Đúng thế, lịch sử
Giáo Hội đă hiển nhiên cho thấy, v́
không làm ǵ được cả Thiên Chúa lẫn Mẹ
Maria mà satan đă ra sức tấn công thành
phần thuộc gịng dơi của Mẹ, có thể hiểu
là Giáo Hội, v́ Mẹ là Mẹ của Giáo Hội,
và v́ c̣n ai ngoài Giáo Hội và bằng Giáo
Hội đă
"tuân giữ lịnh
truyền của Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa
Yêsu",
một Giáo Hội bởi thế đă trở thành đối
tượng chính yếu và mục tiêu trên hết tấn
công của satan và ma quỉ cùng bọn tay
sai của hắn, như Sách Khải Huyền đă tiên
báo (20:9): "Chúng
đă xâm chiếm toàn thể xứ sở và công hăm
thành đô yêu dấu là nơi dân Thiên Chúa
cắm trại".
"Toàn thể xứ sở" bị "chiếm cứ" và "thành
đô yêu dấu là nơi dân Thiên Chúa cắm
trại" bị "công hăm" là ǵ, nếu không
phải "toàn thể xứ sở" ám chỉ chung thế
giới loài người, và "thành đô yêu dấu là
nơi dân Thiên Chúa cắm trại" ám chỉ Giáo
Hội Chúa Kitô. Thật ra trong suốt gịng
lịch sử nhân loại, nhất là sau khi Chúa
Kitô hoàn tất công cuộc cứu chuộc loài
người, những ǵ được Sách Khải Huyền nói
đến về "toàn thể xứ sở" và "thành đô yêu
dấu" này đă xẩy ra rồi, thế nhưng, có lẽ chưa
bao giờ xẩy ra một cách kinh hoàng khủng
khiếp như ở vào thời điểm văn hóa chết
chóc này đây, bằng âm mưu lịch sử của
satan qua tam điểm trong việc toàn cầu
hóa duy nhân bản cho một satan giáo.
Thế nhưng, cho dù
sự dữ có càng ngày càng thừa thắng xông
lên như muốn nhận ch́m toàn thể loài
người xuống hỏa ngục đi nữa, như muốn ăn
tươi nuốt sống Giáo Hội chăng nữa, cuối
cùng, như Sách Khải Huyền, (ở cùng một
câu và tiếp liền câu sau đó), đă tiết lộ
cho biết về thân phận vĩnh viễn của
satan và bọn quỉ dữ cùng tay sai của hắn
như sau: "Thế nhưng lửa từ trời xuống
nuốt lấy chúng.
Ma quỉ ... bị
quẳng vào hồ lưu huỳnh hừng hực nóng là
nơi con mănh thú cùng với tên tiên tri
giả cũng bị ném vào.
Ở đó chúng bị quằn quại ngày đêm muôn
đời muôn kiếp" (Khải Huyền 20:9-10).
Xin mời xem bài
Giáo Hội Mầu Nhiệm: Ánh Sáng Chư Dân -
Một Cớ Vấp Phạm
Một chút cảm nhận về Giáo Hội trong Năm
Đức Tin 2012-2013
Biệt
tặng những tâm hồn hằng tha thiết với sứ
mạng và vận mệnh của Giáo Hội
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Giáo Hội: Ánh Sáng Chư Dân
Công Đồng Chung Vaticanô II, công đồng
chung thứ 21 của Giáo Hội Công Giáo, ban
hành tất cả là 16 văn kiện: 4 hiến chế,
9 sắc lệnh và 3 tuyên ngôn. Theo cấp
trật thứ tự ưu tiên và tầm quan trọng
hơn về huấn quyền th́ 4 hiến chế được
xếp vào loại đệ nhất văn kiện, v́ loại
văn kiện này liên quan đến những chân lư
đức tin của Kitô hữu cần phải xác tín và
ư thức để nhờ đó có thể áp dụng vào đời
sống đạo của ḿnh. Các hiến chế của công
đồng chung trong thế kỷ 20 này là những
văn kiện liên quan đến 3 lănh vực chính
yếu của Giáo Hội, đó là Phụng Vụ, Mạc
Khải và Giáo Hội.
Riêng
về Giáo Hội bao gồm 2 hiến chế, một về
tín lư và một về mục vụ. Hiến Chế tín lư
về Giáo Hội đó là Hiến Chế mang tựa đề
Ánh Sáng Chư Dân - Lumen Gentium,
và Hiến Chế mục vụ về Giáo Hội đó là
Hiến Chế mang tựa đề
Vui
Mừng và Hy Vọng - Gaudium et Spes.
Theo chiều hướng chính của Công Đồng
Chung Vaticanô II, (căn cứ nguyên vào sự
kiện trong 4 hiến chế quan trọng nhất về
huấn quyền trong công đồng chung này có
đến 2 hiến chế liên quan đến Giáo
Hội), có thể nói công đồng chung thứ 21
này là công đồng chung về Giáo Hội. Và
v́ thế hai hiến chế về Giáo Hội này là
hai hiến chế quan trọng nhất, chính yếu
nhất của Công Đồng Chung Vaticanô II.
Trong hai hiến chế về Giáo Hội này, một
hướng nội là Hiến Chế Ánh Sáng Chư Dân
và một hướng ngoại là Hiến Chế Vui Mừng
và Hy Vọng, th́ Hiến Chế Ánh Sáng Muôn
Dân là hiến chế nền tảng cho chung toàn
bộ các văn kiện khác cũng như cho riêng
Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng. Bởi v́,
nếu không là Ánh Sáng Chư Dân th́ Giáo
Hội không thể nào trở thành Vui Mừng và
Hy Vọng cho một thế giới tân tiến tràn
đầy ánh sáng văn minh vật chất nhưng lại
đang bị bao phủ bởi một thứ bóng tối
chết chóc chập chùng đến ghê sợ, và nếu
không là Ánh Sáng Chư Dân Giáo Hội cũng
không thể nào mang Vui Mừng và Hy Vọng
đến cho một thế giới càng tân tiến
càng bạo loạn về nhân bản và luân lư,
với đầy những nguy hiểm tự diệt vong.
Giáo Hội: Một Cớ
Vấp Phạm
Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là
nếu quả thực Giáo Hội là Ánh Sáng Chư
Dân, như chính Giáo Hội cảm nhận và tự
nhận qua Công Đồng Chung Vaticanô II,
th́ tại sao Giáo Hội lại bị thế gian,
nhất là thành phần truyền thông, tấn
công tới tấp và dữ dội như vậy? Phải
chăng những tấn công của họ là vô lư và
hoàn toàn bất công, chẳng hạn, liên
quan đến tệ trạng linh mục lạm dụng t́nh
dục trẻ em mới bùng phát (bị tấn công)
từ đầu năm 2002 ở Tổng Giáo Phận Boston
Tiểu Bang Massachusett Hoa Kỳ, cho dù
chỉ là một thiểu số linh mục như "con
sâu làm rầu nồi canh"!?
Đúng thế, theo đức tin, chúng ta không
thể phủ nhận bản chất thánh hảo của Giáo
Hội. Tuy nhiên, thực tế sống đạo cho
thấy, như bản thân mỗi Kitô hữu đă được
thánh hóa nhờ Phép Rửa nhưng vẫn sống
với bản tính nhiễm mắc nguyên tội với
đầy những mầm mống tội lỗi là đam mê
nhục dục cùng tính mê nết xấu thế
nào th́ Giáo Hội là thánh cũng ôm ấp
trong ḷng ḿnh đủ các thứ phần tử tội
lỗi bất hảo như vậy, kể cả trong thành
phần giáo sĩ lẫn giáo phẩm, thậm chí bao
gồm luôn những vị chức sắc có thẩm quyền
ở Ṭa Thánh Rôma. Đó là lư do, như Kitô
hữu là thánh cần phải sống thánh để nên
thánh thế nào, Giáo Hội là thánh cũng
cần phải được thanh tẩy, canh tân, kể cả
hiệp nhất Kitô giáo, để thực sự trở
thành Ánh Sáng Chư Dân như vậy.
Có một hiện tượng ngược đời liên lỉ xẩy
ra nơi Giáo Hội, đó là, cho dù dung nhan
của Giáo Hội có bị bóp méo bởi truyền
thông, vô lư hay hữu lư, hay có bị bôi
bẩn bởi chính các phần tử của ḿnh, và
cho dù, như Chúa Kitô trong suốt cuộc
đời công khai của ḿnh, kể cả khi Người
vừa mới hạ sinh (xem Mathêu 2:13) và khi
Người vừa mới bắt đầu tỏ ḿnh ra ở chính
quê quán của ḿnh (xem Luca 4:28-30),
Giáo Hội có trở thành "cớ vấp phạm cho
nhiều người" (Luca 2: 34), cả đối nội
lẫn đối ngoại, nhất là về tính chất vẫn
cứ "quân chủ" của ḿnh giữa một thế giới
dân chủ, th́ ở một ư nghĩa nào đó, Giáo
Hội vẫn luôn là và không bao giờ thôi là
Ánh Sáng Chư Dân. Bởi Chúa Kitô "là ánh
sáng thế gian" (Gioan 8:12) luôn ở cùng
Giáo Hội, "cho đến tận thế" (Mathêu
28:20).
Đó là lư do Công Đồng Chung Vaticanô II
ngay ở lời mở đầu cho Hiến Chế Ánh Sáng
Chư Dân đă minh định: “Ánh
sáng muôn dân chính là Chúa Kitô ...
phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội”.
Và chính v́ thế mà Giáo Hội cần phải
trung thực phản ảnh Chúa Kitô bằng việc
truyền giáo, nhất là bằng chứng từ yêu
thương phục vụ của ḿnh như Chúa Kitô,
nhất là đối với thành phần chống đối và
bách hại ḿnh, v́ ḿnh trở nên "một cớ
vấp phạm" cho họ, như thân phận khổ nạn
và tử giá của chính Đấng đă sáng lập nên
ḿnh.
Giáo Hội: Chứng Nhân T́nh Thương
Giáo Hội càng bị
các phần tử của ḿnh làm mờ ám dung nhan
thánh hảo của ḿnh th́ càng rạng ngời
Ánh Sáng Chư Dân
là Chúa Kitô
nơi ḿnh,
khi Giáo Hội vẫn tiếp tục sứ vụ ban đầu
của ḿnh đó là loan truyền "ḷng thống
hối để được ơn tha thứ tội lỗi cho tất
cả mọi dân nước, bắt đầu từ Giêrusalem"
(Luca 24:47), tức bắt đầu từ bản thân
Giáo Hội, từ ḷng Giáo Hội, đối với
thành phần con cái tội lỗi của ḿnh. Tuy
nhiên, chủ trương của một số Đấng Bản
Quyền địa phương trong việc che giấu tội
lỗi của các vị linh mục lạm dụng t́nh
dục vị thành niên, đổi các vị đi chỗ
khác, gây thêm tai hại cho Giáo Hội địa
phương của ḿnh, không phải là thái độ
"yêu thương trong chân lư - caritas in
veritate" và hành động bênh vực "chân lư
trong yêu thương" (Epheso 4:15).
Đối ngoại, khi bị chống đối và tấn công,
nhất là trường hợp hoàn toàn bị oan ức
gây ra bởi ḷng hận thù của thế gian,
Giáo Hội vẫn sống Ḷng Thương Xót Chúa
và càng phải loan truyền Ḷng Thương Xót
Chúa hơn bao giờ hết. Ở chỗ, Giáo Hội
chỉ bênh vực chân lư trong yêu thương,
với thái độ nhân lành hoàn toàn phản ảnh
dung nhan của một Đức Kitô trên khổ giá
“xin Cha tha cho họ v́ họ lầm không biết
việc họ làm” (Luca: 23:34): “Họ chẳng
những sẽ loại trừ các con ra khỏi hội
đường; mà có lúc kẻ sát hại các con cứ
tưởng rằng làm thế là họ phụng sự Thiên
Chúa! (Khi nói đến câu này chắc Chúa
Kitô đă biết đến và bao gồm cả thành
phần hiện nay đang chủ trương nhân danh
Thiên Chúa mà khủng bố). Tất cả những ǵ
họ làm cho các con chỉ v́ họ không biết
cả Cha lẫn Thày” (Gioan 15:2-3).
Bởi vậy,
chính nhờ việc trung thành với sứ vụ
loan truyền Ḷng Thương Xót Chúa một
cách trung thực theo đúng tinh thần Phúc
Âm và ư muốn của Chúa Kitô, cho cả nội
bộ con cái tội lỗi của ḿnh lẫn thành
phần tấn công Giáo Hội, mà cho dù Giáo
Hội có bị tấn công đến đâu chăng nữa,
Giáo Hội sẽ không thể nào và vẫn không
bao giờ có thể bị tiêu diệt bởi quyền
lực hỏa ngục (x. Mathêu 16:18), trái
lại, chính sự tồn tại của Giáo Hội trong
t́nh trạng tội lỗi của con cái, cũng như
trong thái độ có vẻ hèn yếu không bao
giờ bạo động và biết trả thù đối với
những ai tấn công ḿnh, lại càng chứng
tỏ quyền lực phục sinh của Đấng đă chiến
thắng tội lỗi và sự chết ở nơi Giáo Hội.
Đến độ, nếu Chúa Kitô phi khổ nạn và
thập giá (xem Mathêu 16: 21-23) không
c̣n là và không phải là một Chúa Kitô
đích thực, "Con Thiên Chúa hằng sống"
(Mathêu 16:16), mà chỉ là một "kitô giả"
thế nào, th́ một Giáo Hội không bị thế
gian chống đối và ghen ghét, có thể nói,
sẽ không c̣n là Giáo Hội nữa, bởi Giáo
Hội như thể đă trở nên đồng hóa với thế
gian, theo thế gian, như thế gian, chứ
không phải đă được Chúa Kitô chọn từ thế
gian và không thuộc về thế gian cho dù ở
trong thế gian (xem Gioan 15:19,
17:11,15), bởi đó đă trở nên “cớ vấp
phạm” cho thế gian.
Như thế, càng bị thế gian chống đối,
ghen ghét và bách hại Giáo Hội càng
chứng tỏ Giáo Hội chính là và thực sự
là của Chúa Kitô và cho Chúa Kitô, giống
Chúa Kitô và phản ảnh Chúa Kitô, Đấng là
"ánh sáng thật chiếu soi cho hết mọi
người đă đến trong thế gian” (Gioan
1:9), đó là “ánh sáng chiếu trong tăm
tối, một thứ tối tăm không thể át được
ánh sáng" (Gioan 1:5). Thực tế cho thấy,
bị bách hại và sát hại liên lỉ dọc suốt
gịng lịch sử 2000 năm của ḿnh ở khắp
nơi, thế mà Giáo Hội chẳng những không
bị hủy diệt, trái lại, càng được đà
phát triển và vươn dài nới rộng cho tới
“tận cùng trái đất” (Tông Vụ 1:8).
Giáo Hội: Thực Tại
Mầu Nhiệm
Trước hết, Giáo Hội là một thực tại mầu
nhiệm ở những ǵ làm nên Giáo Hội, bao
gồm cả yếu tố hữu h́nh lẫn vô h́nh, trần
thế và thần linh, đến độ, như Công Đồng
Chung Vaticanô II trong Hiến Chế Tín Lư
về Giáo Hội Ánh Sáng Muôn Dân, khoản
8, đă cảm nhận:
“Nhờ loại suy xác đáng chúng ta có thể
ví Giáo Hội với mầu nhiệm Ngôi Lời nhập
thể.
Thực vậy, nhân tính mà Ngôi Lời mặc lấy
phục vụ Người như cơ quan cứu rỗi sống
động và kết hợp với Người cách bất khả
phân ly; cũng thế, toàn thể cơ cấu xă
hội của Giáo Hội phục vụ Thánh Thần Chúa
Kitô, Đấng làm cho Giáo Hội sống động để
tăng triển thân thể
(x. Eph 4,16)” (theo bản dịch của Phân
Khoa Thần Học Giáo Hoàng Học Viện Thánh
Piô X Đà Lạt).
Giáo Hội là Dân Thiên Chúa
Về phương diện cơ cấu xă hội của ḿnh,
Giáo Hội được gọi là Dân Thiên Chúa,
như Dân Do Thái trong Cựu Ước. Bởi thế,
bề ngoài, Giáo Hội là một tổ chức, có
hàng phẩm trật đóng vai tṛ cai trị,
giáo huấn và thánh hóa. Tuy nhiên, không
phải v́ thế mà Giáo Hội không c̣n tính
chất đoàn sủng trong chung Cộng Đồng Dân
Chúa. Điển h́nh nhất là các đoàn sủng về
đời sống tu tŕ nơi các hội ḍng nam nữ
trong Giáo Hội, hay các đoàn sủng về
phụng vụ.
Chẳng hạn có một số Thánh Lễ hiện nay
của Giáo Hội xuất phát từ các mạc khải
tư: Lễ Ḿnh Thánh Máu Thánh Chúa (được
Giáo Hội cử hành vào Thứ Năm sau Chúa
Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi ở bậc Lễ Trọng),
một lễ xuất phát từ thị kiến của Chị
Thánh Juliana of Liège ở Nước Bỉ vào
tiền bán thế kỷ 13), Lễ Thánh Tâm Chúa
(được Giáo Hội cử hành ở bậc Lễ Trọng
vào Thứ Sáu sau Tuần Bát Nhật Lễ Ḿnh
Máu Thánh Chúa), như Chúa Giêsu mong
muốn qua Chị Thánh Marguerite à la Coque
ở Pháp quốc vào hậu bán thế kỷ 17, và Lễ
Ḷng Thương Xót Chúa (được Giáo Hội cử
hành vào Chúa Nhật II Phục Sinh), như
Chúa Giêsu mong muốn qua Chị Thánh
Faustina ở Balan vào tiền bán thế kỷ 20.
Tuy nhiên, đoàn sủng nào th́ đoàn sủng,
dù quan trọng mấy chăng nữa, khẩn thiết
đến thế nào cũng vậy, vẫn cần phải được
thẩm quyền Giáo Hội công nhận. Đó là lư
do, cho dù các phụ nữ nói chung và Chị
Mai Đệ Liên nói riêng có được Chúa Kitô
phục sinh hiện ra trước các tông đồ đi
nữa, th́ thành phần phụ nữ này cũng được
chính Người truyền lệnh phải đi tŕnh
báo những ǵ họ thấy với các vị tông đồ
(xem Mathêu 28:10; Gioan 20:17).
Huấn quyền tối thượng này của Giáo
Hội, theo gịng lịch sử, nhất là vào
thời điểm con người văn minh tân tiến ở
vào thời điểm đề cao lư trí (từ Thời
Minh Tri - Age of Enlightement thế kỷ 17
và 18), đến thời điểm đề cao tự do và
duy nhân bản (nhất là từ hậu bán Thế kỷ
20), càng trở thành một cớ vấp phạm thậm
chí ngay từ trong ḷng Giáo Hội. Ở chỗ,
thành phần cấp tiến đă có những chủ
trương duyệt xét lại toàn bộ đức tin của
Giáo Hội (thế giá của Thánh Kinh, hiện
diện của Thánh Thể v.v.), luân lư của
Giáo Hội (phá thai, ngừa thai nhân tạo
v.v.), và kỷ luật của Giáo Hội (nhất là
luật độc thân linh mục hay không cho phụ
nữ làm linh mục v.v.).
Thế nhưng, giữa một thế giới dân chủ hóa
và b́nh đẳng hóa ngày nay, Giáo Hội, có
thể nói theo chế độ "quân chủ" chuyên
chế, nhất là về lănh vực thiêng liêng
liên quan đến phần rỗi của con người: “Quả
thật, Thày nói cho các con biết: tất cả
những ǵ các con cấm buộc dưới đất, th́
những sự ấy cũng sẽ bị cầm buộc trên
trời, và tất cả những ǵ các con tháo
cởi dưới đất, th́ cũng sẽ được tháo cởi
trên trời”.
Chế độ quân chủ chuyên chế tuyệt đối này
được
thể hiện rơ ràng
nhất nơi tín điều Giáo Hoàng vô ngộ của
Công Đồng Chung Vaticanô I (1869-1870).
Thế
mà, một Giáo Hội “quân chủ“ chuyên chế
như thế
vẫn chẳng những hiên ngang tồn tại, mà
c̣n trở thành trung tâm điểm về tinh
thần của thế giới, nơi được các vị lănh
đạo quốc gia và quốc tế đến hội kiến.
Giáo Hội là Nhiệm Thể Chúa Kitô
Về phương diện thần linh vô h́nh của
ḿnh, Giáo Hội được gọi là Nhiệm Thể của
Chúa Kitô, có chính "Chúa Kitô là Đầu"
(Epheso 5:23; 4:13).
H́nh ảnh nhiệm thể nói lên ư nghĩa sự
sống thần linh và hiệp thông thần linh
giữa Chúa Kitô là Đầu và các phần thể
của Người là thành phần Kitô hữu môn đệ
của Người: những phần thể được tháp nhập với
Người là Đầu bằng Bí Tích Thanh Tẩy tái
sinh, được hiệp thông với Người trong sự
sống thần linh nơi Bí Tích Thánh Thể, và
được tăng trưởng sự sống thần linh này
cho đến khi đạt được tầm vóc viên trọn
của Người (xem Epheso 4:13,15) bởi Thánh
Linh nhờ Bí Tích Thêm Sức.
H́nh
ảnh Giáo Hội là Nhiệm Thể
của
Chúa Kitô, đúng hơn Giáo Hội là Nhiệm
Thể
với
Chúa Kitô, như thế, liên quan đến Phụng
Vụ của Giáo Hội, đến các Bí Tích Thánh
là phương tiện hiệp thông thần linh giữa
Chúa Kitô là Đầu với các chi thể của
Người, ở đó, Người thông sự sống thần
linh của Người ra cho họ như nhựa của
cây nho được chuyển đến từng cành nho,
nhờ đó, cành nho mới có thể sinh hoa kết
trái (xem Gioan 15:5). Đó là lư do Công
Đồng Chung Vaticanô II, trong Hiến Chế
về Phụng Vụ, khoản 10, đă xác tín rằng:
"Phụng Vụ là tột đỉnh qui hướng mọi hoạt
động của Giáo Hội, đồng thời là nguồn
mạch tuôn trào mọi năng lực của Giáo Hội".
H́nh ảnh Giáo Hội là Nhiệm Thể của / với
Chúa Kitô này thực ra đă được mạc khải ở
ngay đầu Sách Khởi Nguyên sau sự kiện
con người đầu tiên nhận ra người nữ xuất
phát từ thân thể của ḿnh trong giấc ngủ
say: "Đó là lư do tại sao người nam ĺa
bỏ cha mẹ ḿnh mà gắn bó với vợ ḿnh, và
cả hai trở nên một thân thể" (1:24).
Người nam đây không ám chỉ Adong bấy giờ,
v́ Adong bấy giờ đâu được sinh ra bởi cha
mẹ để mà ĺa bỏ các vị, nên người nam ấy có
thể nói được ám chỉ về Chúa Kitô, Đấng
đă từ Cha mà đến để kết hôn với nhân
loại nơi Mầu Nhiệm Nhập Thể, và đă trở
nên một thân thể / một nhiệm thể với
Giáo Hội nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua, một thứ
nên một thân thể không thể nào xẩy ra
nơi tác động vợ chồng trong đời sống hôn
nhân tự nhiên.
Sự kiện tách khỏi Giáo Hội Công Giáo
Rôma, từ thế kỷ 11 ở Đông Phương của Giáo
Hội Chính Thống vào năm 1052,
đến thế kỷ 16 ở Tây Phương của Phong
Trào Thệ Phản Cải Cách Tin Lành vào năm
1517, cũng như của Cộng Đồng Hiệp Thông
Anh Giáo vào năm 1535, quả thực là những
nhức nhối nội bộ khôn nguôi, chẳng khác
nào nhiệm thể của Chúa Kitô như một
chiếc áo bị xé lẻ ra vậy, không c̣n là
một mảnh vải nguyên vẹn từ trên xuống
dưới như ở chiếc áo Chúa Kitô đă mặc (xem
Gioan 19:23).
Ngay câu mở đầu Sắc Lệnh Hiệp Nhất Kitô
Giáo, Công Đồng Chung Vaticanô II đă
thẳng thắn nhận định như sau: “Quả thực,
Chúa Kitô đă thiết lập một Giáo Hội và
chỉ một Giáo Hội duy nhất, nhưng nhiều
cộng đồng Kitô giáo tự xưng với mọi
người ḿnh là di sản đích thực của Chúa
Kitô; thật vậy, tất cả đều xưng ḿnh là
môn đệ của Chúa nhưng lại cảm nghĩ và đi
theo những đường lối khác nhau như thể
chính Chúa Kitô bị phân rẽ vậy. Quả thực,
sự phân rẽ này hiển nhiên vừa trái ngược
với ư muốn của Chúa Kitô vừa là gương
xấu cho thế giới và phương hại cho công
cuộc rất thánh thiện là rao giảng Phúc
Âm cho mọi tạo vật”.
(theo bản dịch của Phân Khoa Thần Học
Giáo Hoàng Học Viện
Thánh Piô X Đà Lạt).
Tuy nhiên, từ Công Đồng Chung Vaticanô
II, khát vọng và nỗ lực đại kết Kitô
giáo đă được đặc biệt
phát động và hưởng ứng của chung thế
giới Kitô giáo, nhờ đó không tiếp tục
gây tai hại cho việc truyền giáo của
Giáo Hội cũng như cho chứng từ đích thực
về Chúa Kitô của Giáo Hội nơi các thành
phần xưng ḿnh là môn đệ của Chúa Kitô (xem
Gioan 13:35). Công Đồng
đă hy vọng xác tín rằng:
“Trên đường lữ thứ trần gian, mặc dù các
chi thể c̣n có thể phạm tội, dân Chúa
vẫn lớn lên trong Chúa Kitô và được
Thiên Chúa dịu dàng hướng dẫn theo
chương tŕnh nhiệm mầu của Người cho đến
khi họ sung sướng đạt tới vinh quang
trường cửu và sung măn trong thành
Giêrusalem trên trời”.
(theo bản dịch của Phân Khoa Thần Học
Giáo Hoàng Học Viện
Thánh Piô X Đà Lạt).
Giáo Hội là Bí Tích hiệp nhất loài người
Về phương diện vừa hữu h́nh lẫn vô h́nh,
vừa trần thế lẫn thần linh, Giáo Hội là
một Bí Tích hiệp nhất loài người, đúng
như Công Đồng Chung Vaticanô II đă minh định trong
Hiến Chế tín lư về Giáo Hội ở ngay khoản
1: "Giáo Hội ở trong Chúa Kitô như bí
tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kết
hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự
hiệp nhất toàn thể nhân loại".
Giáo Hội không phải chỉ "duy nhất, thánh
thiện và tông truyền" mà c̣n "công giáo"
nữa. Nghĩa là Giáo Hội phải là Giáo Hội
cho toàn thể nhân loại và hướng về nhân
loại nữa. Bằng không, Giáo Hội đánh mất
bản chất "là muối đất" của ḿnh (Mathêu
5:13), "là ánh sáng thế gian" của ḿnh
(Mathêu 5:14), v́ muối mà
không mặn để ướp th́ mất bản chất của
nó, và ánh sáng mà không chiếu soi không
c̣n là và không phải là ánh sáng.
Đó là lư do Công Đồng Chung Vaticanô II
đă cảm nhận sâu xa và dứt khoát về sứ vụ
truyền giáo của Giáo Hội đối với thế
giới loài người rằng: "Tự bản tính,
Giáo Hội lữ hành là
truyền giáo"
(Sắc Lệnh Truyền Giáo, khoản 2); "Dựa
trên Thánh Kinh và Thánh Truyền, Thánh
Công Đồng dạy rằng: Giáo Hội lữ hành này
cần thiết cho phần rỗi"
(Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, khoản 14);
"Trước mặt nhân loại, mỗi giáo dân phải
là chứng nhân của sự phục sinh và sự
sống của Chúa Giêsu, đồng thời là dấu
hiệu của Thiên Chúa hằng sống. Tất cả và
mỗi người góp phần nuôi dưỡng thế giới
bằng những hoa trái thiêng liêng (x. Gal
5,22) và truyền bá cho thế gian tinh
thần của những người nghèo khó, hiền
lành và hiếu ḥa, những người mà Phúc Âm
Chúa đă tuyên bố là có phúc (x. Mt
5,3-9). Tóm lại, 'người Kitô hữu hăy làm
cho thế giới sống như linh hồn làm cho
thân xác sống'" (Hiến Chế Ánh Sáng Muôn
Dân, khoản 38 -theo bản dịch của Phân
Khoa Thần Học Giáo Hoàng Học Viện
Thánh Piô X Đà Lạt).
Giáo Hội là Bí Tích hiệp nhất loài người
được tỏ hiện nhất vào chính lúc Giáo Hội
ra mắt trần gian, vào chính lúc Giáo Hội
là nhiệm thể của Chúa Kitô trở nên sinh
động nhờ Thánh Thần là linh hồn của Giáo
Hội được Chúa Kitô từ Cha sai đến với
Giáo Hội (xem Gioan 15:26). Bởi v́, nhờ
Thánh Thần Hiện Xuống, các tông đồ ai
cũng nói tiếng lạ, một thứ tiếng không
phải chính các ngài không hiểu ḿnh nói
ǵ và người nghe cũng chẳng hiểu các
ngài nói chi, mà là một thứ ngôn từ hết
sức mạch lạc hoàn toàn mang tính cách
quốc tế, một tính chất thật là "công
giáo", ai nghe cũng hiểu theo tiếng thổ
âm của ḿnh (xem Tông Vụ 2:5-12).
Hiện tượng nói tiếng lạ này của các vị
tông đồ trong biến cố Thánh Thần Hiện
Xuống, là hiện tượng hoàn toàn phản lại
với sự kiện Tháp Babel là biểu tượng cho
ḷng kiêu căng của con người đến độ họ
không thể hiểu được nhau nữa, không c̣n
thông cảm với nhau được nữa, và đă đi
đến chỗ sống xa nhau không thể sống gần
nhau và với nhau được nữa (xem Khởi
Nguyên 11:1-9). Nếu Thánh Thần được sai
đến để canh tân bộ mặt trái đất là văn
hóa của con người th́ quả thực Giáo Hội
chính là Bí Tích hiệp nhất loài người
vậy, qua chứng từ bác ái yêu thương của
Giáo Hội, nhất là nơi việc Giáo Hội dấn
thân phục vụ những người anh chị em hèn
mọn nhất của Chúa Kitô (xem Mathêu
25:35-36) ở khắp nơi trên thế giới.
Giáo Hội là Mầm Mống Nước Trời
Về
phương diện lịch sử và hội nhập, Giáo
Hội là Mầm Mống Nước Trời,
đúng
như Công Đồng Chung Vaticanô II đă minh định trong
Hiến Chế tín lư về Giáo Hội ở khoản 5: "Giáo
Hội là mầm mống và khai nguyên
Nước Thiên Chúa trên trần gian".
Mà Nước Thiên Chúa hay Nước Trời đây là
ǵ, nếu không phải, căn cứ vào các dụ
ngôn được chính Chúa Giêsu sử dụng để
sánh ví, chính là bản thân Chúa Kitô.
Chính Công Đồng Chung Vaticanô II, trong
cùng đoạn được trích dẫn trên đây, đă
nhận định như sau: "Nhưng trước tiên,
Nước ấy
biểu lộ trong chính con người Chúa Kitô,
Con Thiên Chúa và Con loài người, Đấng
đă đến 'để hầu hạ và
hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc thiên
hạ'
(Mc 10,45)". Đó là lư do, trong Thông
Điệp Sứ Vụ của Đấng Cứu Chuộc -
Redemptoris Missio, ban hành ngày
7/12/1990, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II, ở trong đoạn 18, đă định nghĩa và
đồng hóa Nước Thiên Chúa với Chúa Kitô
như sau: "Vương Quốc của Thiên Chúa
không phải là một quan niệm, một tín lư
hay là một hoạch định muốn cắt nghĩa sao
cũng được, mà trước hết là một con
người, dưới dung nhan và danh xưng Giêsu
Nazarét, h́nh ảnh của Thiên Chúa vô
h́nh".
Như thế, nếu Thánh Thần được sai đến để
canh tân bộ mặt trái đất qua Giáo Hội là
Bí Tích hiệp nhất loài người th́ khi rao
giảng về Nước Trời cho mọi dân nước trên
thế giới là Giáo Hội đang làm cho Chúa
Kitô lớn lên nơi loài người, làm cho
Người được nhận biết và yêu mến, "cho
đến khi số Dân Ngoại viên trọn" (Roma
11:25). Bởi vậy, có thể ví Giáo Hội như
một hạt cải được người kia là Chúa Kitô
gieo vào thửa ruộng của ḿnh là thế giới
loài người, một hạt cải được diễn tả là
bé nhỏ nhất trong các loại hạt giống
(xem Mathêu 13:31-32).
Ở chỗ, về tôn giáo, biểu hiệu cho khát
vọng thần linh nơi con người và là hạt
giống thần linh nơi con người, Kitô giáo
của Giáo Hội là một tôn giáo bé mọn nhất
trong các tôn giáo, bởi được sinh sau đẻ
muộn, so với Ấn Giáo và Phật Giáo ở Ấn
Độ, Khổng và Lăo ở Trung Hoa, hay thậm
chí Do Thái Giáo ở Trung Đông, nơi cũng
xuất phát ra Hồi Giáo từ thế kỷ thứ 7
sau Kitô giáo, nhưng lại là một tôn giáo
mang tính chất lai căng và pha trộn giữa
Do Thái Giáo và Kitô Giáo, liên quan đến
2 yếu tố chính là mạc khải và tiên tri
là những ǵ vốn thuộc về Do Thái Giáo và
Kitô Giáo.
Giáo Hội được so sánh như hạt cải nhỏ
nhất trong các hạt giống c̣n ở chỗ
vị sáng lập Giáo Hội là một nhân vật hèn
mọn nhất trong các vị sáng lập tôn giáo,
v́ Người “là Thày và là Chúa” (Gioan
13:13) nhưng Người đă tự nguyện
trở
thành tôi tớ rửa chân cho các môn đệ của
ḿnh (xem Gioan 13:3-12), thậm chí Người
đă hy sinh cho đến chết trên thập tự giá
như một tên đại tử tội vô cùng nhục nhă
để cứu chuộc chung loài người và những
ai thuộc về Người.
Giáo Hội của một Kitô giáo bé mọn v́ được
sinh sau đẻ muộn và của Đấng Sáng Lập
dấn thân sống đời hèn mọn như thế cũng
đă tiếp tục tính chất li ti bé mọn của
ḿnh, như là một chút men được vùi khuất
đi trong bột thế gian và được trộn lẫn
vào bột thế gian, để nhờ đó có thể làm
cho cả thế gian (biểu hiệu nơi 3 đấu bột
là văn hóa, chính trị và kinh tế) được
dậy men Phúc Âm, men Chúa Kitô,
theo chiều hướng của Hiến Chế về mục vụ
Giáo Hội “Vui Mừng và Hy Vọng”.
Chưa hết, Giáo Hội có thể sánh với một
hạt cải bé nhỏ nhất trong các hạt giống
c̣n ở chỗ,
về chính trị, Quốc Đô Vatican của Giáo
Hội Công Giáo Rôma là một nước nhỏ nhất
thế giới, cả về diện tích lẫn dân số.
Thế mà đă trở thành một cây vĩ đại, đến
độ chim trời đến làm tổ (xem Mathêu
13:32), đúng như thực tế cho thấy, Giáo
Hội nơi Quốc Đô Vatican quả thực đă và đang trở
thành trung tâm điểm của thế giới, như
lương tâm trong con người, để hướng dẫn
thế giới, (qua các vị lănh tụ t́m đến
hội kiến với vị thủ lănh tối cao của
Giáo Hội là Đức Thánh Cha), sống trọn ơn
gọi làm người của ḿnh theo đúng dự án
thần linh của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, không phải v́ thế giá và
quyền lực thiêng liêng có vẻ đầy
oai hùng của ḿnh như vậy trên thế giới,
so với
các tôn giáo khác đương thời,
ở vào lúc này đây, mà Giáo Hội thoát
được thân phận của một đầy tớ không thể
hơn chủ và môn đệ không thể hơn Thày (xem
Gioan 13:16, 15:20). Nếu Chúa Kitô trước
khi phục sinh vinh hiển đă phải trải qua
một cuộc khổ nạn và tử giá tan nát thân
ḿnh và được an táng trong hầm mộ 3 ngày
thế nào, th́ Giáo Hội là nhiệm thể của
Chúa Kitô, về cơ cấu và tổ chức hữu h́nh
bề ngoài, chắc chắn cũng sẽ không thoát
khỏi trải qua một cuộc khổ nạn và tử giá
cuối cùng, sau biết bao nhiêu là cuộc
bắt hại và sát hại liên tục xẩy ra cho
Giáo Hội ở khắp nơi qua các thời đại
hiện hữu của ḿnh.
Giáo Hội là Thành Thánh Gia-Liêm cánh
chung
Trường hợp xẩy ra cho Giáo Hội vào thời
điểm ngày cùng tháng tận có thể là t́nh
trạng một Quốc Đô Vatican bị tấn công,
Đức Thánh Cha bị ám sát và Giáo Hội hoàn
toàn vĩnh viễn bị trống ngôi giáo hoàng.
Chỉ sau biến cố cánh chung quyết liệt vô
cùng thảm khốc này, gây ra bởi lực lượng
thần dữ cùng với chư dân “đông như cát
biển” (Khải Huyền 20:8) thực hiện một
cuộc tử chiến cuối cùng bằng cách “công
hăm thành đô yêu
dấu là nơi dân Thiên Chúa cấm trại”
(Khải Huyền 20:9), Giáo Hội mới như Chúa
Kitô được phục sinh huy hoàng, đúng như
thị kiến của Thánh kư Gioan trong Khải
Huyền (21:9-14,22-27) như sau:
"Bấy giờ một trong bảy Thiên thần cầm
bảy kim bôi đầy mặp bảy tai ương cuối
cùng tiến lại mà nói với tôi, rằng: 'Lại
đây! Ta sẽ trỏ cho ngươi, tân nương,
hiền thê của Chiên Con'. Và ngài đem tôi
đi, trong khi tôi ngất trí, đến một núi
hùng vĩ cao chót vót và đă trỏ cho tôi
Thành thánh Yêrusalem tự trời xuống, từ
nơi Thiên Chúa, chói lọi vinh quang
Thiên Chúa, ánh quang của thành tỏa ra
tựa hồ minh châu cực quí, như ngọc thạch
bóng lộn ánh lưu li. Thành có tường cự
đại, cao ngất, trổ mười hai cổng; trên
các cổng có mười hai Thiên thần; và có
khắc tên, tức là tên mười hai chi tộc
con cái Israel. Hướng Đông, ba cổng;
hướng Bắc, ba cổng; hướng Nam, ba cổng;
hướng Tây, ba cổng. Tường thành đặt trên
mười hai móng, trên các móng, là mười
hai tên của mười hai Tông đồ của Chiên
Con....
“Trong thành, tôi không thấy Điện thờ,
v́ Chúa, Thiên Chúa toàn năng là Điện
thờ của thành, và Chiên Con. Và thành
không cần phải có mặt trời, mặt trăng
soi chiếu, v́ vinh quang Thiên Chúa
chiếu sáng trên thành; và đèn soi trên
thành là Chiên Con. Các dân sẽ bước đi
nhờ ánh sáng của thành; vua chúa thiên
hạ tải đến cho thành nguồn phú vinh của
họ. Cổng thành suốt ngày không đóng; v́
ở đó, đêm sẽ không có nữa. Và thiên hạ
đem cống hiến cho thành: vinh quang,
danh dự của muôn dân. Tuyệt nhiên không
có ǵ phàm tục hay người nào làm điều
quái gở, gian tà được vào thành; nhất
nhất chỉ có những ai đă được ghi trong
sổ sự sống của Chiên Con”. (theo bản
dịch của Cha Nguyễn Thế Thuấn, CSsR)
Đoạn Khải Huyền về Giáo Hội là Thánh Đô
Gia-Liêm cánh chung này, ngoài những ư
nghĩa như 1- Thánh Đô Gia-Liêm ở trên
một đỉnh núi cao - v́ Giáo Hội chính là
"một thành xây trên núi không thể nào
khất được nữa" (Mathêu 5:14), và 2- bao
gồm cả Dân Do Thái (được biểu hiệu nơi
12 cổng hướng về bốn phương đông tây nam
bắc tức về Dân Ngoại - xem Gioan 4:22,;
Luca 13:29), lẫn Dân Ngoại là Giáo Hội (được
biểu hiệu nơi một nền đá của tường thành
mang tên của 12 tông đồ), c̣n bao gồm
2 ư nghĩa nữa liên quan đến chung nhân
tính của Chúa Kitô và riêng thân xác
phục sinh của Người, đó là: 3- Thánh Đô
Gia-Liêm này xuất phát "từ trời nơi
Thiên Chúa" mà xuống trong vinh quang -
như thân xác khổ nạn và tử giá của Chúa
Kitô đă được vinh hiển phục sinh bởi
quyền năng Thánh Thần (xem Rôma 8:11);
và 4- Thánh Đô Gia-Liêm này không có đền
thờ bởi chính Thiên Chúa và Chiên Con là
Đền Thờ của thành - ám chỉ Giáo Hội
chính là nơi Thiên Chúa muôn đời ngự trị,
như nhân tính của Chúa Kitô đă được ngôi
hiệp với Thần Tính của Người, chẳng
những âm thầm nơi Mầu Nhiệm Nhập Thể
trong ḷng Trinh Nữ Maria mà c̣n được
vinh quang tỏ hiện như tân nương diễm lệ
nghênh đón chàng rể ở Mầu Nhiệm Cánh
Chung.
Bởi vậy, không phải vô lư khi “Thánh Đô
Gia-Liêm” được Thánh kư Gioan thị kiến
thấy 2 lần, trong cùng đoạn 21 của Sách
Khải Huyền, ở câu 2 và câu 10, đều "từ
trời nơi Thiên Chúa mà xuống". Tuy nhiên,
ở câu 2 "từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống" đây
là một "Tân" Thánh Đô Gia-Liêm, c̣n ở câu
10 "từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống" đây
là một "Thánh Đô Gia-Liêm", không phải
là "Tân" như ở câu 2. Như thế, nếu cả 2
đều là "Thành Thánh Gia-Liêm" và đều "từ
trời nơi Thiên Chúa mà xuống", th́ "Thành
Thánh Gia-Liêm" ở câu 10 chính là h́nh ảnh
của "Tân Thánh Đô Gia-Liêm" ở câu 10. V́
nếu nhân tính đă thăng thiên của Chúa
Kitô Phục Sinh, “từ trời nơi Thiên Chúa
mà xuống" "diễm lệ như tân nương nghênh
đón tân lang" (Khải Huyền 21:2), một
nhân tính tuyệt mỹ của Thần Tính và cho
Thần Tính, th́ "Thánh Đô Gia-Liêm" ở câu
10 "từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống" "ở
trên một đỉnh núi cao" đây chính là Nhiệm
Thể Chúa Kitô, "nơi Thiên Chúa ở giữa
loài người. Ngài sẽ ở với họ, họ sẽ là
dân của Ngài, và Ngài sẽ là Thiên Chúa
của họ, Đấng hằng ở với họ" (Khải Huyền
21:3)
Chắc
v́ h́nh ảnh cánh chung của Giáo Hội
là Thành Thánh Gia-Li êm như thế mà
trong ngày cùng tháng tận, Giáo Hội sẽ
bị quân thù tấn công và tàn phá đến tan
hoang không c̣n ḥn đá nào chồng trên
ḥn đá nào, đúng như lời Chúa Giêsu báo
trước lúc Người vừa trông thấy thành này
đang khi Người vinh quang tiến vào thành
ấy, chỉ v́ thành này không nhận biết
ngày giờ được thăm viếng của ḿnh (xem
Luca 19:43-44), một t́nh trạng có thể ám
chỉ cuộc khủng hoảng đức tin của Kitô
giáo trước khi Chúa Kitô tái giáng, Đấng
v́ thế cần phải đến chẳng những để giải
cứu Giáo Hội mà c̣n “mang ơn cứu độ đến
cho những ai thiết tha trông đợi Người”
(Do Thái 9:28). Sách Giáo Lư Giáo Hội
Công Giáo (khoản 675 và 677) đă cảnh
giác về t́nh trạng “không biết khi Con
Người đến có c̣n thấy đức tin trên thế
gian này hay chăng?” (Luca 18:8) như sau:
“Trước ngày giáng lâm của Chúa Kitô,
Giáo Hội sẽ trải qua một cơn thử thách
cuối cùng, làm lung lay niềm tin của
nhiều tín hữu (xem Lc 18,8; Mt 24,12).
Cuộc bách hại đi theo một cuộc lữ hành
của Giáo Hội trên trái đất (xem Lc
21,12; Ga 15,19-20) sẽ vạch trần cho
thấy ‘mầu nhiệm của sự gian ác’, dưới
h́nh thức một sự bịp bợm tôn giáo, cao
rao là mang đến cho người ta một thứ
giải đáp cho những vấn đề của họ với cái
giá là phải chối bỏ chân lư. Sự bịp bợm
lớn lao nhất sẽ là sự bịp bợm của Phản
Kitô, nghĩa là một thuyết Messia ngụy
tạo, trong đó con người tự tôn vinh ḿnh
thay vào chỗ của Thiên Chúa và của Đấng
Messia mà Ngài đă sai đến trong xác phàm
(xem 2Tx 2,4-12; 1Tx 5,23; 2Ga 7; 1Ga
2,18-22)” (số
675).
“Giáo
Hội sẽ chỉ bước vào vinh quang của Nước
Trời qua lễ Phục sinh tối hậu, khi Giáo
Hội theo Chúa ḿnh vào sự chết và sự
Sống lại của Ngài (xem Kh 19,19). Vậy
Nước Trời sẽ không được thực hiện qua
một cuộc khải hoàn lịch sử của Giáo Hội
(xem Kh 13,8) như kiểu một sự tiến bộ
lên cao măi, nhưng qua một chiến thắng
của Thiên Chúa chống lại sự tung hoành
tối hậu của sự ác (xem Kh 20,7-10),
khiến cho Hiền thê của Ngài phải từ Trời
xuống đất (xem Kh 21,24). Cuộc khải hoàn
của Thiên Chúa đối với sự phản loạn của
sự ác sẽ mặc lấy h́nh thức của cuộc Phán
xét sau cùng (xem Kh 20,12) diễn ra sau
sự rung chuyển vũ trụ tối hậu của cái
thế giới qua đi này (xem
2Pr 3,12-13)” (số
677).
Giáo Hội:
Trinh Nữ Sinh Con
Một trong những dấu hiệu cho thấy tính
chất Công Giáo đích thực nơi Kitô hữu,
không phải là ḷng tôn sùng Thánh Mẫu
Maria, v́ anh chị em Kitô hữu thuộc Giáo
Hội Chính Thống Đông Phương cũng tôn
sùng Đức Mẹ như Kitô hữu Công Giáo. Mà
chính là ở chỗ trung thành với Giáo Hội, tôn
sùng Đức Thánh Cha và tuân theo các giáo
huấn của ngài, vị thừa kế Thánh Phêrô,
đại diện của Chúa Kitô trên trần gian:
"Ai nghe các con là nghe Thày" (Luca
10:16).
Nếu cái kiềng có 3 chân để có thể đứng
một cách vững chắc thế nào th́ đức tin
Kitô giáo cũng cần đến 3 yếu tố chính
yếu bất khả thiếu và bất khả tách biệt
nhau như vậy. Đó là Thánh Kinh, Thánh
Truyền và Huấn Quyền. Giáo Hội Công Giáo
bao gồm
đủ 3 yếu tố thiết yếu này ngay từ ban
đầu cho tới nay, cho dù Giáo Hội Chính
Thống Đông Phương ly khai từ năm 1052
chưa công nhận quyền bính của Giáo Hoàng
Rôma, và cho dù Phong Trào Thệ Phản Cải
Cách Tin Lành đủ các giáo phái chỉ chủ
trương duy Thánh Kinh từ thế kỷ 16.
Riêng Giáo Hội Công Giáo Rôma hầu như
thường xuyên, nhất là hiện nay có 3
khuynh hướng đối
với Giáo Hội:
bảo thủ, cấp tiến và trung thành. Trong
khi nhóm chủ trương bảo thủ, thuộc thành
phần thiểu số, chê trách Giáo Hội là đi
quá nhanh và phá giới, không c̣n ǵ là
truyền thống nữa, nhất là về phụng vụ,
th́ nhóm chủ trương cấp tiến, thuộc
thành phần đa số, lại cảm thấy bất măn
với t́nh trạng tŕ trệ của Giáo Hội,
không biết cấp thời thích ứng với tâm
thức và đ̣i hỏi của thời đại, nhất là về
vấn đề luân lư và kỷ luật của Giáo Hội.
Thành phần thứ ba, cũng thuộc loại thiểu
số như thành phần bảo thủ, nhưng lại là
thành phần luôn trung thành với Giáo Hội,
với Đức Thánh Cha, với hàng giáo phẩm. Ở
chỗ, họ chẳng những hiệp nhất với các
ngài trong tất cả mọi sự liên quan đến
đức tin và phần rỗi của họ, mà c̣n đặc
biệt cầu nguyện cho các ngài và bênh vực
các ngài nữa. Với tất cả tâm t́nh con
thảo, họ luôn chia sẻ với những đớn đau
của Mẹ Giáo Hội và sẵn sàng hy sinh mạng
sống ḿnh cho Giáo Hội để Giáo Hội luôn
là Ánh Sáng Chư Dân!
Về phần ḿnh, để
sống trọn bản chất là Ánh Sáng Chư Dân
và thân phận trở thành như Một Cớ Vấp
Phạm qua suốt gịng lịch sử của ḿnh,
nhất là trong thời điểm có những dấu chỉ
thời đại cho thấy thế giới càng văn
minh tân tiến càng cần được Giáo Hội
mang đến cho nó Vui Mừng và Hy Vọng hơn
bao giờ hết, chính Giáo Hội chỉ biết
sống theo gương mẫu tuyệt vời của ḿnh
là Mẹ Maria, “Mẹ Giáo Hội”,
(một tước hiệu Mẹ Giáo Hội đă được tuyên
nhận trong Công Đồng Chung Vaticanô II
qua Đức Thánh Cha Phaolô VI khi ngài ban
hành Hiến Chế Ánh Sáng Chư Dân ngày
21/11/1964).
“Đức Trinh Nữ nhờ ân huệ và sứ mệnh làm
Mẹ Thiên Chúa, nhờ đó Ngài được hiệp
nhất với Con là Đấng Cứu Chuộc, và nhờ
các ơn và nhiệm vụ đặc biệt khác, Ngài
c̣n kết hiệp mật thiết với Giáo Hội, như
thánh Ambrosiô đă dạy, Mẹ Thiên Chúa là
mẫu mực của Giáo Hội trên b́nh diện đức
tin, đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với
Chúa Kitô. Thực vậy, trong mầu nhiệm
Giáo Hội, chính Giáo Hội cũng được gọi
cách hợp pháp là Mẹ và Trinh Nữ, Đức Nữ
Trinh Maria đi tiên phong, tỏ ra là một
người mẹ và một trinh nữ gương mẫu tuyệt
vời và hiếm có. V́, bởi ḷng tin và vâng
phục, Ngài đă sinh chính Con Chúa Cha
nơi trần gian, mà không hề biết đến
người nam, nhưng được Chúa Thánh Thần
bao phủ. Như một Evà mới, Ngài đă đặt
niềm tin vào sứ giả của Thiên Chúa, chứ
không đặt vào con rắn xưa, một niềm tin
không bị một nghi ngờ nào làm phai nhạt.
Nhưng Người Con mà Ngài đă sinh ra,
Thiên Chúa đă đặt làm Trưởng Tử trong
nhiều anh em (x. Rm 8,29), nghĩa là các
tín hữu, mà Ngài cộng tác vào việc sinh
hạ và giáo dục với t́nh thương của một
người mẹ”.
(Hiến
Chế Ánh Sáng Chư Dân,
khoản 65 - theo bản dịch của Phân Khoa
Thần Học Giáo Hoàng Học Viện
Thánh Piô X Đà Lạt).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Giáo Phận San Bernadino California Thứ
Sáu ngày 3/5/2013
(bài
này đă được phổ biến trên Nguyệt San
Hiệp Nhất GP Orange số báo Tháng
8-9/2013)