
khác: "Tôi không
biết rơ về Rôma.
Tôi biết một ít
điều thôi. Những
điều này bao gồm
Đền Thờ Đức Bà
Cả; tôi thường
đến đó. Tôi biết
Đền Thờ Đức Bà
Cả, Đền Thờ
Thánh Phêrô...
thế nhưng khi
tôi cần phải đến
Rôma th́ tôi bao
giờ cũng ở (vùng
lân cận) của Via
della Scrofa. Từ
đó, tôi thường
viếng thăm Nhà
Thờ Thánh Louis
Pháp Quốc và tôi
đến đó để chiêm
ngưỡng bức họa
liên quan đến
'Ơn Gọi của
Thánh Mathêu'
của Caravaggio.
"Ngón tay của
Chúa Giêsu chỉ
vào Thánh
Mathêu. Tức là
tôi. Tôi cảm
thấy như ngài".
Đến đây Đức Giáo
Hoàng trở nên
quyết liệt, như
thể ngài cuối
cùng đă thấy
được h́nh ảnh
ngài đă t́m
kiếm: "Chính
cử chỉ của Thánh
Mathêu đă tác
động tôi:
Ngài giữ lấy
tiền của ngài
như muốn nói
rằng 'Không,
không phải là
tôi! Không, tiền
bạc này là của
tôi'.
Đấy, tôi đó, một
tội nhân đă được
Chúa hướng nh́n
tới.
Và đó là những
ǵ tôi đă nói
khi các vị hỏi
tôi rằng tôi có
chấp nhận được
tuyển bầu làm
giáo hoàng hay
chăng". Bấy giờ
vị giáo hoàng
này đă thầm thĩ
bằng tiếng
Latinh rằng: "Tôi
là một tội nhân,
nhưng tôi tin
vào t́nh thương
vô biên và nhẫn
nại của Đức
Giêsu Kitô Chúa
chúng tôi, và
tôi chấp nhận
bằng tinh thần
thống hối".
2- Tại sao ngài
lại trở thành
một tu sĩ Ḍng
Tên?
Tôi tiếp tục:
"Tâu Đức Thánh
Cha, cái ǵ đă
khiến ngài chọn
gia nhập Ḍng
Chúa Giêsu? Cái
ǵ đă đánh động
ngài về Ḍng
Tên?" "Tôi đă
muốn một cái ǵ
hơn nữa. Thế
nhưng tôi không
biết đó là cái
ǵ. Tôi đă nhập
chủng viện của
địa phận. Tôi
thích anh em tu
sĩ Ḍng Đa Minh
và tôi có bạn bè
Đa Minh. Thế
nhưng tôi đă
chọn Ḍng Chúa
Giêsu là ḍng
tôi đă biết rơ
v́ chủng sinh
được ủy thác cho
các Cha Ḍng
Tên.
Có 3 điều đặc
biệt đánh động
tôi về Ḍng này,
đó là tinh thần
truyền giáo,
cộng đồng và kỷ
luật.
Và đó mới là
điều lạ, v́
tôi là một con
người thật thật
là phi kỷ luật.
Thế nhưng, kỷ
luật của họ,
cách thức
họ điều hành giờ
giấc của họ -
những điều ấy đă
đánh động tôi
rất nhiều.
"Rồi c̣n
một điều nữa
thật sự là quan
trọng đối với
tôi, đó là cộng
đồng. Tôi luôn
luôn t́m kiếm
một cộng đồng.
Tôi không coi
tôi như là vị
linh mục một
ḿnh. Tôi cần
một cộng đồng.
Và cha có thể
thấy điều này
nơi sự kiện tôi
ở Nhà Thánh
Matta đây.
Vào thời điểm
mật nghị hồng y
bầu giáo hoàng,
tôi đă ở Pḥng
207. (Pḥng bè
được phân chia
bằng việc rút
thăm). Pḥng mà
giờ đây chúng ta
ở là một pḥng
khách.
Tôi đă chọn
sống ở đây, tại
Pḥng 201,
v́ khi tôi
lấy căn giáo
hoàng thất th́
trong bản thân
ḿnh tôi đă nghe
rơ một tiếng
'đừng'.
Căn giáo hoàng
thất ở Tông Dinh
không sang trọng
lộng lẫy ǵ. Nó
cũ kỹ, được
trang hoàng đẹp
đẽ và rộng răi,
nhưng không sang
trọng lộng lẫy.
Thế nhưng, nó ở
cuối giống như
một cái phễu lộn
ngược. Nó lớn và
rộng răi, thế
nhưng lối vào
lại thật là
nhỏ. Người
ta chỉ có thể đi
vào từng ít một
và buồn tẻ, và
tôi không thể
sống mà thiếu
dân chúng. Tôi
cần sống cuộc
đời ḿnh với
những người khác".
3- Một tu sĩ
Ḍng Tên làm
Giám Mục Rôma có
nghĩa là ǵ?
Tôi hỏi Đức Giáo
Hoàng Phanxicô
về sự kiện ngài
là tu sĩ Ḍng
tên đầu tiên
được chọn bầu
làm giám mục
Rôma rằng: "Đức
Giáo Hoàng hiểu
như thế nào về
vai tṛ phục vụ
giáo hội hoàn vũ
mà ngài đă được
kêu gọi để thực
hiện theo chiều
hướng của linh
đạo I Nhă
(Ignatio)? Việc
một tu sĩ Ḍng
Tên được chọn
làm giáo hoàng
có nghĩa là ǵ?
Yếu tố nào trong
linh đạo I Nhă
có thể giúp ngài
sống thừa tác vụ
của ngài?"
Ngài trả lời
rằng: "Nhận
thức.
Nhận thức là một
trong những điều
đă tác động nội
tâm của Thánh I
Nhă. Đối với
thánh nhân th́
nó là một
khí giới của một
cuộc gắng gỏi để
nhận biết Chúa
và theo Người
chặt chẽ
hơn. Tôi luôn bị
đánh động bởi
một câu nói diễn
tả cái nhăn quan
của Thánh I Nhă,
đó là câu:
non coerceri a
maximo, sed
contineri a
minimo divinum
est ("không
bị hạn chế bởi
những ǵ vĩ đại
nhất mà vẫn được
chất chứa trong
những ǵ bé mọn
nhất - đó là
thần linh").
Tôi đă nghĩ rất
nhiều về câu này
liên quan đến
vấn đề các vai
tṛ khác nhau
trong việc quản
trị giáo hội, về
việc trở thành
bề trên của một
ai khác: vấn đề
quan trọng ở đây
là đừng bị hạn
chế bởi một
khoảng rộng lớn
mà vẫn cần phải
có thể ở trong
những khoảng hạn
hẹp. Nhân đức về
những ǵ lớn nhỏ
này là nhân đức
cao thượng đại
lượng. Nhờ cao
thượng đại lượng
chúng ta mới
luôn có thể nh́n
về chân trời từ
vị trí chúng ta
đang ở. Nghĩa là
có thể thực hiện
những điều ti
tiểu hằng ngày
bằng một con tim
to lớn hướng về
Thiên Chúa và về
người khác.
Nghĩa là có thể
cảm nhận được
những ǵ nhỏ bé
bên trong những
chân trời rộng
lớn, những chân
trời của vương
quốc Thiên Chúa.
Đức Giáo Hoàng
nói tiếp: "Câu
tâm niệm này
cống hiến cho
chúng ta
những yếu tố để
có thể cho
rằng ḿnh nắm
bắt được nhận
thức, để nghe
những ǵ về
Thiên Chúa theo
'quan điểm' của
Thiên Chúa. Theo
Thánh I Nhă,
những đại nguyên
tắc cần phải
được thể hiện
nơi các hoàn
cảnh về nơi
chốn, thời gian
và nhân sự. Theo
cách thức riêng
của ḿnh, Đức
Gioan XXIII đă
thích ứng thái
độ này với việc
quản trị giáo
hội, khi ngài
lập lại câu tâm
niệm 'Hăy nh́n
xem tất cả mọi
sự; hăy hướng
con mắt mù ḷa
về phần đông;
hăy điều chỉnh
cái chút xíu'.
Đức Gioan XXIII
đă thấy tất cả
mọi sự, thấy cái
chiều kích tối
đa, thế nhưng
ngài chỉ muốn
điều chỉnh một
chút ít, chiều
kích tối thiểu.
Bạn có thể có
những đại dự
phóng và thực
hiên chúng bằng
một chút những
cái nhỏ mọn
nhất. Hay bạn có
thể dùng phương
tiện yếu kém tác
hiệu hơn là
những phương
tiện hùng hậu,
như Thánh Phaolô
cũng đă nói ở
trong Thư Thứ
Nhất của ngài
gửi Giáo Đoàn
Corintô.
"Cái
nhận thức này
cần đến thời
gian.
Chẳng hạn, nhiều
người nghĩ rằng
các thứ thay đổi
và canh tân cải
cách có thể xẩy
ra trong ṿng
một thời gian
ngắn.
Tôi tin rằng
chúng ta luôn
luôn cần thời
gian để đặt nền
móng cho các đổi
thay thực sự
hiệu nghiệm. Và
đó là thời gian
của việc nhận
thức.
Trái lại,
đôi khi việc
nhận thức thôi
thúc chúng ta
thực hiện chính
xác những ǵ bạn
nghĩ ngay từ đầu
bạn cần phải làm
ǵ sau đó.
Và
đó là những ǵ
đă xẩy ra cho
tôi trong những
tháng vừa qua.
Việc nhận thức
bao giờ cũng cần
phải thực hiện
trước nhan Chúa,
khi nh́n vào các
dấu chỉ, khi
lắng nghe những
ǵ xẩy ra, cảm
thấy dân chúng,
nhất là người
nghèo.
Những chọn lựa
của tôi, bao gồm
những chọn lựa
liên quan tới
các khía cạnh
sống hằng ngày,
như việc sử dụng
một cái xe b́nh
dân, đều liên hệ
tới một thứ nhận
thức thiêng
liêng có
thể đáp ứng một
nhu cầu nào đó
xuất phát từ
việc nh́n vào
các sự vật, vào
dân chúng cũng
như từ việc
thấy được các
dấu chỉ
thời đại. Việc
nhận thức trong
Chúa là những ǵ
hướng dẫn tôi về
đường lối tôi
quản trị.
"Thế nhưng, tôi
bao giờ cũng
thận trọng về
các quyết định
vội vàng thực
hiện. Tôi bao
giờ cũng thận
trọng về quyết
định đầu tiên
của ḿnh, tức là
về điều đầu tiên
đến trong đầu
của tôi nếu tôi
cần phải đi đến
quyết định. Đây
thường là một
điều sai lầm.
Tôi cần phải chờ
đợi và thẩm
định, nh́n sâu
xa vào bản thân
ḿnh, trong một
thời gian cần
thiết.
Sự khôn ngoan
của việc nhận
thức là những ǵ
bù đắp lại cho
cái mập mờ cần
thiết trong đời
sống, và giúp
cho chúng ta t́m
thấy phương tiện
thích đáng
nhất, cái mà
không phải bao
giờ cũng trùng
hợp với những ǵ
có vẻ vĩ đại và
hùng tráng".
4- Ḍng Tên
V́ thế việc nhận
thức là trụ
cột trong linh
đạo của Đức Giáo
Hoàng Phanxicô.
Nó đặc biệt cho
thấy cái căn
tính Ḍng Tên
của ngài. (Biệt
chú của người
dịch bản Việt
ngữ th́ theo chỗ
được biết việc
nhận thức như
Đức Thánh Cha
Phanxicô nhấn
mạnh ở đây là
những ǵ rất
quan trọng được
xuất phát từ
chính kinh
nghiệm hoán cải
của Thánh Sáng
Lập I Nhă).
Vậy tôi hỏi ngài
là Ḍng Chúa
Giêsu (biệt
chú của người
dịch Việt ngữ ở
đây là ḍng này
vẫn được người
Việt Công Giáo
gọi tắt là Ḍng
Tên, tức là Ḍng
Tên Chúa Giêsu)
có thể phục vụ
cho giáo hội
ngày nay ra sao,
đâu là những đặc
tính của ḍng
này, nhưng cũng
bao gồm cả những
thách đố khả dĩ
đối với Ḍng Tên
nữa.
Đức Giáo Hoàng
trả lời: "Ḍng
Tên là một tổ
chức ở trong
t́nh trạng căng
thẳng, thật sự
là bao giờ cũng
căng thẳng. Tu
sĩ Ḍng Tên là
một người không
tập trung vào
bản thân ḿnh.
Chính Hội Ḍng
này cũng t́m một
tâm điểm nào đó
bên ngoài ḿnh;
tâm điểm của nó
là Đức Kitô và
Giáo Hội của
Người.
Vậy nếu Hội Ḍng
này tập trung
bản thân ḿnh
vào Đức Kitô và
Giáo Hội th́ nó
có hai điểm qui
chiếu nền tảng
cho sự quân b́nh
của nó cũng như
cho việc có thể
sống ở những lằn
răn, ở những
tiền tuyến. Nếu
nó để ư quá
nhiều đến bản
thân ḿnh, th́
nó đặt ḿnh vào
tâm điểm như là
một thứ cấu trúc
được trang bị
rất vững chắc,
rất hay, thế
nhưng nó sẽ gặp
phải nguy cơ là
cảm thấy ḿnh là
an toàn và tự
măn.
Hội Ḍng này bao
giờ cũng phải
nhắm đến the
Deus semper
major, đến vị
Thiên Chúa bao
giờ cũng cao cả,
và theo đuổi
vinh quang hằng
cao cả của Thiên
Chúa,
theo giáo
hội như là vị
hôn thê đích
thực của Đức
Kitô Chúa chúng
ta, theo Đức
Kitô Vua là Đấng
đă chiến thắng
chúng ta và là
Đấng chúng ta
hiến dâng toàn
thể con người
cùng với tất cả
mọi công khó của
chúng ta, cho dù
chúng ta là
những cái b́nh
sành bất xứng.
Cái căng thẳng
này liên tục đưa
chúng ta ra khỏi
bản thân ḿnh.
Thứ dụng cụ làm
cho Ḍng Tên
không tập trung
vào bản thân
ḿnh, thứ dụng
cụ thật sự là
mạnh mẽ, đó là ở
chỗ việc bày
tỏ lương tâm
(the account of
conscience -
biệt chú của
người dịch Việt
ngữ, theo người
dịch được biết
th́ đây là một
tục lệ theo qui
định của Ḍng
Tên liên quan
tới việc bề dưới
cần phải gặp bề
trên giám tỉnh
mỗi năm một lần
để tŕnh bày về
bản thân ḿnh
cho ngài biết
nhờ đó ngài có
thể điều hành
tỉnh ḍng một
cách xác đáng và
hiệu năng
hơn theo cá nhân
của
đương sự cũng
như cho sứ vụ
của chung ḍng),
một yếu tố đồng
thời vừa là cha
vừa là anh, v́
nó giúp cho Hội
Ḍng này hoàn
thành sứ vụ của
ḿnh tốt đẹp
hơn.
Đức Giáo Hoàng
đang đề cập đến
điều đ̣i buộc
trong Hiến Pháp
Ḍng Tên là tu
sĩ Ḍng Tên cần
phải "bày tỏ
lương tâm của
ḿnh", tức là
bày tỏ t́nh
trạng nội tâm
của ḿnh ra, nhờ
đó bề trên mới
có thể nhận thức
hơn và hiểu biết
hơn trong việc
sai một người
nào đó đi làm sứ
vụ.
Đức Giáo Hoàng
Phanxicô tiếp
tục: "Thế nhưng
khó mà nói về
Hội Ḍng này.
Khi bạn bày tỏ
quá nhiều th́
bạn có nguy cơ
bị hiểu lầm.
Ḍng Tên có thể
được diễn tả chỉ
ở h́nh thức
tŕnh thuật.
Chỉ bằng h́nh
thức tŕnh thuật
mà bạn mới có
thể nhận thức,
chứ không phải
bằng một thứ
diẫn giải theo
triết lư hoặc
thần học là
những ǵ chỉ
giúp cho bạn bàn
luận thôi.
Kiểu cách của
Hội Ḍng này
không được làm
nên bởi vấn đề
bàn luận mà bằng
việc nhận thức,
một thứ nhận
thức dĩ nhiên
bao hàm cả vấn
đề bàn luận như
một phần của
tiến tŕnh nhận
thức. Chiều kích
bí nhiệm của
việc nhận thức
không bao giờ ấn
định những góc
cạnh của nó và
không hoàn trọn
tư tưởng.
Tu sĩ Ḍng Tên
cần phải là một
con người có ư
nghĩa không trọn
vẹn, ở chỗ nghĩ
tưởng một
cách cởi mở
không khép kín.
Có những giai
đoạn ở Hội Ḍng
này những tu sĩ
của ḍng đă sống
trong một môi
trường theo ư
nghĩ khép kín và
cứng ngắc, thiên
về khổ hạnh
truyền đạt kiến
thức hơn là thần
bí: t́nh trạng
méo mó thiên
lệnh này của đời
sống tu sĩ Ḍng
Tên mới có cái
Epitome
Instituti."
Đức Giáo Hoàng
đang nói đến một
cuốn tổng lược,
được thực hiện
cho những mục
đích thực hành,
được coi như là
một thứ văn kiện
thay thế cho
Hiến Pháp. Việc
đào luyện tu sĩ
Ḍng Tên có thời
đă được căn cứ
vào văn kiện này
cho tới độ có
một số tu sĩ
Ḍng Tên chưa
bao giờ đọc đến
Hiến Pháp Ḍng
của ḿnh, một
văn kiện nền
tảng. Trong giai
đoạn này, theo
quan điểm của
đức giáo hoàng,
các thứ lề luật
đă trở thành mối
đe dọa như qua
mặt tinh thần,
và Hội Ḍng này
đă chiều theo
khuynh hướng dẫn
giải và ấn định
đặc sủng của
ḿnh một cách
quá sức là hạn
hẹp.
Đức Giáo Hoàng
tiếp tục nói:
"Không, tu sĩ
Ḍng Tên bao giờ
cũng phải suy
nghĩ, cứ thế và
cứ vậy, nh́n đến
một chân trời họ
phải tới có Chúa
Kitô là tâm
điểm. Đó là sức
mạnh thực sự của
họ. Và đó là cái
thúc đẩy Hội
Ḍng này vào
việc t́m kiếm,
sáng tạo và dấn
thân. Bởi vậy
mà, hơn bao giờ
hết,
Ḍng Tên cần
phải chiêm niệm
trong tác hành,
cần phải sống
một cuộc gần gũi
sâu xa với toàn
thể giáo hội vừa
là 'dân Chúa' và
vừa là 'Mẹ Thánh
Giáo Hội phẩm
trật'.
Điều
này cần phải
khiêm nhượng rất
nhiều, hy sinh
và can đảm, nhất
là khi bạn bị
hiểu lầm hay bạn
là chủ đề cho
những thứ hiểu
lầm và vu khống,
thế nhưng đó lại
là thái độ hiệu
quả nhất.
Chúng ta hăy
nghĩ về những
thứ căng thẳng
trong lịch sử
quá khứ, trong
những thế kỷ
trước
đây, nghĩ đến chuyện
tranh luận về
các thứ nghi
thức Trung Hoa,
về các thứ nghi
thức Malabar và
về những thứ
Biến Giảm ở
Paraguay.
"Chính
tôi là một nhân
chứng cho những
thứ hiểu lầm và
trục trặc mà Hội
Ḍng này đă trải
qua gần đây.
Trong số những
hiểu lầm và trục
trặc này có
những lúc khốn
đốn, nhất là khi
liên hệ đến vấn
đề bao gồm tất
cả mọi tu sĩ
Ḍng Tên về lời
khấn thứ tư là
tuân phục giáo
hoàng.
Điều đă khiến
tôi tin tưởng
vào thời điểm
của Cha Arrupe
(bề trên tổng
quyền của Ḍng
Tên từ năm 1965
đến 1983) đó là
sự kiện ngài là
một con người
của nguyện cầu,
một con người
giành rất nhiều
giờ cầu nguyện.
Tôi tưởng nhớ
đến ngài khi
ngài cầu nguyện
ngồi trên đất
theo kiểu Nhật
Bản. Nhờ đó mà
ngài đă có được
một thái độ đúng
đắn và thực hiện
những quyết định
xác đáng".
5-
Một Mô Phạm:
Peter Faber, 'Vị
Linh Mục Cải
Cách' ('Reformed
Priest’)
Tôi ngẫm nghĩ là
có thể một nhân
vật nào đó trong
số tu sĩ Ḍng
Tên, từ nguyên
thủy của Hội
Ḍng này cho tới
hiện tại, đă ảnh
hưởng đến ngài
một cách đặc
biệt nào đó hay
chăng, nên tôi
đă hỏi Đức Giáo
Hoàng rằng họ là
ai và tại sao
thế. Ngài bắt
đầu bằng việc đề
cập đến Thánh I
Nhă thành Loyola
(vị sáng lập hội
ḍng này) và
Thánh Phanxicô
Xavier, thế rồi
ngài tập trung
vào một nhân vật
không nổi tiếng
trong quần chúng,
đó là Cha Peter
Faber
(1504-1546) ở
Savoy. Cha là
một trong những
anh em đồng hành
đầu tiên của
Thánh I Nhă,
đúng ra là vị
đầu tiên, cả hai
đă ở cùng pḥng
khi c̣n là sinh
viên ở Đại Học
Ba Lê. Người bạn
cùng pḥng thứ
ba là Thánh
Phanxicô Xavier.
Đức Piô IX đă
tuyên phong Cha
Faber lên hàng chân
phước vào ngày
5/9/1872, và án
phong thánh vẫn
đang được tiến
hành.
Đức Giáo Hoàng
trích lại một ấn
bản trong các
tác phẩm của Cha
Faber là tác
phẩm cha đă xin
hai học giả Ḍng
Tên là Miguel A.
Fiorito và Jaime
H. Amadeo hiệu
đính và xuất bản
khi ngài làm bề
trên tỉnh ḍng ở
Á Căn Đ́nh. Một
ấn bản ngài đặc
biệt yêu thích
là ấn bản của
Michel de
Certeau. Tôi hỏi
Đức Giáo Hoàng
tại sao ngài lại
rất có ấn tượng
về Cha Faber như
thế.
Đức Giáo Hoàng
nói: "Việc ngài
đối thoại thậm
chí với những ai
xa cách nhất và
thậm chí với cả
thành phần đối
phương của ngài;
ḷng đạo hạnh
chân thành của
ngài, có lẽ ngây
ngô làm sao ấy,
thái độ thẳng
thắn sẵn có của
ngài, việc nhận
thức nội tâm cẩn
trọng của ngài,
vấn đề ở chỗ
ngài là một con
người có thể
thực hiện những
quyết định lớn
lao và mănh mẽ
nhưng cũng có
thể rất ư là dịu
dàng và yêu
thương".
Michel de
Certeau đă chỉ
mô tả Cha Faber
như là "vị linh
mục cải cách",
vị mà cảm nghiệm
nội tâm, việc
diễn đạt về tín
điều và vấn đề
cải cách cơ cấu
là những ǵ bất
khả phân ly. Thế
rồi Đức Giáo
Hoàng tiếp tục
chia sẻ về chân
dung của đấng
sáng lập Ḍng
Tên.
Ngài nói: "Thánh
I Nhă là một nhà
thần bí
(mystic)
chứ không phải
là một khổ hạnh
gia
(ascetic).
Tôi cảm thấy khó
chịu khi nghe
thấy rằng vấn đề
Linh Thao là 'Ignatian' chỉ
v́ nó được thực
hiện trong thinh
lặng.
Thật vậy,
Linh Thao hoàn
toàn có thể là
Ignatian cũng cả
ở trong đời sống
hằng ngày và
không thinh lặng
nữa. Những giải
thích nào về
việc Linh Thao
mà nhấn mạnh đến
tính chất khổ
hạnh, thinh lặng
và thống hối là
những giải thích
lệch lạc đă làn
rộng ngay cả
trong Ḍng Tên,
nhất là Ḍng Tên
ở Tây Ban Nha.
Tôi cảm thấy gần
gũi hơn với
phong trào thần
bí của Louis
Lallement và
Jean-Joseph
Surin. Cha Faber
là một nhà thần
bí”.
6- Kinh Nghiệm
trong Việc Quản
Trị Giáo Hội
Đâu là loại kinh
nghiệm
trong việc quản
trị Giáo Hội,
như là một bề
trên Ḍng Tên và
sau đó như là
một bề trên tỉnh
Ḍng Tên, đă
giúp vào việc
hoàn toàn h́nh
thành một Cha
Bergoglio? Kiểu
cách quản trị
của Ḍng Tên bao
gồm các quyết
định do bề trên
thực hiện, thế
nhưng cũng được
bàn thảo rộng
răi với các cố
vấn viên chính
yếu. Bởi vậy tôi
đă hỏi: "Đức
Giáo Hoàng có
nghĩ rằng kinh
nghiệm quản trị
trước đây của
ḿnh có thể giúp
ngài trong việc
quản trị Giáo
Hội hoàn vũ hay
chăng?" Sau một
chút suy nghĩ,
ngài đă trả lời
thế này:
"Thành thật mà
nói,
theo kinh nghiệm
làm bề trên của
ḿnh ở Ḍng Tên,
không phải lúc
nào tôi cũng tác
hành như thế đâu
- tức là
tôi không luôn
luôn thực hiện
việc tham vấn
cần thiết.
Bởi thế mới
không phải là
một điều hay.
Kiểu cách quản
trị của tôi là
một tu sĩ Ḍng
Tên lúc đầu đă
vấp phải nhiều
lầm lỗi.
Đó là ở vào một
thời điểm khó
khăn đối với Hội
Ḍng này: cả một
thế hệ tu sĩ
Ḍng Tên đă biến
mất. Chính v́
thế mà
bản thân tôi trở
thành bề trên
giám tỉnh khi
tôi c̣n quá trẻ.
Bấy giờ tôi mới
có 36 tuổi. Thật
không thể tưởng
tượng nổi.
Tôi đă phải
đương đầu với
những trường hợp
khó khăn, và tôi
đă thực hiện
những quyết định
một cách đột
xuất và một ḿnh.
Đúng thế, nhưng
tôi cần phải nói
thêm một điều
nữa là
khi tôi đă ủy
thác cho ai một
điều ǵ đó th́
tôi hoàn toàn
tin tưởng người
đó. Họ cần phải
phạm một lỗi lầm
thật sự là lớn
tôi mới khiển
trách họ.
Cho dù thế chăng
nữa, dần dần
người ta cũng
chán ngán chủ
nghĩa độc đoán.
"Cách
thức độc đoàn và
nhanh chóng
quyết định đă
khiến tôi vấp
phải những lỗi
lầm nghiêm trọng
và bị cáo buộc
là cực bảo thủ.
Tôi đă trải qua
một thời gian
khủng hoảng nội
tâm trầm trọng
khi tôi ở
Cordova.
Thật ra tôi chưa
bao giờ như Chân
Phước Imelda (một
người lên mặt
đạo đức), thế
nhưng tôi không
bao giờ là một
kẻ thuộc cánh
hữu.
Chính cách thức
độc đoán của tôi
trong việc quyết
định đă gây nên
các thứ rắc rối.
"Tôi nói điều
này theo kinh
nghiệm sống của
tôi và v́ tôi
muốn làm sáng tỏ
đâu là những thứ
nguy hiểm. Qua
gịng thời gian
tôi đă học được
nhiều điều.
Chúa đă để cho
sự gia tăng về
hiểu biết trong
vấn đề quản trị
qua các lỗi lầm
và tội lỗi của
tôi.
Bởi vậy, khi làm
Tổng Giám Mục ở
Buenos Aires,
tôi đă gặp gỡ 6
vị giám mục phụ
tá hai tuần một
lần, và mấy lần
một năm với hội
đồng linh mục.
Các vị đặt ra
những câu hỏi và
chúng tôi cởi mở
bàn luận. Điều
này đă giúp tôi
nhiều để thực
hiện những quyết
định tốt đẹp
nhất. Thế nhưng,
giờ đây tôi lại
nghe thấy một số
người nói với
tôi rằng: 'Đừng
có tham vấn
nhiều quá mà hăy
tự ḿnh quyết
định'. Tuy nhiên,
tôi tin rằng vấn
đề tham vấn rất
quan trọng.
"Các
cuộc mật nghị
hồng y, các
thượng nghị giám
mục thế giới
chẳng hạn, là
những nơi quan
trọng để thực
hiện việc tham
vấn này thực sự
và chủ động. Tuy
nhiên, chúng ta
cần phải bớt đi
cái h́nh thức
cứng đơ của
chúng. Tôi không
muốn những thứ
tham vấn hời hợt
mà là những thứ
tham vấn thực sự.
Nhóm tham vấn
với 8 vị hồng y,
nhóm cố vấn 'ngoài
lề' này, không
phải chỉ là
quyết định của
tôi, mà là xuất
phát từ ư của
các vị hồng y
thực sự được bày
tỏ trong các
cuộc họp chung
trước mật nghị
hồng y bầu tân
giáo hoàng. Và
tôi muốn thấy
rằng đây là một
cuộc tham vấn
thực sự chứ
không phải theo
h́nh thức".
7- Nghĩ Tưởng
cùng với Giáo
Hội
Tôi hỏi Đức Giáo
Hoàng Phanxicô
rằng đối với
ngài th́ đâu
chính là ư nghĩa
"nghĩ tưởng cùng
với Giáo Hội",
một quan niệm
được Thánh I Nhă
viết trong vấn
đề Linh Thao.
Ngài đă trả lời
bằng việc sử
dụng h́nh ảnh.
"H́nh
ảnh về Giáo Hội
mà tôi thích đó
là h́nh ảnh dân
thánh tín trung
của Thiên Chúa.
Đó là định nghĩa
tôi thường dùng,
và h́nh ảnh này
cũng có trong
Hiến Chế Tín Lư
về Giáo Hội của
Công Đồng Chung
Vaticanô II (đoạn
12). Việc thuộc
về một dân tộc
có một giá trị
mănh liệt về
thần học. Trong
lịch sử ơn cứu
độ, Thiên Chúa
đă cứu một dân
tộc.
Căn tính không
thể nào trọn vẹn
nếu không thuộc
về một dân nước.
Không được được
cứu độ một ḿnh
như là một cá
nhân tách biệt,
thế nhưng Thiên
Chúa lôi kéo
chúng ta khi
nh́n vào cái
mạng của các thứ
liên hệ đang
diễn ra trong
cộng đồng nhân
loại. Thiên Chúa
tiến vào cái
năng động này, vào
việc tham phần
trong cái mạng
của những thứ
liên hệ loài
người.
"Tự dân nước tạo nên
một chủ thể. Và
Giáo Hội là dân
Thiên Chúa đang
hành tŕnh qua
gịng lịch sử
với cả những vui
mừng lẫn buồn
thương.
Thế nên,
nghĩ tưởng cùng
với Giáo Hội là
cách thức tôi
trở thành một
phần của dân này.
Và tất cả mọi
tín hữu, được
coi như là một
tập thể, th́ vô
ngộ trong các
vấn đề tin tưởng,
và dân này cho
thấy tính
chất vô ngộ ấy
nơi việc tin
tưởng -
infallibilitas
in credendo,
bằng một cảm
thức siêu nhiên
về đức tin của
toàn thể dân tộc
đang cùng nhau
tiến bước. Đó là
những ǵ ngày
nay tôi hiểu
việc 'nghĩ tưởng
cùng với Giáo
Hội' là những ǵ
Thánh I Nhă đă
nói. Khi cuộc
đối thoại giữa
dân chúng và các
vị giám mục và
giáo hoàng theo
đường lối này
chân thực, th́
được hỗ trợ bởi
Thánh Linh. Bởi
vậy mà việc nghĩ
tưởng cùng với
Giáo Hội ấy
không chỉ liên
quan đến các
thần học gia.
"Đó là cách thức
liên quan đến Mẹ
Maria. Ở chỗ,
nếu bạn muốn
biết Mẹ là ai
th́ xin bạn hăy
hỏi các thần học
gia; nếu bạn
muốn biết cách
yêu mến Mẹ th́
các bạn cần phải
hỏi dân chúng.
Phần ḿnh, Mẹ
Maria đă yêu mến
Chúa Giêsu với
con tim của dân
chúng,
như chúng ta đọc
thấy trong Ca
Vịnh Ngợi Khen.
Bởi thế,
chúng ta thậm
chí không được
cho rằng 'nghĩ
tưởng cùng với
Giáo Hội' nghĩa
là chỉ nghĩ
tưởng với phẩm
trật của Giáo
Hội".
Dừng lại một
chút, Đức Giáo
Hoàng nhấn mạnh
đến điểm sau đây
để tránh hiểu
lầm: "Dĩ nhiên
chúng ta cần
phải rất cẩn
thận đừng nghĩ
rằng cái vô
ngộ này của
toàn thể tín hữu
tôi đang nói đến
theo Công đồng
Chung Vaticanô
II là một thứ
h́nh thức của
chủ nghĩa duy
dân. Không; nó
là kinh nghiệm
của 'Mẹ Thánh
Giáo Hội phẩm
trật', như được
Thánh I Nhă đặt
cho, của Giáo
Hội như dân
Chúa, chung các
mục tử và dân
chúng.
Giáo Hội là tổng
thể dân Chúa.
Đức Giáo Hoàng
nói tiếp: "Tôi
thấy được sự
thánh thện của
dân Chúa, sự
thánh thiện hằng
ngày này. Có một
'tầng lớp thánh
đức giữa vời' mà
tất cả chúng ta
đều thuộc về, sự
thánh đức được
Malègue viết về".
Đức Giáo Hoàng
đề cập tới
Joseph Malègne
là một nhà văn
Pháp quốc
(1876-1940), đặc
biệt đến tác
phẩm ba cuốn
chưa hoàn thành
là Black
Stones: The
Middle Classes
of Salvation
- Những Viên
Đá Đen: Những
Tầng Lớp Cứu Độ
Giữa Vời.
Đức Giáo Hoàng tiếp
tục: "Tôi thấy
được sự thánh
thiện nơi việc
nhẫn nại của dân
Chúa: nơi một
người đàn bà
đang nuôi dưỡng
con cái, nơi một
người đàn ông
đang làm việc
cho nhà có bánh
ăn, nơi bệnh
nhân, nơi các vị
linh mục lăo
thành gặp rất
nhiều đau thương
nhưng nét mặt
vẫn tươi cười
phụng sự Chúa,
nơi các nữ tu
làm việc tận tụy
và sống đời âm
thầm thánh đức. Đối
với tôi đó là sự
thánh thiện
chung. Tôi
thường liên kết
thánh thiện với
sự nhẫn nại:
chẳng những nhẫn
nại như hypomoné
(từ ngữ Hy Lạp
trong Tân Ước), chấp
nhận các biến cố
và những hoàn
cảnh trong đời
thế nhưng vẫn
liên tục tiến
tới từng ngày.
Đó là sự thánh
thiện của Giáo
Hội chiến đấu đă
được Thánh I Nhă
đề cập tới. Đó
là sự thánh
thiện nơi cha mẹ
của tôi: cha tôi,
mẹ tôi, bà Rosa
của tôi là người
rất yêu thương
tôi.
Trong cuốn kinh
nguyện của ḿnh,
tôi c̣n giữ lời
di chúc của bà
tôi là Rosa nhắn
nhủ tôi,
và tôi thường
đọc lại nó. Đối
với tôi th́ nó
như là một lời
cầu nguyện.
Bà là một thánh
nhân đă chịu khổ
rất nhiều, cả về
tinh thần, nhưng
bao giờ cũng can
đảm tiến bước.
"Giáo
Hội mà chúng ta
cần phải nghĩ
tưởng với là nhà
của tất cả mọi
người, không
phải là một
nguyện đường bé
nhỏ có thể chứa
chỉ được một
nhóm nhỏ thành
phần được tuyển
lựa. Chúng ta
không được biến
cung ḷng của
Giáo Hội hoàn vũ
thành một cái tổ
bảo vệ bao che
tính chất tầm
thường của chúng
ta.
Và Giáo Hội là
Mẹ; Giáo Hội
sinh hoa kết
trái. Cần phải
thế. Bạn coi đó,
khi tôi nhận
thấy hành vi cử
chỉ tiêu cực nơi
các thừa tác
viên của Giáo
Hội hay nơi
thành phần nam
nữ sống đời tận
hiến, trong đầu
tôi chợt nghĩ
rằng: 'Đó là một
con người độc
thân bất lợi'
hay 'Đây là một
kẻ không có
chồng'. Họ không
phải là những
người làm cha
làm mẹ, ở chỗ họ
không thể cống
hiến sự sống
thiêng liêng.
Trái lại, chẳng
hạn, khi tôi đọc
về đời sống của
các nhà thừa sai
Ḍng Don Bosco
đến Patagonia,
tôi đă đọc thấy
một câu truyện
tràn đầy sự
sống, dồi dào
hoa trái.
"Một thí dụ khác
mới xẩy ra mấy
ngày gần đây mà
tôi thấy báo chí
chú ư đến, đó là
cú điện thoại
tôi gọi cho một
thanh niên đă
viết cho tôi một
bức thư. Tôi đă
gọi điện thoại
cho anh ta v́
bức thư ấy thật
là tuyệt vời,
thật là chân
thành. Đối với
tôi th́ đó là
một hành động có
tính chất sáng
tạo. Tôi nhận
thấy anh ta là
một con người
trẻ đang vươn
lên, anh ta thấy
một người cha ở
nơi tôi, và bức
thư đă nói với
người cha này về
đời sống của anh
ta. Người cha ấy
không thể nói
rằng 'tôi không
cần'. Kiểu mang
lại hoa trái này với
tôi thật là tốt đẹp".
8- Các Giáo Hội
trẻ trung và Các
Giáo Hội cổ xưa
Vẫn tiếp tục vấn
đề về Giáo Hội,
tôi hỏi Đức Giáo
Hoàng một câu
hỏi liên quan
đến Ngày Giới
Trẻ Thế Giới vừa
qua. Đại biến cố
này đă chiếu tỏa
trên giới trẻ
cũng như trên "những
buồng phổi"
thiêng liêng là
các Giáo Hội
Công Giáo mới
được thành lập
gần đây theo
gịng lịch sử.
Tôi đặt vấn đề:
"Đâu là niềm hy
vọng của Đức
Giáo Hoàng xuất
phát từ các Giáo
Hội này đối với
Giáo Hội hoàn vũ?"
Đức Giáo Hoàng
trả lời: "Các
Giáo Hội Công
Giáo trẻ trung,
trong khi tăng
trưởng, đă khai
triển một thứ
tổng hợp đức
tin, văn hóa và
đời sống, và v́
thế nó là một
tổng hợp khác
với thức tổng
hợp được khai
triển của các
Giáo Hội cổ xưa.
Đối với tôi,
mối liên hệ giữa
các Giáo Hội
Công Giáo cổ xưa
và các Giáo Hội
trẻ trung th́
giống như mối
liên hệ giữa
thành phần trẻ
trung và lăo
niên trong xă
hội.
Họ đều xây dựng
tương lai, giới
trẻ xây dựng
bằng sức mạnh
của ḿnh và giới
già bằng sự khôn
ngoan của ḿnh.
Dĩ nhiên bao giờ
cũng có một số
những nguy cơ
nào đó.
Các Giáo Hội trẻ
trung dường như
cảm thấy ḿnh tự
măn; các Giáo
Hội cổ xưa dường
như muốn áp đặt
trên các Giáo
Hội trẻ trung
các mẫu thức văn
hóa của họ. Thế
nhưng chúng ta
cùng nhau xây
dựng tương lai".
9- Giáo Hội như
là một Bệnh Viện
Lưu Động (Field
Hospital)
Đức Giáo Hoàng
Biển Đức XVI,
khi tuyên bố từ
nhiệm đă nói
rằng thế giới
hiện đại của
chúng ta đang
thay đổi nhanh
chóng và đang
đối chọi với các
vấn đề thật quan
trọng cho đời
sống đức tin. Để
đương đầu với
các vấn đề ấy
đ̣i phải có sức
mạnh thể xác
cũng như linh
hồn, ngài nói
thế. Tôi đă hỏi
Đức Giáo Hoàng
Phanxicô rằng: "Giáo
Hội đang cần ǵ
nhất vào thời
điểm lịch sử này
đây? Chúng ta có
cần canh tân cải
cách hay chăng?
Đâu là những ước
muốn của Đức
Giáo Hoàng về
Giáo Hội trong
những năm tới
đây? Đâu là loại
Giáo Hội Đức
Giáo Hoàng mơ
tưởng?"
Đức Giáo Hoàng
Phanxicô bắt đầu
bằng việc bày tỏ
tấm ḷng rất cảm
mến và hết sức
kính cẩn đối với
vị tiền nhiệm
của ngài: "Đức
Giáo Hoàng Biển
Đức đă thực hiện
một hành động
thánh thiện, cao
cả, khiêm tốn.
Ngài là người
của Thiên Chúa".
Đức Giáo Hoàng
tiếp: "Tôi
thấy một cách rơ
ràng là điều mà
Giáo Hội cần
nhất hôm nay đây
đó là khả năng
chữa lành các
vết thương và
sưởi ấm ḷng tín
hữu;
Giáo Hội cần gần
gũi, sát cận.
Tôi coi Giáo Hội
như là một bệnh
viện lưu động
sau trận chiến.
Thật là vô bổ
khi hỏi một
người bị thương
trầm trọng xem
họ có bị cao mỡ
và về độ đường
trong máu của họ
hay chăng!
Bạn cần phải
chữa lành cho
các vết thương
của họ. Sau đó
chúng ta mới nói
đến bất cứ một
cái ǵ khác. Hăy
chữa lành các
thương tích, hăy
chữa lành các
thương tích...
Và bạn cần phải
bắt đầu từ mặt
đất trở lên.
"Đôi
khi Giáo Hội
khóa ḿnh vào
những điều nhỏ
mọn, vào những
qui luật ti tiểu.
Điều quan trọng
nhất đó là lời
loan báo tiên
khởi: Chúa Giêsu
Kitô đă cứu bạn.
Và các vị thừa tác viên của Giáo Hội trên
hết cần phải là
các thừa tác
viên của t́nh
thương.
Chẳng hạn, vị
giải tội bao giờ
cũng nguy hiểm
khi tỏ ra thái
độ một là quá
nghiêm ngặt hai
là quá rộng răi.
Chẳng có cái
thái độ nào
trong hai thái
độ này là thương
xót hết, v́ cả
hai đều thật sự
không có trách
nhiệm đối với
con người.
Thành phần
nghiêm ngặt phủi
tay đẩy sang cho
giới luật. Vị
thừa tác viên
lỏng lẻo th́
phủi tay thản
nhiên nói: 'Nó
không phải là
tội' hay nói
điều ǵ tương tự
như vậy.
Trong việc thi
hành thừa tác
mục vụ, chúng ta
cần phải hỗ trợ
con người, và
chúng ta cần
phải chữa lành
thương tích cho
họ.
"Chúng ta đang
đối xử với dân
Chúa ra sao?
Tôi mơ tưởng đến
một Giáo Hội như
là một bà mẹ và
là một nữ mục tử.
Các thừa tác
viên của Giáo
Hội cần phải
biết xót thương,
cần phải tỏ ra
trách nhiệm đối
với con người và
hỗ trợ họ như
người Samaritanô
nhân lành, người
tẩy rửa, lau
sạch và nâng
dậy cận nhân của
ḿnh.
Đó là Phúc Âm
tinh tuyền.
Thiên Chúa là
Đấng cao cả hơn
tội lỗi.
Những thứ canh
tân cải cách về
cấu trúc và tổ
chức là những ǵ
thứ yếu - tức là
đến sau. Cái
canh tân cải
cách đầu tiên
cần phải là thái
độ.
Các thừa tác
viên của Phúc Âm
cần phải là
người có thể
sưởi ấm ḷng
người, là người
bước đi với họ
qua đêm đen, là
người biết làm
sao để có thể
trao đổi đối
thoại và chính
ḿnh đi vào màn
đêm của con
người của ḿnh,
đi vào bóng tối
mà không bị lạc
mất.
Dân Chúa muốn
các vị mục tử
chứ không phải
hàng giáo sĩ tác
hành như thành
phần quan lại
hay các viên
chức chính quyền.
Đặc biệt là các
vị giám mục cần
phải có thể nhẫn
nại nâng đỡ
những phong trào
của Thiên Chúa
nơi thành phần
dân của các vị,
nhờ đó không ai
bị loại trừ. Thế
nhưng, các vị
cũng cần phải có
thể hỗ trợ đàn
chiên để chúng
có được một sự
tinh khôn t́m
thấy những đường
lối mới mẻ.
"Thay
v́ chỉ là một
thứ Giáo Hội đón
nhận và nhận
lănh ở việc giữ
cho cửa mở ra
th́ chúng ta
cũng hăy cố gắng
trở thành
một Giáo Hội t́m
các con đường mới,
tức là có thể
bước ra bên
ngoài ḿnh đến
với những ai
không dự lễ, với
những ai buông
bỏ hay dửng dưng.
Những ai
buông bỏ đôi khi
làm thế v́ những
lư do mà nếu
hiểu và thẩm
định thích đáng,
có thể dẫn dẫn
đến chỗ quay trở
về. Tuy nhiên
điều này cần
phải táo bạo và
can đảm".
Tôi đề cập với
Đức Giáo Hoàng
Phanxicô rằng có
những Kitô hữu
sống trong t́nh
trạng bất thường
đối với Giáo Hội
hay ở trong các
trường hợp phức
tạp cho thấy
được những vết
thương nhức nhối.
Tôi đề cập tới
thành phần ly dị
rồi tái hôn,
thành phần vợ
chồng đồng tính
cùng với các
trường hợp khó
khăn khác. Chúng
ta có thể thực
hiện thứ công
việc mục vụ nào
ở trong những
trường hợp ấy?
Đâu là các thứ
dụng cụ chúng ta
có thể sử dụng?
Đức Giáo Hoàng
nói: "Chúng ta
cần loan báo
Phúc Âm ở mọi
hang cùng ngỏ
hẻm, rao giảng tin
mừng Nước Trời
và chữa lành hết
mọi thứ bệnh nạn
và thương tích,
thậm chí bằng cả
việc rao giảng
của chúng ta. Ở
Buenos Aires tôi
thường nhận được
những bức thư từ
thành phần đồng
tính bị 'thương
tích về xă hội',
v́ họ nói với
tôi rằng họ cảm
thấy như thể
Giáo Hội luôn
lên án họ. Thế
nhưng, Giáo Hội
không muốn làm
điều ấy. Trong
chuyến bay từ
Rio de Janerio
về tôi đă nói
rằng
nếu một người
đồng tính có
thiện tâm và t́m
kiếm Thiên Chúa
th́ tôi không
phải là người phán
xét.
Nói như thế là
tôi nói những ǵ
giáo lư viết.
Tôn giáo có
quyền bày tỏ ư
nghĩ của ḿnh
trong việc phục
vụ dân chúng,
thế nhưng Thiên
Chúa đă tạo dựng
nên chúng ta có
tự do: không thể
nào can thiệp
vào đời sống của
người ta về
phương diện
thiêng liêng.
"Có lần một
người hỏi tôi
một cách khiêu
khích rằng tôi có
chuẩn nhận vấn
đề đồng tính
chăng. Tôi đă
đáp lại bằng một
câu hỏi khác
rằng:
'hăy nói cho
tôi biết khi
Thiên Chúa nh́n
vào một người
đồng tính th́
Ngài có yêu
thương chấp nhận
sự hiện hữu của
con người này
không, hay loại
trừ và lên án
con người ấy?'
Chúng ta bao giờ
cũng cần phải
lưu ư tới con
người. Đến đây
chúng ta tiến
vào mầu nhiệm
con người. Trong
cuộc đời, Thiên
Chúa hỗ trợ con
người, và
chúng ta cần
phải hỗ trợ họ,
bắt đầu từ t́nh
trạng của họ.
Cần phải hỗ trợ
họ bằng t́nh
thương.
Khi thực hiện
như thế rồi th́
Thánh Linh tác động
vị linh mục nói
lên điều hay lẽ
phải.
"Điều này cũng
rất có lợi cho
việc xưng tội
như là một bí
tích, ở chỗ thẩm
định tùy trường
hợp và nhận thức
điều ǵ tốt nhất
cho một người
đang t́m kiếm
Thiên Chúa và ân
sủng.
Ṭa giải tội
không phải là
một căn pḥng
tra tấn mà là
nơi cho t́nh
thương của Chúa
thúc đẩy chúng
ta sống tốt hơn.
Tôi cũng lưu ư
tới trường hợp
của một người
đàn bà có một
cuộc sống hôn
nhân không hạnh
phúc trong quá
khứ của ḿnh và
bà cũng đă phá
thai một lần.
Thế rồi người
đàn bà này tái
hôn, hiện nay
đang sống hạnh
phúc và có 5
người con. Việc
phá thai trong
quá khứ vẫn đè
nặng trên lương
tâm của bà và bà
thành tâm hối
hận về nó. Bà
muốn tiến lên
trong đời sống
Kitô hữu
của ḿnh. Vị
giải tội phải
làm ǵ đây?
"Chúng
ta không thể chỉ
nhấn mạnh đến
các vấn đề liên
hệ tới việc phá
thai, hôn nhân
đồng tính và
việc sử dụng các
phương pháp ngừa
thai. Không thể
thế được.
Tôi không nói
nhiều về những
vấn đề này, và
v́ thế mà tôi đă
bị trách móc.
Thế nhưng, khi
chúng ta nói về
những vấn đề ấy,
chúng ta cần
phải nói về
chúng trong một
bối cảnh. Giáo
huấn của Giáo
Hội, về vấn đề
này, rơ ràng và
tôi là con của
Giáo Hội, thế
nhưng không cần
phải lúc nào
cũng nói về
những vấn đề ấy.
"Những
giáo huấn về tín
lư và luân lư
của Giáo Hội
không phải tất
cả đều tương
đương nhau. Việc
thừa tác mục vụ
của Giáo Hội
không thể nào bị
ám ảnh bởi việc
truyền đạt một
đống rời rạc các
thứ tín lư cần
phải áp đặt một
cách nhất trí.
Việc loan báo
theo kiểu cách
truyền giáo tập
trung vào những
ǵ là thiết yếu,
vào những điều
cần thiết: đó
cũng là những ǵ
làm say mê và
thu hút hơn nữa,
những ǵ làm tâm
can nóng lên như
đă xẩy ra cho
các môn đệ đi
Emmau.
Chúng ta cần
phải t́m thấy
một thứ quân
b́nh mới; bằng
không, ngay cả
lâu đài luân lư
của Giáo Hội có
thể bị sụp đổ
như một ngôi nhà
của những lá bài,
mất đi tính chất
tươi mát và thơm
tho của Phúc Âm.
Việc đặt vấn đề
về Phúc Âm cần
phải giản dị hơn,
sâu xa hơn, sáng
tỏ hơn. Các hệ
quả luân lư là
những ǵ được rút
tỉa từ chính
việc đặt vấn đề
Phúc Âm này.
"Tôi nói điều
này cũng nghĩ
đến cả việc giảng
và nội dung của
việc chúng ta
giảng. Một bài
giảng tuyệt vời,
một bài giảng chân
thực cần phải
bắt đầu bằng việc
công bố tiên
khởi, bằng việc
công bố ơn cứu
độ. Không có ǵ
vững chắc hơn,
sâu xa hơn và
bảo đảm hơn việc
công bố này. Sau
đó bạn cần phải
thực hiện việc
dạy giáo lư. Rồi
bạn có thể rút
tỉa ra một hệ
quả luân lư nào
đó. Thế nhưng,
việc công bố
t́nh yêu cứu độ
của Thiên Chúa
xuất phát trước
những đ̣i hỏi về
luân lư và đạo
lư.
Ngày nay, đôi
khi cái thứ tự
đảo ngược lại thịnh
hành hơn.
Bài giảng là
tiêu chuẩn đo
lường sự gần gũi và
khả năng của vị
mục tử trong
việc gặp gỡ dân
của ngài, v́
những ai giảng
dạy cần phải
nhận biết tâm
can của cộng đồng
ḿnh, và cần
phải có thể thấy được
ước muốn Thiên
Chúa sống động
và nhiệt thành ở
chỗ nào. Bởi thế,
sứ điệp của Phúc
Âm không được
biến thành một
số khía cạnh cho
dù thích đáng
nhưng tự ḿnh
chúng không cho
thấy tâm điểm
của sứ điệp về
Chúa Giêsu Kitô".
10- Một Vị Giáo
Hoàng của Ḍng
Tu
Đức Giáo Hoàng
Phanxicô là vị
giáo hoàng thuộc
một ḍng tu đầu
tiên từ Đức
Gregory XVI (là
một đan sĩ
Camaldolese)
được tuyển bầu
năm 1831. Tôi lên
tiếng hỏi: "Đâu
là vị trí đặc
biệt của tu sĩ
nam nữ trong
Giáo Hội ngày
nay?".
Đức Giáo Hoàng
nói: "Tu sĩ nam
nữ là thành phân
ngôn sứ. Họ là
những người được
tuyển chọn theo
Chúa Giêsu để
bắt chước đời
sống của Người
trong việc tuân
phục Chúa Cha,
trong khó nghèo,
trong đời sống
cộng đồng và
trong sự thanh
tịnh. Theo ư
nghĩa đó th́ các
lời khấn không
thể trở thành
những bức biếm
họa; bằng không,
chẳng hạn, đời
sống cộng đồng
trở thành hỏa
ngục, và đức
thanh tịnh trở
nên một lối sống
độc thân không
mang lại hoa
trái ǵ. Lời
khấn thanh tịnh
cần phải là một
lời khấn của
thành quả. Trong
Giáo Hội, người
tu sĩ được kêu
gọi trở thành
ngôn sứ đặc biệt
bằng việc chứng
thực về cách
thức Chúa Giêsu
đă sống trên
trái đất này, và
loan truyền cho
thấy vương quốc
của Thiên Chúa
sẽ được trị đến
ở tầm mức trọn
hảo của ḿnh.
Một người tu sĩ
không bao giờ
được bỏ qua tính
chất ngôn sứ.
Điều ấy không có
nghĩa là chống
lại yếu tố phẩm
trật của Giáo
Hội, mặc dù phần
hành ngôn sứ và
cơ cấu phẩm trật
không trùng hợp
với nhau.
Tôi đang nói về
một đề xuất bao
giờ cũng có tính
cách tích cực,
thế nhưng nó
không được gây
ra những ǵ là e
dè sợ hăi. Chúng
ta hăy nghĩ đến
những ǵ đă được
thực hiện bởi
thật là nhiều
các vị đại thánh,
các đan sĩ và tu
sĩ nam nữ, từ
Thánh Antôn Đan
Viện Phụ trở đi.
Là thành phần
ngôn sứ đôi khi
bao hàm việc gây
sóng gió.
Tôi không biết
phải nói thế nào...
Việc ngôn sứ gây
ra tiếng vang
động, náo động,
có người nói là
'một thứ ào ạt'.
Thế nhưng trong
thực tế, đặc
sủng của thành
phần tu sĩ nam
nữ giống như
men: việc ngôn
sứ là những ǵ
loan báo tinh
thần của Phúc Âm".
11- Ṭa Thánh
Rôma
Tôi hỏi Đức Giáo
Hoàng rằng ngài
nghĩ ǵ về các
phân bộ của Ṭa
Thánh Rôma,
những ngành khác
nhau trợ giúp
công việc của
Đức Giáo Hoàng.
Ngài nói: "Các
phân bộ của Ṭa
Thánh Rôma là để
phục vụ giáo
hoàng và các vị
giám mục. Chúng
cần phải phụ
giúp cả các Giáo
Hội riêng nữa
cũng như các hội
đồng giám mục.
Chúng là dụng cụ
phụ giúp.
Tuy nhiên, có
những trường hợp
chúng không hành
sự ngon lành,
chúng có nguy cơ
trở thành những
cơ quan kiểm
duyệt.
Thật là lạ lùng
khi thấy những
thứ tố giác v́
thiếu truyền
thống được tường
tŕnh về Rôma.
Tôi nghĩ những
trường hợp này
cần phải được
điều tra bởi các
hội đồng giám
mục địa phương,
những cơ cấu có
thể được trợ
giúp đáng kể của
Rôma. Thật vậy,
những trường hợp
này tốt hơn cần
phải được giải
quyết ở địa
phương.
Những thánh bộ ở
Rôma là thành
phần dàn xếp;
chúng không phải
là thành phần
môi giới hay
quản đốc".
Vào ngày 29/6,
trong nghi thức
làm phép và trao khoác
áo choàng cho 34
vị tổng giám mục
cai quản các
tổng giáo phận, Đức
Giáo Hoàng
Phanxicô đă nói
về "đường lối
của đoàn tính"
như là con đường
dẫn Giáo Hội đến
chỗ "tăng trưởng
trong hài ḥa với
việc phục vụ của vai
tṛ thủ lănh".
Bởi thế nên tôi
đặt vấn đề: "Làm
thế nào để chúng
ta ḥa hợp vai
tṛ chính của
Thánh Phêrô và
đoàn tính? Đâu
là con đường khả
thi theo quan
điểm của Giáo
Hội toàn cầu?"
Đức Giáo Hoàng
đáp: "Chúng ta
cần phải cùng
nhau bước đi:
dân chúng, các
vị giám mục và
giáo hoàng. Hội
đồng tính cần
phải sống ở các
cấp trật khác
nhau.
Có thể đă đến
lúc cần phải
thay đổi phương
pháp cho các
Thượng Nghị Giám
Mục, v́ theo tôi,
phương pháp hiện
hành không có
tính chất năng
động.
Điều này cũng sẽ
có một giá trị
đại đồng nữa,
nhất là với anh
em Chính Thống
của chúng ta. Từ
những người anh
em này chúng ta
biết hơn về ư
nghĩa đoàn tính
giáo phẩm và
truyền thống của
hội đồng tính.
Việc nỗ lực
chung chia sẻ,
khi nh́n vào
cách thức Giáo
Hội được quản
trị ở những thế
kỷ đầu, trước
cuộc rạn nứt
giữa Đông và Tây,
sẽ mang lại hoa
trái vào thời điểm
của nó. Trong
các mối liên hệ
toàn cầu chẳng
những cần phải
biết nhau hơn,
mà c̣n cần phải
nhận biết những
ǵ Thần Linh
gieo nơi ai khác
như là một tặng ân
cho chúng ta nữa.
Tôi muốn tiếp
tục cuộc bàn
thảo được bắt đầu
từ năm 2007 này
bởi ủy ban chung
Công Giáo và
Chính Thống về
cách thức hành
xử vai tṛ thủ
lănh của Thánh
Phêrô , một cuộc
bàn thảo đă dẫn
đến việc kư nhận
Văn Kiện
Ravenna. Chúng
ta cần phải tiếp
tục con đường
này".
Tôi hỏi Đức
Thánh Cha
Phanxicô h́nh
dung ra sao về
mối hiệp nhất
tương lai của
Giáo Hội theo
chiều hướng ấy.
Ngài trả lời
rằng: "Chúng
ta cần phải tiến
bước với những
khác biệt của
chúng ta: không
c̣n cách nào
khác để trở nên
một. Đó là đường
lối của Chúa
Giêsu".
12- Nữ Giới
trong Đời Sống
của Giáo Hội
C̣n về vai tṛ
của nữ giới
trong Giáo Hội
th́ sao? Đức
Giáo Hoàng đă đề
cập đến vấn đề
này vào một số
dịp. Ngài đă
nhắc lại vấn đề
này trong chuyến
trở về từ Rio de
Janeiro, than
rằng Giáo Hội
vẫn thiếu một
khoa thần học
sâu xa về nữ
giới. Tôi hỏi
ngài: "Đâu
là vai tṛ của
nữ giới cần phải
có trong Giáo
Hội? Chúng ta
làm sao để cho
vai tṛ này của
họ trở nên tỏ
hiện hơn hôm nay
đây?"
Ngài trả lời: "Tôi
đang thận trọng
về một giải
quyết có thể
biến thành một
thứ 'female
machismo -
nữ giới nam
tính', v́ nữ
giới được tạo
nên khác với nam
nhân. Thế nhưng
những ǵ tôi
nghe về vai tṛ
của nữ giới
thường được ảnh
hưởng bởi ư hệ
machismo -
nam tính.
Nữ giới đang đặt
ra những vấn đề
sâu xa cần phải
được giải quyết.
Giáo Hội không
thể là ḿnh mà
thiếu nữ giới và
vai tṛ của nữ
giới. Nữ giới là
thành phần thiết
yếu cho Giáo Hội.
Mẹ Maria, một nữ
nhân, quan trọng
hơn cả các vị
giám mục. Tôi
nói điều này để
chúng ta khỏi bị
lầm lẫn giữa
phần vụ và phẩm
vị.
Bởi vậy chúng ta
cần phải t́m
hiểu hơn nữa về
vai tṛ của nữ
giới trong Giáo
Hội.
Chúng ta cần
phải gắng sức
hoạt động hơn
nữa để khai
triển một khoa
thần học sâu xa
về nữ giới. Chỉ
khi nào thực
hiện bước đầu
này mới có thể
phản ảnh rơ hơn
về phần hành của
họ trong Giáo
Hội.
Cái tinh hoa phú
bẩm của nữ giới
là những ǵ cần
thiết bất cứ khi
nào chúng ta
thực hiện những
quyết định quan
trọng. Cuộc
thách đố ngày
nay đó là hăy
nghĩ tới vị trí
đặc biệt của nữ
giới cả ở những
nơi quyền bính
Giáo Hội thực
thi đối với các
lănh vực khác của
Giáo Hội".
13- Công Đồng
Chung Vaticanô
II
Tôi đặt vấn đề:
"Công
Đồng Chung
Vaticanô II đă
hoàn thành được
những ǵ?”
Đức Giáo Hoàng
trả lời: "Công
Đồng Chung
Vaticanô II là
việc tái đọc lại
Phúc Âm trong
bối cảnh của nền
văn hóa thời
hiện đại. Công
Đồng Chung
Vaticanô II đă
làm phát sinh ra
một phong trào
canh tân cũng
chỉ xuất phát từ
Phúc Âm.
Hoa trái của
việc canh tân
này là những ǵ
lớn lao. Chỉ cần
nhắc lại vấn đề phụng
vụ. Công cuộc
canh tân phụng
vụ đă giúp cho
dân chúng đọc
lại Phúc Âm
trong một hoàn
cảnh lịch sử cụ
thể.
Phải, có những
thứ dẫn giải về
tính chất liên
tục và bất liên
tục liên quan
đến công đồng
này, thế nhưng
một điều hiển
nhiên đó là tính
chất năng động
của việc đọc
Phúc Âm, việc
hiện thực hóa sứ
điệp của Phúc Âm
hợp với ngày hôm
nay -
tiêu biểu cho
Công Đồng Chung
Vaticanô II -
hoàn toàn là
những ǵ bất khả
văn hồi.
Thế rồi cũng có
các vấn đề đặc
biệt, như phụng
vụ theo Vetus
Ordo - nghi lễ
cũ hay thể thức
ngoại lệ.
Tôi nghĩ quyết
định của Đức
Giáo Hoàng Biển
Đức XVI (ngày
7/7/2007 cho
phép rộng răi
việc cử hành Lễ
Latinh của Công
Đồng Chung
Triđentinô) là
những ǵ khôn
ngoan và được
tác động bởi ư định muốn
giúp cho dân
chúng có cảm thức
ấy. Tuy nhiên,
điều quan ngại
đó là cái nguy
cơ bị ư hệ hóa
thứ Vetis Ordo -
nghi lễ cũ hay
thể thức ngoại
lệ này, cái nguy
cơ nó bị khai
thác".
14- T́m Kiếm và
T́m Gặp Thiên
Chúa trong hết
mọi sự
Tại Ngày Giới
Trẻ Thế Giới ở
Rio de Janeiro,
Đức Giáo Hoàng
Phanxicô đă
tuyến bố mấy lần
rằng: "Thiên
Chúa có thật.
Ngài tỏ ḿnh ra
hôm nay đây.
Ngài ở khắp mọi
nơi". Những câu
này âm vang câu
nói của Ḍng Tên
đó là "t́m kiếm
và t́m gặp Thiên
Chúa trong tất
cả mọi sự". Bởi
thế tôi đă hỏi
Đức Giáo Hoàng
rằng: "Đức
Giáo Hoàng t́m
kiếm và t́m gặp
Thiên Chúa trong
tất cả mọi sự như
thế nào?"
Ngài trả lời: "Những
ǵ tôi đă nói ở
Rio liên quan
đến thời điểm
chúng ta t́m
kiếm Thiên Chúa.
Thật vậy, có
khuynh hướng t́m
kiếm Thiên Chúa
trong quá khứ
hay trong một
tương lai khả dĩ.
Thiên Chúa quả
thực ở trong quá
khứ, v́ chúng ta
có thể thấy được
các dấu vết của
Ngài. Và Thiên
Chúa cũng ở
trong tương lai
như lời hứa hẹn.
Thế nhưng có thể
nói Vị Thiên
Chúa 'cụ thể' là
ngày hôm nay đây.
Đó là lư do việc
phàn nàn chẳng
bao giờ giúp
chúng ta t́m gặp
Thiên Chúa.
Những thứ than
phiền ngày nay
về một thế giới
'man rợ' biết
bao - những phàn
nàn này đôi khi
làm phát sinh ra
trong Giáo Hội
những ước muốn
thiết lập trật
tự theo chiều
hướng hoàn toàn
bảo thủ, như là
một thứ bênh vực.
Không: Thiên
Chúa cần phải
được hội ngộ
trong thế giới
ngày nay.
"Thiên
Chúa tỏ ḿnh ra
nơi mạc khải
lịch sử, trong
lịch sử.
Thời gian là yếu
tố mở màn cho
những tiến tŕnh
và không gian là
nơi kết tụ những
tiến
tŕnh ấy lại.
Thiên Chúa ở
trong lịch sử,
trong các tiến
tŕnh.
"Chúng
ta không được
tập trung vào
vấn đề chiếm cứ
các nơi chốn là
chỗ cho quyền
năng thể hiện,
trái lại, vào
việc bắt đầu
những tiến tŕnh
lịch sử lâu dài.
Chúng ta cần
phải khởi sự cho
các tiến tŕnh
hơn là chiếm lấy
các nơi chốn.
Thiên Chúa tỏ
ḿnh ra trong
thời gian và
hiện diện trong
các tiến tŕnh
của lịch sử.
Điều này cho
thấy đâu
là những ǵ ưu
tiên cho các
hành động mang
lại những sinh
động mới trong
lịch sử. Và nó
đ̣i phải nhẫn
nại, đợi chờ.
"Việc t́m gặp
Thiên Chúa trong
tất cả mọi sự
không phải là
một thứ
'empirical
eureka -
bất ngờ khám phá
thấy theo thí
nghiệm'. Khi
chúng ta mong
muốn gặp gỡ
Thiên Chúa,
chúng ta muốn
lập tức chứng
thực Ngài bằng
phương pháp thí
nghiệm. Thế
nhưng bạn không
thể nào gặp gỡ
Thiên Chúa như
thế. Thiên Chúa
được t́m gặp nơi
làn gió hiu hiu
thổi như Tiên
Tri Elia cảm
nhận. Các thứ
cảm quan t́m gặp
Thiên Chúa là
những thứ cảm
quan được Thánh
I Nhă gọi là các
cảm quan thiêng
liêng. Thánh
nhân xin chúng
ta hăy dùng cảm
quan thiêng
liêng của ḿnh
để hội ngộ với
Thiên Chúa, vượt
lên trên thứ
đường lối thuần kinh
nghiệm.
Cần có một thái
độ chiêm niệm:
nó là cảm thức
bạn đang tiến
theo đường ngay
nẻo chính của
kiến thức và cảm
t́nh đối với các
sự vật và sự
việc.
Những dấu hiệu
cho thấy rằng
bạn đang đi trên
đường ngay nẻo
chính đó là t́nh
trạng b́nh an
sâu xa, niềm yên
ủi thiêng liêng,
ḷng kính mến
Thiên Chúa và
yêu mến tất cả
mọi sự trong
Chúa".
15- Tính chất
vững chắc và
những sai lầm
Tôi hỏi ngài
rằng: "Vậy nếu
việc hội ngộ với
Thiên Chúa không
phải là một thứ
'empirical
eureka -
bất ngờ khám phá
thấy theo thí
nghiệm', và
nếu nó là một
cuộc hành tŕnh
trông nh́n bằng
con mắt của lịch
sử, vậy th́
chúng ta cũng có
thể bị sai lầm?"
Đức Giáo Hoàng
trả lời: "Đúng
thế, trong cuộc
theo đuổi để t́m
kiếm và t́m gặp
Thiên Chúa này
trong tất cả mọi
sự vẫn có một
lănh vực không
chắc chắn. Cần
phải như thế.
Nếu một người
nói rằng họ đă
gặp Thiên Chúa
một cách hết sức
chắc chắn và
không hề hồ nghi
ǵ hết th́ lại
là một điều
không tốt. Đối
với tôi, đó là
điều then chốt
hệ trọng. Nếu ai
đó có được các
câu giải đáp cho
tất cả mọi vấn
nạn - th́ đó là
dấu cho thấy
Thiên Chúa không
ở cùng họ. Tức
họ là một thứ
tiên tri giả sử
dụng tôn giáo vị
thân.
Những nhà đại
lănh đạo của dân
Chúa, như Moisen,
bao giờ cũng c̣n
chỗ cho vấn đề
ngờ vực. Bạn cần
phải giành chỗ
cho Chúa, chứ
không cho các
thứ chắc chắn
của chúng ta;
chúng ta cần
phải khiêm tốn.
Vấn đề không
vững chắc là vấn
đề ở trong hết
mọi nhận thức
chân thực hướng
về việc t́m gặp
cái chứng thực ở
nơi niềm an ủi
thiêng liêng.
"Thế
nên, cái nguy cơ
trong việc t́m
kiếm và t́m gặp
Thiên Chúa trong
tất cả mọi sự là
ở thái độ sẵn
sàng giải thích
quá nhiều, nói
một cách chắc
chắn theo nhân
loại và ngạo
nghễ rằng:
'Thiên Chúa đây
nè'. Chúng ta sẽ
t́m gặp một
thiên chúa hợp
với tầm vóc của
chúng ta thôi.
Thái độ đúng đắn
là thái độ của
Thánh Âu Quốc
Tinh, đó là thái
độ hăy t́m kiếm
Thiên Chúa để
gặp được Ngài,
và hăy t́m gặp
Thiên Chúa để
tiếp tục t́m
kiếm Ngài luôn
măi. Chúng ta
thường t́m kiếm
như thể chúng ta
bị lù ḷa, như
người thường đọc
Thánh Kinh.
Và đó là kinh
nghiệm của các
vị cha ông đức
tin, những vị là
mô phạm của
chúng ta. Chúng
ta cần phải đọc
lại Bức Thư gửi
cho Kitô Hữu
Cộng Đoàn Do
Thái, Đoạn 11.
Tổ Phụ Abraham
ĺa bỏ nhà của
ḿnh theo đức
tin mà không
biết ḿnh đi về
đâu. Tất cả mọi
vị cha ông của
chúng ta về đức
tin đă chết khi
thấy những điều
tốt lành được
hứa hẹn nhưng
lại cách xa.... Đời
sống của chúng
ta không được
ban cho chúng ta
như là một opera
libretto - bản
nhạc kịch,
trong đó tất
cả đều đă được
viết sẵn; mà là
đi, là tiến
bước, là thực
hiện, là t́m
kiếm, là thấy
được... Chúng ta
cần phải dấn
thân mạo hiểm
trong cuộc lùng
kiếm để gặp gỡ
Thiên Chúa;
chúng ta cần
phải để Thiên
Chúa t́m kiếm và
gặp gỡ chúng ta.
"V́ Thiên Chúa
là tiên khởi;
Thiên Chúa bao
giờ cũng là tiên
khởi và thực
hiện tác động
đầu tiên. Thiên
Chúa hơi giống
như thứ hạnh huê
ở xứ Sicily
Antonio của bạn,
thứ hoa bao giờ
cũng nở đầu tiên.
Chúng ta đọc
thấy điều này ở
nơi các Tiên
Tri.
Thiên Chúa được
gặp gỡ khi tiến
bước, dọc theo
đường đi.
Ở giao điểm này,
ai đó có thể nói
rằng đây là một
thứ chủ nghĩa tương
đối. Có đúng là
chủ nghĩa tương
đối hay chăng?
Đúng vậy, nếu nó
bị hiểu sai đi
như là một thứ
phiếm thần mơ hồ.
Nó không phải là
chủ nghĩa tương
đối nếu nó được
hiểu theo chiều
hướng Thánh Kinh,
ở chỗ
Thiên Chúa bao
giờ cũng là một
bất ngờ, nên bạn
không bao giờ
biết được ở đâu
và làm cách nào
bạn sẽ t́m gặp
được Ngài. Bạn
không phải là
người đặt định
thời gian và
không gian cho
cuộc hội ngộ với
Ngài. Bởi thế,
bạn cần phải
nhận thức cuộc
gặp gỡ này. Nhận
thức là những ǵ
thiết yếu.
"Nếu
Kitô hữu là
thành phần về
nguồn (restorationist),
thành phần pháp
thủ (legalist),
nếu họ muốn hết
mọi sự rơ ràng
và an toàn th́
họ sẽ chẳng t́m
thấy được ǵ hết.
Truyền thống và
kư ức của quá
khứ cần phải
giúp chúng ta
trở nên can đảm để hướng
những lănh vực
mới về Thiên
Chúa.
Những ai ngày
nay luôn t́m
kiếm những giải
quyết theo kỷ
cương luật pháp,
những ai mong
muốn có được một
thứ 'an toàn' về
tín lư quá đáng,
những ai cứ nhất
quyết phục hồi
một quá khứ
không c̣n hiện
hữu nữa - họ là
thành phần có
một cái nh́n
không thay đổi
và hướng nội về
sự vật. Như thế
đức tin trở
thành một thứ ư
hệ trong những
thứ ư hệ khác.
Tôi có một niềm
tin tưởng về tín
điều thế này:
Thiên Chúa ở nơi
hết mọi cuộc
sống của con
người. Thiên
Chúa ở nơi cuộc
sống của hết mọi
người.
Cho dù đời sống
của một người
nào đó có trở
thành thảm họa,
cho dù nó có bị
hủy hoại bởi các
thứ trụy lạc,
nghiện hút hoặc
bất cứ sự ǵ
khác - Thiên
Chúa vẫn ở nơi
cuộc sống của
con người này.
Bạn có thể,
bạn cần phải cố
gắng t́m kiếm
Thiên Chúa nơi
hết mọi cuộc
sống của con
người.
Cho dù cuộc sống
của một người
nào đó là một
mảnh đất đầy gai
góc và cỏ lùng
chăng nữa, th́
bao giờ cũng vẫn
c̣n một chỗ nào
đó cho hạt giống
tốt có thể mọc
lên.
Bạn cần phải tin
tưởng Thiên Chúa".
16- Chúng ta cần
phải lạc quan?
Những lời của
Đức Giáo Hoàng
nhắc tôi về một
số những chia sẻ
của ngài, trong
đó chẳng hạn như
có một vị hồng y
đă viết rằng
Thiên Chúa đang
sống trong thành
phố này rồi,
giữa tất cả mọi
người và liên
kết với từng
người. Nói cách
khác, theo tôi
nghĩ, tức là nói
đến những ǵ
Thánh I Nhă đă
viết trong vấn
đề Linh Thao
rằng Thiên Chúa
"lao công và làm
việc” trong thế
giới của chúng
ta. Thế nên tôi
hỏi ngài rằng: "Chúng
ta có cần phải
trở nên lạc quan
hay chăng? Đâu
là những dấu
hiệu hy vọng
trong thế giới
ngày nay? Làm
sao chúng ta có
thể lạc quan
trong một thế
giới đang bị
khủng hoảng?"
Đức Giáo Hoàng
nói: "Tôi
không thích dùng
chữ optimism -
chủ nghĩa lạc
quan, v́ nó là
một thái độ về
tâm lư.
Tôi thích dùng
chữ hy vọng hơn,
theo những ǵ
chúng ta đọc
thấy trong Bức
Thư gửi Tín Hữu
Do Thái, Đoạn
11, đoạn đă được
tôi đề cập tới
trước đây. Các
vị cha ông về
đức tin đă tiếp
tục bước đi, đối
đầu với gian nan
khốn khó. Và
niềm hy vọng
không trở nên
thất vọng, như
chúng ta đọc
thấy trong Bức
Thư gửi Tín Hữu
Rôma. Đức Giáo
Hoàng đề nghị
hăy nghĩ đến cái
câu nói bí ẩn
đầu tiên trong
nhạc kịch
'Turandot'.
Bấy giờ tôi nghĩ
đến một cách
thuộc ḷng không
nhiều th́ ít
những câu nói bí
ẩn của vị nữ
hoàng trong nhạc
kịch ấy với giải
đáp là niềm hy
vọng: "Trong
một đêm u ám, có
bóng ma óng ánh
bay.
/
Nó vươn lên và
x̣e cánh phủ
trên một nhân
loại đen vô tận.
/
Toàn thế giới cầu
khẩn nó và tất
cả thế gian van
xin nó. / Thế
nhưng bóng ma ấy
biến mất trước
hừng đông xuất
phát ở cơi ḷng.
/ Đêm đêm nó
xuất hiện và
ngày ngày nó
tiêu tan!"
Đức Giáo Hoàng
Phanxicô nói: "Thấy
không,
niềm hy vọng của
Kitô giáo không
phải là một con
ma và nó không
lừa đảo. Nó là
một nhân đức đối
thần và v́ thế
trên hết là một
tặng ân Chúa ban
không thể nào
trở thành một
thứ chủ nghĩa
lạc quan là
những ǵ thuần
nhân loại. Thiên
Chúa không đánh
lừa niềm hy vọng;
Thiên Chúa không
thể chối bỏ bản
thân ḿnh. Thiên
Chúa là tất cả
những ǵ hứa hẹn".
17- Nghệ thuật
và tính chất
sáng tạo
Tôi giật ḿnh
khi nghe Đức
Giáo Hoàng nói
về bản nhạc kịch
"Turandot" của
Puccin khi ngài
đề cập tới mầu
nhiệm của niềm
hy vọng. Tôi
muốn hiểu hơn về
những tham khảo
liên quan đến
nghệ thuật và
văn chương của
ngài. Tôi nhắc
lại với ngài
rằng vào năm
2006 ngài đă nói
rằng các đại
nghệ thật gia
biết cách để làm
sao tŕnh bày
những thực trạng
thảm thiết và
đau thương một
cách mỹ miều.
Bởi vậy tôi hỏi
ngài là ngài
thích những nghệ
thật gia và văn
gia nào, và họ
có một cái ǵ đó
giống nhau hay
chăng.
"Tôi
thật sự là yêu
thích hàng loạt
các tác giả khác
nhau.
Tôi rất yêu
thích
Dostoevsky và
Hölderlin. Tôi
nhớ Hölderlin về
bài thơ ông viết
mừng sinh nhật
người bà của ông,
một bài thơ rất
đẹp và làm cho
tinh thần của
tôi phấn khởi
rất nhiều. Bài
thơ này kết thúc
bằng câu: "Chớ
ǵ con người nắm
chắc lấy những
ǵ con trẻ đă
hứa hẹn". Tôi
cảm thấy xúc
động cũng v́ tôi
yêu mến bà tôi
là Rosa, và ở
trong bài thơ
này, Hölderlin
đă so sánh bà
của ông với Đức
Trinh Nữ Maria,
vị đă hạ sinh
Chúa Giêsu,
người bạn của
thế gian này,
Đấng không coi
ai là xa lạ.
"Tôi
đă đọc The
Betrothed của
Alessandro
Manzoni 3 lần,
và tôi đang để
nó ở trên bàn
của tôi, v́ tôi
muốn đọc lại nó
một lần nữa.
Manzoni đă cống
hiến cho tôi rất
nhiều. Khi tôi
c̣n là một đứa
nhỏ, bà tôi đă
dạy tôi thuộc
ḷng lời mở đầu
của The
Betrothed: 'Cái
nhánh của Hồ
Como hướng về
phía nam giữa
hai dẫy núi nối
liền...' Tôi
cũng thích
Gerard Manley
Hopkins rất
nhiều.
"Trong
số những đại họa
sĩ, tôi phục
Caravaggio;
những bức tranh
của ông có ư
nghĩa đối với
tôi. Cả Chagall
nữa, với bức
'White
Crucifixion -
Cây Thập Tự Giá
trắng'.
Trong số các
nhạc sĩ, dĩ
nhiên là tôi
thích Mozart. Bộ
lễ 'El
incarmatus est -
Và lời đă hóa
thành nhục thể'
ở âm giai C thứ
không chê được;
nó nâng tâm hồn
bạn lên cùng
Chúa!
Tôi thích Mazart
được biểu diễn
bởi Clara Haskil.
Mozart làm tôi
cảm thấy măn
nguyện. Thế
nhưng, tôi không
thể nghĩ về nhạc
của ông; tôi cần
phải nghe nó.
Tôi thích nghe
Beethoven,
thế nhưng nghe
một cách
Promethean, và
dẫn giải viên
hay nhất về
Promethean đối
với tôi là
Furtwängler. Rồi
đến nhạc phẩm
Các Khổ Nạn của
Bach.
Bản nhạc của
Bach mà tôi rất
thích đó là 'Erbarme
Dich',
những giọt lệ
của Phêrô trong
'Khổ Nạn Thánh
Mathêu'. Tuyệt
vời. Thế rồi, ở
một cấp độ khác,
không thân thiết
như thế, tôi yêu
thích Wagner.
Tôi thích nghe
ông, nhưng không
luôn luôn. Buổi
tŕnh diễn về 'Cái
Nhẫn' của
Wagner của
Furtwängler tại
La Scala ở Milan
năm 1950 đối với
tôi là đệ nhất
hạng. Cả
'Parsifal' của
Knappertsbusch
năm 1962 cũng
thế.
"Chúng ta cũng
cần phải nói về
phim ảnh.
Cuốn phim 'La
Strada' của
Fellini có lẽ là
cuốn phim tôi
thích nhất.
Tôi nhận thấy
ḿnh ở trong
cuốn phim này,
một cuốn phim có
một ư nghĩa liên
quan đến Thánh
Phanxicô.
Tôi cũng tin
rằng tôi đă coi
tất cả các phim
ảnh của Ư quốc
với Anna Magnani
và Aldo Fabrizi
khi tôi ở vào
khoảng tuổi
10-12.
Một cuốn phim
nữa tôi yêu
thích đó là cuốn
'Rôma, Thành Đô
Trống'.
Tôi có được văn
hóa phim ảnh đặc
biệt là nhờ cha
mẹ của tôi là
những vị rất
thường đưa chúng
tôi đi xem phim.
"Dầu
sao nói chung
th́ tôi yêu
thích các nghệ
thật gia bi
thương, nhất là
các vị cổ điển.
Thật là một định
nghĩa đẹp được
Cervantes đặt
vào môi miệng
của hiệp sĩ
Carrasco để khen
câu truyện của
Don Quixote:
'Trẻ em có nó
trong tay ḿnh,
giới trẻ đọc nó,
người lớn hiểu
nó, người già ca
ngợi nó'. Theo
tôi th́ câu này
có thể là một
câu định nghĩa
hay về những ǵ
là cổ điển".
Tôi hỏi Đức Giáo
Hoàng về việc
dạy văn chương
cho các học sinh
trung học của
ngài.
Ngài trả lời như
sau: "Đây là một
việc hơi liều.
Tôi bắt học sinh
của tôi đọc
El Cid. Thế
nhưng chúng
không thích.
Chúng lại muốn
đọc Garcia Lorca.
Thế là tôi quyết
định chúng đọc El
Cid ở nhà
c̣n ở trong lớp
tôi sẽ dạy chúng
các tác giả mà
chúng thích nhất.
Dĩ nhiên giới
trẻ muốn đọc tác
phẩm văn chương
'hấp dẫn' hơn,
hiện đại như
La Casada Infiel
hay cổ điển như
La Celestina
của Fernando de
Rojas. Thế nhưng,
nhờ đọc những
thứ này mà chúng
có được hương vị
văn chương, thi
phú, và chúng
tôi tiếp tục với
các tác giả khác.
Thật là một kinh
nghiệm lớn lao
đối với tôi. Tôi
đă hoàn tất
chương tŕnh,
thế nhưng một
cách ngoại lệ -
tức là không
theo thứ tự
những ǵ chúng
tôi mong đợi từ
đầu, mà là theo
một thứ tự tự
nhiên xẩy ra
bằng cách đọc
các tác giả ấy.
Và cách thức ấy
lại thích hợp
với tôi, ở chỗ,
tôi không thích
một thứ thời
biểu cứng đơ, mà
tôi thích biết
được nơi chúng
tôi cần phải đến
bằng những ǵ
đọc được, bằng
một cảm quan gập
ghềnh về nơi
chúng tôi hướng
tới. Thế rồi tôi
cũng bắt đầu giúp
cho chúng viết
văn. Cuối cùng
tôi quyết định
gửi cho Ông
Borges hai câu
truyện được bọn
trẻ của tôi viết.
Tôi biết người
thư kư của ông,
vị đă từng là
giáo sư đàn
dương cầm của
tôi. Và ông
Borges đă rất
thích các câu
truyện này. Sau
đó ông bắt đầu
viết lời giới
thiệu cho tuyển
tập các bài viết
ấy".
Tôi hỏi Đức Giáo
Hoàng: "Vậy th́
tâu Đức Thánh
Cha, tính chất
sáng tạo là
những ǵ quan
trọng đối với
đời sống của một
con người phải
không?" Ngài
cười mà trả lời
rằng: "Đối với
một tu sĩ Ḍng
Tên th́ nó là
hết sức quan
trọng! Một tu sĩ
Ḍng tên cần
phải sáng tạo".
18- Nơi tiền
tuyến và trong
pḥng thí nghiệm
Trong một cuộc
viếng thăm của
các vị linh mục
và nhân viên của
tờ La Civiltà
Cattolica, Đức
Giáo Hoàng đă
nói về tầm quan
trọng của bộ ba
vấn đề "đối
thoại, nhận thức,
tiền tuyến". Và
ngài đă đặc biệt
nhấn mạnh đến điểm
cuối cùng là
tiền tuyến
(frontier), khi
trích lại lời Đức
Phaolô VI và
những ǵ vị giáo
hoàng này đă nói trong
bài diễn từ nổi
tiếng về tu sĩ
Ḍng Tên: "Bất
cứ ở đâu trong
Giáo Hội - ngay
cả trong các
lănh vực khó
khăn nhất và cao
điểm nhất, trong
những giao thời
về các thứ ư hệ,
trong những hố
mương của xă hội
- đă từng xẩy ra
và giờ đây là
một cuộc đối
thoại giữa những
ước muốn sâu xa
nhất của con
người với sứ
điệp bất hủ của
Phúc Âm, th́ tu
sĩ Ḍng Tên vẫn
đă ở đó và đang
có ở đó".
Tôi hỏi Đức Giáo
Hoàng Phanxicô
những ưu tiên
của các tạp chí
do Ḍng Tên xuất
bản là ǵ?
"Ba chữ chính
tôi đă gửi gấm
cho tờ La
Civiltà có thể
bao gồm tất cả
các tờ tạp chí
của Hội Ḍng này,
có lẽ ở cấp độ
nhiều ít khác
nhau tùy theo
bản chất của
chúng và mục
tiêu của chúng.
Khi tôi nhấn
mạnh đến vấn đề
tiền tuyến là
tôi cố ư đặc
biệt nói đến nhu
cầu của những ai
làm việc trong
cái thế giới văn
hóa làm sao cần
phải len lỏi vào
cái bối cảnh mà
họ hoạt động và
phản ảnh.
Bao giờ cũng có
cái nguy hiểm
chực chờ liên
quan đến việc
sống trong một
pḥng thí nghiệm.
Đức tin của
chúng ta không
phải là một thứ
'đức tin pḥng
thí nghiệm', mà
là một 'đức tin
hành tŕnh', một
thứ đức tin lịch
sử. Thiên Chúa
đă tỏ ḿnh ra
như lịch sử chứ
không phải như
là một tổng lược
những chân lư
trừu tượng.
Tôi sợ những
pḥng thí nghiệm,
v́ trong pḥng
thí nghiệm bạn
gặp trục trặc
th́ bạn đem
chúng về nhà để
chế ngự chúng,
để sơn phết
chúng, ở ngoài
bối cảnh của
chúng. Bạn không
thể mang về nhà
cái tiền tuyến,
thế nhưng bạn
cần phải sống ở
tuyến đầu và can
trường.
Tôi xin ngài đan
cử các trường
hợp xẩy ra theo
kinh nghiệm
riêng của ngài.
"Khi xẩy ra một
vấn đề về xă
hội, điều cần
làm đó là thực
hiện một cuộc
họp để nghiên
cứu vấn đề
nghiện hút ở một
khu lân cận ổ
chuột th́ khác
với việc đi đến
đó, sống ở đó và
t́m hiểu vấn đề
từ bên trong rồi
mang ra nghiên
cứu nó. Có một
bức thư quí báu
của Cha Arrupe
gửi cho Các
Trung Tâm Đặc
Trách Nghiên Cứu
về Xă Hội và
Hoạt Động đối
với vấn đề nghèo
khổ, trong đó
ngài nói một
cách rơ ràng
rằng
người ta không
thể nói về nghèo
khổ nếu người ta
không cảm nghiệm
được nghèo khổ,
bằng việc trực
tiếp liên hệ với
những nơi chốn
đang nghèo khổ.
Chữ insertion
- vào đời là một
từ ngữ nguy
hiểm, bởi có một
số tu sĩ đă coi
nó như là một
cái mốt,
và những thứ
thảm họa đă xẩy
ra v́ thiếu nhận
thức. Thế nhưng
nó lại thực sự
quan trọng.
"Tiền
tuyến th́ nhiều
lắm. Chúng ta
hăy nghĩ đến các
nữ tu sống ở các
bệnh viện. Họ
đang sống ở
tuyến đầu.
Tôi đang c̣n
sống đây là nhờ
một chị trong họ.
Khi tôi trải qua
một cơn bệnh
phổi ở bệnh viện,
vị bác sĩ cho
tôi thuốc trụ
sinh penicillin
và streptomycin
ở một lượng
thuốc nào đó.
Người nữ tu đang
phục vụ bấy giờ
đă tăng lên gấp
ba lần liều
thuốc của tôi,
v́ chị đă tinh
khôn một cách
liều lĩnh; chị
biết những ǵ
phải làm bởi chị
ở với bệnh nhân
mọi ngày.
Vị bác sĩ thật
sự là một bác sĩ
tốt nhưng đă ở
trong pḥng thí
nghiệm; c̣n nữ
tu này đă sống ở
tiền tuyến và
liên hệ với tiền
tuyến hằng ngày.
Việc khai hóa
tiền tuyến có
nghĩa là nói về
nó từ một nơi xa,
khóa ḿnh vào
trong một pḥng
thí nghiệm.
Các pḥng thí
nghiệm đều hữu
dụng, thế nhưng
đối với chúng ta
vấn đề phản ảnh
bao giờ cũng cần
phải bắt đầu từ
kinh nghiệm".
19- Việc tự
thức nhân bản
Tôi hỏi Đức Giáo
Hoàng Phanxicô
về những thay
đổi khổng lồ xẩy
ra trong xă hội
và cách thức con
người đang tái
suy diễn chúng.
Đến đây th́ ngài
đứng lên đi lấy
cuốn sách nguyện
ở trên bàn của
ngài. Cuốn sách
nguyện này bằng
tiếng Latinh, đă
được sử dụng đến
cũ ṃn. Ngài
mở phần Bài Đọc
cho Thứ Sáu Tuần
27 Thường Niên
và đọc cho tôi
nghe một đoạn từ
bài Commonitorium
Primum của
Thánh Vincentê
thành Lenins: "Thậm
chí ngay cả tín
lư của Kitô giáo
cũng phải tuân
theo những luật
lệ này, đó là
củng cố sau
nhiều năm
tháng, phát
triển qua gịng
thời gian, và
sâu xa theo tuổi
tác".
Đức Giáo Hoàng
dẫn giải như sau:
"Thánh Vinhcentê
thành Lenins so
sánh giữa việc
phát triển về
thể lư của con
người với việc
truyền đạt từ
thế hệ này cho
thế hệ kia kho
tàng đức tin là
những ǵ gia
tăng và được
kiên cường theo
thời gian. Ở đây,
vấn đề tự thức
nhân bản thay
đổi theo thời
gian và v́ thế ư
thức nhân bản
cũng đi vào
chiều sâu.
Chúng ta hăy cứ
nghĩ về thời
điểm vấn đề nô
lệ c̣n được chấp
nhận hay vấn đề
tử h́nh c̣n được
cho phép mà
không bị trục
trặc ǵ. Bởi thế
chúng ta tăng
trưởng trong
kiến thức về
chân lư. Các nhà
dẫn giải thánh
kinh và thần học
gia giúp cho
Giáo Hội trưởng
thành nơi phán
đoán của ḿnh.
Ngay cả các khoa
học khác cùng
với việc phát
triển của chúng
cũng giúp cho
Giáo Hội phát
triển trong việc
hiểu biết này.
Có những qui
luật và định chế
của Giáo Hội
từng có công
hiệu một thời,
thế nhưng giờ
đây chúng không
c̣n giá trị hay
ư nghĩa nữa.
Quan điểm về
giáo huấn của
Giáo Hội như là
một thứ đá
nguyên khối được
sử dụng để bênh
vực một cách phi
sắc thái hay
không thể hiểu
cách khác được
là sai lầm.
"Tóm lại, ở mọi
thế hệ của lịch
sử, con người
đều nỗ lực hiểu
biết và thể hiện
bản thân ḿnh
một cách tốt đẹp
hơn. Bởi vậy
theo thời gian
nhân loại thay
đổi cách thức họ
nhận định về
ḿnh. Chỉ có
điều là có người
muốn thể hiện
ḿnh theo chiều
hướng 'Winged
Victory of
Samothrace', c̣n
người khác theo
Caravaggio,
Chagall và c̣n
với cả Dalí nữa.
Cho dù những
h́nh thức diễn
tả chân lư này
th́ muôn vàn, và
điều ấy thật sự
là cần thiết cho
việc truyền đạt
Phúc Âm theo ư
nghĩa vượt thời
gian của ḿnh.
"Con
người đang t́m
kiếm bản thân
ḿnh, và dĩ
nhiên là ở việc
t́m kiếm này họ
có thể vấp phạm
lỗi lầm.
Giáo Hội đă trải
qua những thời
điểm rạng ngời,
như thời của
Thánh Thomas
Aquinas. Thế
nhưng Giáo Hội
cũng đă sống
trong các thời
điển suy thoái
nơi khả năng suy
tư của ḿnh.
Chẳng hạn, chúng
ta không được
lẫn lộn cái
thiên tài của
Thánh Thomas
Aquinas với thời
đại của những
thứ chú giải suy
đồi về Thuyết
Thánh Thomas.
Tiếc thay,
tôi đă học triết
lư với các thứ
sách giáo khoa
xuất phát từ
t́nh trạng suy
đồi và phá sản
sâu xa về Thuyết
Thomas. Bởi thế,
trong việc suy
tư về con người,
Giáo Hội cần
phải cố gắng
vươn tới những
ǵ là tinh túy
chứ không phải
những ǵ là suy
bại.
"Khi
nào th́ một công
thức về tư tưởng
không c̣n hiệu
lực nữa? Khi mà
nó mất đi ư thức
về con người,
hay thậm chí khi
nó sợ con người
hoặc ảo tưởng về
ḿnh.
Ư nghĩ lạc loài
này có thể được
diễn tả như
Ulysses vớ được
bài ca the
Siren, hay như
Tannhäuser trong
một cuộc truy
hoan được bủa
vây bởi những kẻ
cuồng dâm và say
sưa chè chén,
hoặc như
Parsifal, trong
màn hai của nhạc
kịch Wagner, nơi
dinh của
Klingsor.
Việc suy nghĩ
của Giáo Hội cần
phải lấy lại
những ǵ là tinh
túy và hiểu biết
hơn cách thức
nhân loại nghĩ
về ḿnh hôm nay
đây, để phát
triển và đào sâu
giáo huấn của
Giáo Hội".
20- Việc cầu
nguyện
Tôi hỏi Đức Giáo
Hoàng về
cách thức cầu
nguyện ngài yêu
thích.
"Tôi
cầu kinh phụng
vụ mỗi buổi sáng.
Tôi thích cầu
nguyện với các
bài thánh vịnh.
Thế rồi sau đó
tôi cử hành
Thánh Thể.
Tôi cầu Kinh Mân
Côi.
Điều tôi thích
là chầu Chúa mỗi
buổi tối,
cho dù vào lúc
tôi bị chia trí
và nghĩ đến
những điều khác,
thậm chí buồn
ngủ khi nguyện
cầu.
Bởi thế, vào
buổi tối, từ 7
đến 8 giờ, tôi ở
trước Thánh Thể
chầu Chúa một
giờ. Thế nhưng
tôi cầu nguyện
thiêng liêng
ngay cả khi tôi
đang chờ nha sĩ
hoặc vào các lúc
khác trong ngày.
"Đối
với tôi cầu
nguyện bao giờ
cũng là một thứ
cầu nguyện đầy
tưởng nhớ, suy
tư, thậm chí
tưởng nhớ về đời
tư của ḿnh hay
về những ǵ Chúa
đă thực hiện
trong Giáo Hội
hoặc ở một giáo
xứ đặc biệt nào
đó.
Đối với tôi, vấn
đề tưởng nhớ là
là những ǵ
Thánh I Nhă đă
nói đến ở Tuần
Thứ Nhất về Linh
Thao trong cuộc
gặp gỡ Chúa Kitô
tử giá xót
thương.
Và tôi tự hỏi
ḿnh rằng:
'Tôi
đă làm ǵ cho
Chúa Kitô? Tôi
đang làm ǵ cho
Chúa Kitô? Tôi
cần phải làm ǵ
cho Chúa Kitô?
Tưởng Nhớ chính
là những ǵ được
Thánh I Nhă nói
đến trong cuốn 'Chiêm
Ngưỡng để Cảm
Nghiệm T́nh Yêu
Thần Linh', khi
ngài yêu cầu
chúng ta hăy nhớ
lại các tặng ân
chúng ta đă lănh
nhận.
Thế nhưng, trên
hết, tôi cũng
biết rằng Chúa
đến tôi nữa. Tôi
có thể quên Ngài,
nhưng tôi biết
rằng Ngài không
bao giờ, không
khi nào quên tôi.
Kư ức đóng một
vai tṛ trọng
yếu đối với tâm
can của một tu
sĩ Ḍng Tên:
tưởng nhớ về ân
sủng, việc tưởng
nhớ được đề cập
đến trong Sách
Đệ Nhị Luật,
việc tưởng nhớ
về những việc
làm của Thiên
Chúa là nền tảng
cho giao ước
giữa Thiên Chúa
và dân chúng.
Chính việc tưởng
nhớ này làm cho
tôi trở thành
Con của Ngài và
làm cho tôi trở
thành một người
cha nữa".
Đaminh Maria Cao
Tấn Tĩnh, BVL,
chuyển dịch theo
tạp chí America
của Ḍng Tên
http://www.americamagazine.org/pope-interview
(những chỗ in
mầu từ người
dịch).
INTERVIEW WITH
POPE FRANCIS IN
JESUIT MAGAZINES