|
Sống Tinh Thần Tận Hiến
Phương
Thế thể hiện Đức Tin
trong đời sống hôn nhân gia
đ́nh
Đề
tài
chia sẻ cho Khóa Tĩnh Huấn
Gia Đ́nh Tận Hiến Đồng Công 2013 ở Riverside California
Đaminh Maria Cao Tấn
Tĩnh, BVL
Đề tài Sống Tinh Thần Tận Hiến - Phương Thế thể hiện Đức Tin
trước hết
có
thể hiểu như thế này: Đức tin được thể hiện qua đời sống tận hiến, hay
đời sống tận hiến là bằng chứng cho thấy đức tin.
Thật vậy,
đức tin không phải chỉ là một thứ kiến thức siêu nhiên về Thiên Chúa và
về những ǵ thần linh liên quan đến Thiên Chúa, mà c̣n bao gồm tất cả
bản thân của con người cùng với cuộc sống của họ nữa.
Đó là lư do
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI,
ngay
trong bài Giáo Lư thứ hai trong buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư ngày
24/10/2012 trong Năm Đức Tin (11/10/2012-24/11/2013) đă xác quyết về bản
chất của đức tin như sau:
v
“Đức tin
không phải chỉ là vấn đề lư trí của con người đồng ư với những chân lư
về Thiên Chúa; nó là một tác động nhờ đó tôi tự do phó thác bản thân
ḿnh
cho một vị Thiên Chúa là Cha và là Đấng yêu thương tôi”.
Sống đức
tin bằng đời tận hiến
Đúng thế,
kinh
nghiệm đời thường cũng cho thấy rơ xác tín này là chính đáng. Một trường
hợp rất điển h́nh cho thấy được cái thực tế của niềm xác tín này đă xẩy
ra cho chính bản thân người viết.
Vào mùa hè
năm 1999, trong chuyến hành tŕnh du ngoạn cả gia đ́nh hằng năm bằng xe
hơi, năm nay dài 7000 dặm, từ Pomona tiểu
bang
California sang Houston rồi
Dallas tiểu bang
Texas, sau đó lên Yellow Stone tiểu
bang
Wyoming, và trước khi trở về California thăm Lake Tahoe và Yosemite, gia
đ́nh chúng tôi ghé thăm Salk Lake City ở tiểu
bang
Utah, và trước khi tiến vào thành phố này chúng tôi ghé qua một cái đảo
để ngắm cảnh và bơi lội, v́ chúng tôi nghe thấy rằng ở đây chỉ cần bơi
là nổi, không bị ch́m, dù không biết bơi. Tuy nhiên, cho dù thấy được
đúng như vậy, thấy được hai anh lớn của cháu không biết bơi như cháu bơi
lội ngay trước mắt ḿnh, đứa con gái út gần 9 tuổi của tôi bấy giờ vẫn
không dám nằm xuống bơi, v́ sợ ch́m. Tôi nói với cháu rằng con cứ bơi đi
có bố đỡ con, không ch́m đâu mà sợ. Nhưng cháu vẫn nhất định không dám
bơi. Như thế, ở một nghĩa nào đó, đứa con gái của tôi đă lo sợ đến độ
không tin rằng bố của cháu có thể giúp cháu bơi, không thể nào để cháu
bị chết đuối, cho dù cháu đă thấy được chứng cớ nơi hai anh của cháu là
hễ bơi th́ không ch́m.
Chưa hết,
trong Đại Năm Thánh 2000, gia đ́nh chúng tôi thực hiện một chuyến xuất
ngoại lần đầu tiên, chuyến Hành Hương Năm Thánh 3 tuần lễ trong phái
đoàn 175 người, trước hết đến viếng thăm Vatican ở Rôma, sau đó
sang Fatima nước Bồ Đào Nha, rồi tới Lộ Đức Pháp Quốc, và sau cùng là
Thánh Địa. Ở Thánh Địa, ngoài các dấu vết lịch sử của Lời đă hóa thành
nhục thể và ở giữa chúng ta, như Thành Giêrusalem,
Nhà Bà
Thánh Isave gần Thành Giêrusalem, Hang Bêlem, Hầm Mộ Lazarô, Nhà Tiệc
Ly, Núi Cây Dầu,
Đồi
Canvê, Ngôi Mồ Thánh, Núi Tabor,
Sông
Jordan, Thành Caphanaum và Thành Jericho, Biển Hồ Galilêa, Nguyện Đường
Truyền Tin và Phố
Cana, chúng tôi c̣n được ghé tắm ở Biển Chết - Dead Sea, nơi nước có
nồng độ mặn không thể tưởng tượng nổi, đến độ, nếu chẳng may bị nước
biển ở đó bắn vào mắt th́ nạn nhân bị mù từ
5 đến 10 phút mới có thể mở mắt ra được,
mà c̣n làm cho thân xác con người chỉ cần nằm ngả người xuống nước như
nằm trên giường là nó tự động nổi lềnh bềnh trên mặt nước, chứ không cần
phải xoải người ra bơi mới nổi như ở Salt Lake City. Ấy thế mà vợ của
tôi vẫn không dám xông pha bơi thử, dù thấy biết bao nhiêu là người,
trong đó có chồng ḿnh và con cái của ḿnh quả thực cứ nằm ra là nổi, dù
có muốn ch́m cũng không thể nào ch́m nổi. Như thế,
cho dù thấy chứng cớ đáng tin theo nhận thức của ḿnh mà vẫn sợ không
dám làm th́ kể như không thực sự tin tưởng,
một niềm tin bao gồm cả bản
thân của chủ thể tin nữa, chứ không phải chỉ ở nhận thức hay kiến thức
xuông.
Như thế, đức
tin có tính cách thực hành hơn là lư thuyết, có khuynh hướng dấn thân
hơn là thủ thế, có tác dụng biến đổi hơn là nguyên dạng. Có thể nói, tin
tưởng (believe) chính là tín thác (trust). Thế mà nếu con người không có
đức tin không được cứu độ: "Ai tin và chịu phép rửa sẽ đưoọc cứu độ,
bằng ai không tin sẽ bị luận phát" (x Marcô 16:16). Nhưng đức tin, một
yếu tố bất khả thiếu chẳng những trong việc cứu độ con người mà c̣n giúp
cho con người được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, lại đ̣i hỏi con
người phải thực hiện một cuộc xuất hành, ở chỗ ra khỏi bản thân ḿnh,
vượt thoát bản thân ḿnh để tiến đến với Đấng Cứu Độ ḿnh, để lăn vào
bàn tay Quan Pḥng của Người, đúng như cảm nhận của Đức Thánh Cha Biển
Đức XVI trong bài Giáo Lư thứ 5 ở Buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư ngày 14/11/2012:
v
"Đức tin là
một cuộc gặp gỡ Thiên Chúa là Đấng đang nói năng và tác hành trong lịch
sử và là Đấng hoán cải cuộc sống hằng ngày của chúng ta, biến đổi tâm
thức của chúng ta, thẩm định các phán đoán của chúng ta, các chọn lựa và
những hành động cụ thể.
Nó không phải là một thứ ảo ảnh, một thứ thoát ly thực tại, một nơi
nương tựa thoải mái, một thứ cảm t́nh, mà là một dấn thân toàn thể đời
sống của con người và là việc loan truyền Phúc Âm, một Tin Mừng có thể
hoàn toàn giải phóng con người".
Tuy nhiên,
thực tế cho thấy, con người không thể nào tin tưởng Thiên Chúa nếu không
được Ngài tỏ ḿnh ra cho họ trước. Lịch Sử Cứu Độ của Dân Do Thái là một
chứng cớ hùng hồn về nhận thức này. Thiên Chúa bao giờ cũng đóng vai chủ
động trong việc tỏ ḿnh ra cho con người nói chung và Dân Ngài nói
riêng, để nhờ đó, làm cho họ tin tưởng vào Ngài mà được sống. Phúc Âm
Thánh Gioan cũng thế, v́ Chúa Kitô là "ánh sáng thế gian" (8:12), "một
ánh sáng chiếu trong tăm tối" (1:5), nên Người đă tự tỏ ḿnh ra qua
những phép lạ Người làm, mà không cần họ phải tuyên xưng đức tin trước,
chẳng hạn như cho người yếu liệt
38 năm
ở Hồ Chiên (5:1-15) hay cho người mù từ lúc mới sinh (9:1-41). Đó là lư
do Người đă khẳng định cùng Dân Do Thái trong bài giảng mở đầu về Bánh
hằng Sống rằng công việc của Thiên Chúa là làm cho con người tin tưởng
(xem Gioan 6:29).
Đúng thế,
chính sự kiện Chúa Kitô tử giá là một chứng cớ hùng hồn nhất cho thấy
Thiên Chúa muốn dùng Con Ngài, sử dụng cuộc Vượt Qua của Con Một
Ngài, lợi dụng việc "không dung tha cho Con Một của Ngài" (Roma 8:32) để
làm cho con người tin vào Ngài: "Khi nào quí vị treo Con Người lên
quí vị sẽ biết Tôi là ai" (Gioan 8:28) - "Khi nào Tôi được treo
lên, Tôi sẽ kéo mọi sự lên cùng Tôi" (Gioan 12:32). Trong đời sống
tu đức của mỗi Kitô hữu cũng thế, Thiên Chúa sẽ lợi dụng mọi sự để tỏ
ḿnh ra cho họ, nhờ đó, làm cho họ tin tưởng vào Ngài: "Thiên Chúa
làm cho tất cả mọi sự ḥa hợp với nhau cho thiện ích của những ai được
Ngài kêu gọi theo ư định của Ngài" (Roma 8:28).
Kinh nghiệm
cho thấy Thiên Chúa thường tỏ ḿnh ra cho con người để họ có thể nhờ đó
lợi dụng mà tin vào Ngài, nhất là qua những trường hợp chính yếu sau
đây: 1- khi chống trả cám dỗ, 2- khi thống
hối tội
lỗi,
3- khi quằn quại
khổ đau, 4- khi khẩn thiết nguyện cầu, 5- khi hưởng phúc may lành, 6-
khi hoạt động tông đồ, 7- khi phối
ngẫu vợ chồng, và 8- khi giáo dục con cái.
1- Khi chống trả cám dỗ.
Nếu cám dỗ,
về phía Satan và đồng bọn của hắn, có mục đích kéo chúng ta xuống hỏa
ngục hay xô chúng ta xuống hỏa ngục, th́ cám dỗ tự nó cũng có một tác
dụng đẩy chúng ta đến với Chúa là Đấng cho xẩy ra như vậy để thử thách
chúng ta, một khi chúng ta hết ḷng trung thành với Ngài bằng ḷng tin
tưởng vào Ngài và phó ḿnh cho Ngài.
Bởi thế, khi
bị cám dỗ, chúng ta chẳng khác nào bị ma quỉ rượt bắt cho đến cùng bằng
đủ mọi cạm bẫy. Thành phần môn đệ Chúa Kitô hết sức yếu đuối và mù quáng
theo bản tính vướng mắc nguyên tội của chúng ta chỉ có thể thoát khỏi
nanh vuốt vô cùng hiểm độc của ma quỉ một khi chúng ta biết bám ngay lấy
Chúa, biết lăn vào ṿng tay che chở bao che uy quyền vô địch của Chúa,
không ngang nhiên đối chọi với chúng.
Kinh nghiệm
sống đạo cho thấy, những lần chúng ta bị cám dỗ và quả thực sau đó đă sa
ngă phạm tội là v́ chúng ta dám giao hảo và thỏa hiệp với quyền lực tối
tăm, bằng những lư lẽ trấn an lương tâm của chúng ta bấy giờ đang áy
náy. Chúng ta thường sợ người ta biết mà không dám phạm tội (trộm cắp,
ngoại t́nh v.v.) nhưng chúng ta không sợ Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự.
Nếu nữ nguyên
tổ Evà nhất định tin vào lời cảnh báo của Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên
3:2) là Đấng đă dựng nên ḿnh, hơn là tin theo rắn quỉ xúi giục "đánh
lừa" (Khởi Nguyên 3:13) một cách hết sức tinh khôn quái quyệt (xem Khởi
Nguyên 3:4-5), th́ làm sao "tội lỗi cùng với sự chết đă lọt vào thế
gian" (Roma 5:12). Tội của nữ nguyên tổ Evà ở đây không phải chỉ là tội
bất tuân phục Thiên Chúa mà c̣n là chính tội phạm thượng, dám coi thường
Thiên Chúa vô cùng chân thực và toàn thiện, coi Ngài không bằng rắn quỉ
là loài tự bản chất vốn gian dối độc hại (xem Gioan 8:44).
Trái lại,
trường hợp Bà Suzanna thà chết c̣n hơn phạm tội trước nhan Chúa và
hoàn
toàn tin tưởng phó ḿnh trong tay Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự, cho dù
bà có bị ném đá chết bởi một tội bà không dám làm, mà chỉ v́ bà bị hai
lăo già thẩm phán trong dân đă đồng lơa làm chứng tố gian cho bà để che
đậy tội mê đắm sắc đẹp đến nỗi cùng nhau âm mưu muốn chiếm đoạt thân xác
của bà khi bà sắp sửa tắm trong vườn nhà của bà, nhưng cả hai đă bị bà
cương quyết cự tuyệt, bất chấp có bị hai lăo đe dọa tố oan cho bà và làm
cho bà phải chết (xem Daniel nguyên đoạn 13).
Là thành phần
sống đời hôn nhân gia đ́nh, chúng ta hăy tự kiểm xem chúng ta đă
sống đức tin bằng đời tận hiến ra sao khi chống
trả cám dỗ:
1-
Chúng ta hay bị cám dỗ
về điều ǵ nhất
trong đời sống hôn nhân gia đ́nh? Tại sao?
2-
Chúng ta đă
chống trả ra sao? Có bằng phương pháp
sống đức tin
bằng đời tận hiến hay chăng?
Nếu có th́ tác dụng ra sao? Nếu không th́ hiệu quả như thế nào?
2- Khi thống hối tội lỗi.
Nhờ lănh nhận
Phép Rửa thanh tẩy, Kitô hữu đă chẳng những được khỏi nguyên tội mà c̣n
được tha hết
mọi h́nh phạt bởi đó mà ra nữa. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tác dụng
thanh tẩy của Phép Rửa vẫn không thể nào hoàn toàn ǵn giữ Kitô hữu cho
khỏi sa ngă phạm tội. Trái lại, bản tính đă bị nhiễm lây nguyên tội vẫn
c̣n đó với tất cả mầm mống tội lỗi của nó là đam mê nhục dục cùng tính
mê nết xấu, một bản tính tự nhiên bị hư hoại và hướng hạ cùng thiên tả
dễ bị thế gian đầy hào nhoáng và hấp dẫn thu hút, chưa kể đến t́nh trạng
mù tối của trí khôn và yếu nhược của ư chí, một t́nh trạng rất dễ bị ma
quỉ tinh quái lừa đảo và đánh gục.
Chúa Kitô Vượt Qua đă chẳng những cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi và sự
chết bằng cuộc Khổ Nạn và Tử Giá của Người, mà c̣n nhờ cuộc Phục Sinh
của ḿnh đă ban cho họ được thông phần vào bản tính thần linh của Thiên
Chúa, nhờ đó họ được hưởng sự sống thần linh với Thiên Chúa. Chính nhờ
sự sống thần linh bất diệt này từ Chúa Kitô Phục Sinh mà Kitô hữu lănh
nhận Phép Rửa mới có thể thắng được các chước cám dỗ và đáp ứng những ǵ
Thiên Chúa muốn. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, cho dù được thánh hóa
như thế nếu Kitô hữu lại không biết "tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa
chước cám dỗ" (Mathêu 26:41) th́ họ cũng khó ḷng cho khỏi sa ngă phạm
tội.
Tội lỗi, tự bản chất, thực sự là những ǵ phạm đến Thiên Chúa là Đấng đă
vô cùng yêu thương con người và là những ǵ hoàn toàn phản nghịch với
Thiên Chúa là Đấng vô cùng toàn thiện, bởi đó phạm nhân đáng bị Ngài
công minh thẳng tay trừng phạt. Tuy nhiên, đối với Vị Thiên Chúa "đă
không dung tha cho Con Một ḿnh" (Roma 8:32), Đấng "đến để t́m kiếm và
cứu vớt những ǵ đă hư trầm" (Luca 19:10), th́ tội lỗi chẳng những không
phải là những ǵ cản trở tội nhân đến cùng Người mà c̣n là dịp tốt để họ
cảm nghiệm được t́nh yêu vô cùng nhân hậu của Người, một khi họ biết ăn
năn thống hối bằng tất cả tấm ḷng tan nát khiêm cung và tin tưởng vào
Ḷng Thương Xót Chúa của Ngài.
Sau khi hai nguyên tổ sa ngă phạm tội mất ḷng Chúa, chẳng những các vị
không nh́n nhận lỗi lầm của ḿnh, quay ra đổ lỗi cho nhau, mà các vị c̣n
không lên tiếng xin Chúa thứ tha, thật là ngổ ngáo và hỗn láo như thế,
nhưng không phải v́ vậy các vị không c̣n đáng thương trước nhan của Vị
Thiên Chúa Hóa Công, Đấng thấu suốt mọi sự, trái lại, chính v́ tính chất
ngây ngô vụng về đáng thương hơn đáng chấp của một loài tạo vật đă được
Ngài đặc biệt "dựng nên theo h́nh ảnh thần linh của Ngài và như Ngài"
(Khởi Nguyên 1:26) để họ có thể hiệp thông thần linh với Ngài khi họ
nhận biết những ǵ được Ngài tỏ ra cho họ, đó là Ḷng Thương Xót Chúa
của Ngài ngay từ ban đầu (x KN 3:15).
Điển h́nh là trường hợp của "người phụ nữ tội lỗi được biết đến trong
thành" (Luca 7:37), người phụ nữ đă nhận biết lỗi lầm của ḿnh, lỗi lầm
có thể nói gấp 10 lần một tội nhân b́nh thường (xem Luca 7:41), nhưng đă
hoàn toàn tin tưởng vào Ḷng Thương Xót Chúa, đến độ, chị đă chẳng những
bất chấp bị khinh bỉ trước con mắt của gia chủ người Pharisiêu vốn biết
chị "là một con người tội lỗi" (Luca 7:39), mà c̣n dạn dĩ tới nỗi đă tỏ
ra những cử chỉ đầy ḷng tan nát khiêm cung nhưng rất thân t́nh với Chúa
Kitô, ở chỗ, chị đă lấy nước mắt của ḿnh để rửa chân cho người, lấy tóc
chị mà lau chân Người, rồi chị hôn kính chân Người và cuối cùng xức thơm
chân Người (xem Luca 7:38).
Là thành phần sống đời hôn nhân gia đ́nh, chúng ta hăy tự kiểm xem
chúng ta đă sống đức tin bằng đời tận hiến ra sao khi thống
hối tội
lỗi:
1-
Chúng ta hay vấp
phạm tội
nào nhất trong đời sống hôn nhân gia đ́nh? Tại sao?
2-
Chúng ta đă tỏ ḷng thống hối ăn năn ra sao?
Có bằng phương pháp
sống đức tin
bằng đời tận hiến hay chăng?
Nếu có th́ tác dụng ra sao? Nếu không th́ hiệu quả như thế nào?
3- Khi quằn quại khổ đau.
Phép Rửa thanh tẩy và tái sinh, cho dù có tác dụng tha nguyên tội cùng
với h́nh phạt do bởi nguyên tội, vẫn không xóa bỏ tất cả mọi mầm mống
tội lỗi nơi bản tính đă vướng mắc nguyên tội của con người Kitô hữu thế
nào nơi chính bản thân họ th́ cũng không giải thoát họ khỏi tất cả mọi
khổ đau và chết chóc trên trần gian này như vậy. Bởi thế, như tất cả mọi
con người sinh vào trần gian khác, Kitô hữu cũng không thể nào thoát
khỏi đau khổ thử thách, về thể lư (như bệnh tật, thiên tai, chiến tranh,
đói khát, nghèo khổ v.v.), về tâm lư (như chậm trí, bị tâm thần, bị hiểu
lầm, bị bỏ rơi, bị khinh chê v.v.), về luân lư (như đam mê nhục dục,
tính mê nết xấu, yếu đuối, tội lỗi, bất an v.v.), hay về đạo lư (như khô
khan nguội lạnh, chán nản thiêng liêng, quyến luyến phàm tục, tối tăm
đức tin, ngă ḷng trông cậy v.v.).
Thế nhưng, đau khổ đă được Lời hóa thành nhục thể gánh chịu nơi bản tính
nhân loại của ḿnh trong cuộc Khổ Nạn và Tử Giá để nhờ đó cứu chuộc nhân
loại nói chung và những ai tin vào Người nói riêng. Hơn thế nữa, nếu
trên thân xác phục sinh vinh hiển của Chúa Kitô vẫn c̣n nguyên 5 Dấu
Thánh th́ các dấu thánh này, các dất vết của Khổ Nạn và Tử Giá ấy, c̣n
là dấu chứng phục sinh, là dấu hiệu cho "sự sống lại và là sự sống"
(Gioan 11:25). Bởi vậy, với đức tin, đau khổ không phải là những ǵ hủy
diệt con người mà là những ǵ bất khả thiếu để chẳng những thanh tẩy con
người Kitô hữu vẫn c̣n mang mầm mống tội lỗi mà c̣n thể hiện một "sự
sống viên măn hơn" (Gioan 10:10) nơi Kitô hữu, thành phần nhờ đau khổ
càng được hiệp thông và nên giống với một Đức Kitô gắn liền với thập
giá, đến độ không thể nào có một Đức Kitô phi thập giá (xem Mathêu
16:21-23).
V́ tác dụng của đau khổ vừa để thanh tẩy vừa để hiệp thông mà Kitô hữu
càng muốn trở nên công chính, nên hoàn thiện, nên giống Chúa Kitô, càng
phải chịu nhiều đau khổ. Kinh nghiệm của các thánh đă cho thấy - không
một
vị thánh nào cả đời sung sướng hưởng lạc mà làm thánh, không một ai sợ
hăi khổ đau và trốn tránh đau khổ lại có thể nên thánh; trái lại, càng
thánh lớn càng khổ nhiều, v́ càng nên giống Chúa Kitô, Đấng đă chịu khổ
hơn hết và cho đến cùng tận của bản tính loài người: "Những ai Thiên
Chúa đă biết trước th́ Ngài cũng tiền định cho thông phần với h́nh ảnh
Con Ngài" (Rôma 8:29). Nếu chỉ có cành nho Kitô hữu nào dính liền với
thân nho là Chúa Kitô mới trổ sinh muôn vàn hoa trái (xem Gioan 15:5)
th́ cành nho Kitô hữu nào đă sinh hoa trái mà bị cắt tỉa bởi khổ đau thử
thách lại càng sinh hoa trái hơn nữa (xem Gioan 15:2).
Trường hợp điển h́nh nhất là Ông Gíop, một con người công chính trước
nhan Thiên Chúa, như được chính Ngài công nhận: "Thiên
Chúa phán với Satan rằng: 'Ngươi có thấy Gióp là tôi tớ của Ta không?
Thật chẳng có ai trên cơi đất này giống như nó cả, v́ nó là một con
người vẹn toàn và chân chính, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác!"
(Gióp 1:8). Nhưng chính v́ đă sống công chính mà Chúa muốn thử
thách ông để chứng tỏ cho Satan thấy những ǵ Ngài phán đều chân thực về
một Gióp công chính. Cho dù được Ngài cho phép, Satan đă gây hại đến cho
cả những ǵ tùy thân của ông là của cải và con cái (xem Gióp 1:13-19),
lẫn bản thân của ông là bệnh hoạn và thế giá bị chính người vợ của ông
chà đạp (xem Gióp 2:7-9), nhưng "trong tất cả những chuyện ấy, ông
Gióp không hề vấp phạm và không buông lời trách móc Thiên Chúa"
(Gióp 1:22); "Trong tất cả những chuyện ấy, ông Gióp không hề thốt ra
một lời nói lỗi lầm nào" (Gióp 2:10).
Sở dĩ Ông Gióp có thể chịu đựng được tất cả mọi cùng khổ dồn dập xẩy đến
cho ḿnh như thế là v́ ông là người công chính đích thực, một con người
luôn chẳng những tuyệt đối tin tưởng vào Đấng có toàn quyền trong mọi
sự: "Thiên Chúa đă ban cho, Thiên Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh
Thiên Chúa!" (Gióp 1:21), mà c̣n hoàn toàn phó thác vào sự quan
pḥng của Đấng thấu suốt mọi sự: "Chúng ta đón nhận điều lành từ
Thiên Chúa, c̣n điều dữ, lại không biết đón nhận sao?" (Gióp
2:10). Có thể khi bị quằn quại khổ đau Kitô hữu như đang bị cháy nhà, và
họ chỉ c̣n cách duy nhất thoát chết là nhẩy xuống lầu, v́ ở dưới đó, ở
chốn vực thẳm khổ đau, họ thấy được bàn tay của người cha đă giơ ra sẵn
sàng để ôm chồm lấy họ, và c̣n nghe thấy tiếng người cha thúc giục họ
hăy nhẩy xuống. Vậy đau khổ là lực đẩy Kitô hữu tin tưởng phó ḿnh cho
Chúa tuyệt vời!
Là thành phần sống đời hôn nhân gia đ́nh, chúng ta hăy tự kiểm xem
chúng ta đă sống đức tin bằng đời tận hiến ra sao khi quằn
quại khổ đau:
1-
Chúng ta cảm thấy
điều ǵ làm chúng ta đau khổ nhất trong đời sống hôn nhân gia đ́nh? Tại
sao?
2-
Chúng ta đă chịu đựng đau khổ ấy ra sao? Có bằng phương pháp
sống đức tin bằng đời tận hiến hay chăng?
Nếu có th́ tác dụng ra sao? Nếu không th́ hiệu quả như thế nào?
4- Khi khẩn thiết nguyện cầu.
Nếu vấn đề cám dỗ đi liền với vần đề sa ngă th́ vấn đề đau khổ cũng đi
liền với vấn đề cầu nguyện như vậy. Lịch Sử Cứu Độ của Dân Do Thái cho
thấy rơ sự kiện này. Dân Do Thái khi được b́nh an thịnh vượng th́ hay
quên Chúa và lơ là với lề luật của Ngài, cho đến khi bị đô hộ bởi một
quyền lực ngoại bang nào đó th́ họ mới nghĩ lại mà quay về cùng Thiên
Chúa của họ, để cầu xin Ngài giải cứu họ. Kinh nghiệm cũng cho thấy nơi
cung con người và riêng Kitô hữu. Điển h́nh là t́nh trạng hiện nay thế
giới càng văn minh con người càng bạo loạn, càng trở nên duy vật và vô
thần hơn bao giờ hết. Thế giới Kitô hữu, nhất là thế giới Tây phương
Kitô giáo, nơi đă từng là cái nôi phát triển Kitô giáo và là nguồn
truyền bá Tin Mừng Sự Sống và văn minh yêu thương khắp thế giới, thế mà
cho tới nay lại trở thành nơi xuất phát toàn là văn hóa sự chết và đang
bị phá sản đức tin.
Chính v́ thế Thiên Chúa thường sử dụng khổ đau để đánh động con người,
để chặn đầu họ cho khỏi càng ngày càng xa lạc và sai lạc, nhờ đó Ngài có
thể lôi kéo con người trở về với Ngài. Những đau khổ liên quan đến thiên
tai, bao gồm các thứ thiên tai càng ngày cành nhiều và càng dồn dập và
kinh hoàng, và những đau khổ liên quan đến nhân tai, bao gồm các cuộc
chiến tranh khủng bố xẩy ra khắp thế giới càng ngày càng dữ dội và khủng
khiếp. Một khi con người văn minh về khoa học và kỹ thuật tự cao tự đại
cho ḿnh có thể làm chủ trái đất và thiên nhiên vạn vật này cảm thấy
hoàn toàn bất lực không thể tự cứu ḿnh được nữa, th́ bấy giờ, nếu c̣n
thiện chí và niềm tin, họ chỉ c̣n một cách duy nhất là quay về với Vị
Thiên Chúa chân thật duy nhất của Thánh Kinh Kitô giáo, Đấng làm chủ
lịch sử loài người và toàn thể vũ trụ, cầu khẩn Ngài thương cứu họ và
thế giới.
Theo sự quan pḥng thần linh và đường lối cứu độ của Thiên Chúa, Ngài
thường tỏ ḿnh ra trong trường hợp con người chịu gian nan khốn khó, như
ở tiệc cưới Cana (xem Gioan 2:1-11), hay như với người mù từ lúc mới
sinh (xem Gioan toàn đoạn 9), hoặc ở trường hợp hồi sinh Lazarô sau 4
ngày trong mồ (xem Gioan 11:1:44). Tuy nhiên, một trong những trường hợp
Ngài thích tỏ ḿnh ra nhất đó là trường hợp con người cầu nguyện cùng
Ngài. V́ cầu nguyện thực sự là một tác động của đức tin nơi con người
vào Ngài, một tác động hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Đấng có thể làm
được tất cả những ǵ loài người bất khả (xem Luca 1:37). Kinh nghiệm cho
thấy tác động cầu nguyện sốt sắng nhất của con người đó là khi họ đau
đớn đến cùng cực, không c̣n ǵ bám víu nữa, ngoài một ḿnh Thiên Chúa.
Bấy giờ họ nhận biết Chúa hơn bao giờ hết và hơn ai hết.
Người đàn bà xứ Canaan thuộc Dân Ngoại trong bài Phúc Âm của Thánh kư
Mathêu (15:21-28) cầu xin cho đứa con gái bị quỉ ám của ḿnh, chứ không
phải cho chính bản thân của bà. Và v́ người con gái đáng thương của
ḿnh, bà nài nỉ cho tới cùng. Đến độ sẵn sàng chịu nhóm môn đệ của Chúa
Kitô tỏ thái độ như muốn xua đuổi bà đi: "Xin Thầy bảo
bà ấy về đi, v́ bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu măi!" (câu
23). Thậm chí c̣n bị chính Chúa Giêsu có vẻ làm nhục bà như một con thú:
"Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con"
(câu 26). Qua câu nói coi người phụ nữ Canaan như thú vật
này, Chúa Giêsu quả thực đă nghiền tán người đàn bà dân ngoại này thành
hư không, để nhờ cái hoàn toàn rỗng tuyếch nơi bà như thế, Người có thể
tỏ ḿnh ra một cách hết sức rạng ngời, có thể tuôn tràn tất cả những ǵ
Người muốn thông ban cho bà, chẳng những ở chỗ trừ quỉ cho đứa con gái
yêu quí của bà mà c̣n phục vụ bà trở thành như chủ nhân ông của Người,
muốn ǵ được nấy: "Bà muốn sao th́ sẽ được vậy" (câu
28).
Là thành phần sống đời hôn nhân gia đ́nh, chúng ta hăy tự kiểm xem
chúng ta đă sống đức tin bằng đời tận hiến ra sao khi khẩn thiết nguyện
cầu:
1-
Chúng ta
thường cầu xin
điều ǵ nhất trong đời sống hôn nhân gia đ́nh? Tại sao?
2-
Chúng ta đă cầu xin điều ấy ra sao? Có bằng phương pháp
sống đức tin bằng đời tận hiến hay chăng?
Nếu có th́ tác dụng ra sao? Nếu không th́ hiệu quả như thế nào?
5- Khi hưởng phúc may lành.
Đúng thế, không phải chỉ có gian nan khốn khó khổ đau mới là những ǵ
thử thách đức tin của con người Kitô hữu, mà chính cả ân phúc họ được
hưởng một cách nhưng không cũng là những ǵ thử thách đức tin của họ
nữa. Ở chỗ, như Ông Gióp (xem Gióp 1:21), họ có nhận biết những ǵ may
lành họ có hơn người là do Chúa ban họ chăng, hay tất cả chỉ là của họ;
họ mới là chủ nhân ông, toàn quyền sử dụng những ǵ họ có theo ư của
họ, chứ không phải Thiên Chúa; trong khi họ thật ra chỉ là thành phần
quản lư viên được Vị Chủ Tối Cao kư thác cho họ một số vốn liếng nào đó
(về tiền bạc của cải, tài năng sức lực, thời giờ hoàn cảnh, thế giá
quyền hành v.v.) để họ sinh lợi cho Ngài, bằng ḷng bác ái yêu thương và
việc phục vụ tha nhân của họ, như họ được Ngài yêu thương (xem Gioan
13:34; 15:12), Đấng, qua Con của Ngài, đă "đến để phục vụ chứ không
phải để được phục vụ" (Mathêu 20:28).
Kinh nghiệm cho thấy, nếu không có đức tin hay sống đức tin, con nguời
nói chung và Kitô hữu nói riêng sẽ đi đến chỗ lạm dụng những ǵ được
Thiên Chúa ban cho theo ư riêng của ḿnh, theo ḷng vị kỷ của ḿnh. Ở
chỗ, mua sắm đủ thứ thời trang đến độ không biết ḿnh có bao nhiêu và
những thứ ǵ, không c̣n chỗ để, lỗi thời vứt đi, sắm cái khác. Ở chỗ
thời giờ rỗi răi không biết làm ǵ ngoài vui chơi giải trí hưởng nhàn
trong khi việc nhà thờ hay cộng đoàn đang cần đến những bàn tay phụ giúp
tùy theo thiện chí của mỗi người. Ở chỗ chủ trương thân xác là của ḿnh
nên ḿnh được quyền phá đi cái bào thai bị accident, bị cho là tật
nguyền, bị coi như một cục thịt dư, bị coi như một gánh nặng trong tương
lai, ngăn trở hạnh phúc của hai vợ chồng. Ở chỗ, mỵ dân để giành được
thắng lợi bầu cử cho bằng được nhưng đến khi trúng cử th́ tham quyền cố
vị lo cho bản thân ḿnh và gia đ́nh ḿnh hơn là ích quốc lợi dân v.v.
Và chính v́ con người không biết sử dụng tất cả mọi sự được ban cho ḿnh
với tư cách là quản lư viên hơn là chủ nhân ông mà tất cả những thứ phúc
lộc họ hưởng trên đời này, vào một lúc nào đó, sẽ trở thành tại họa cho
họ. Không phải hay sao, chỉ v́ không biết hoan hưởng Vườn Địa Đường
"được thưởng thức mọi thứ cây trong vườn" (Khởi Nguyên 2:2) một cách
chính đáng theo thân phận quản lư viên của ḿnh, tức là theo quyền hạn (quyền
lợi hay quyền hành có giới hạn) của ḿnh, trái lại, đă
vượt quá quyền hạn của ḿnh, đi ăn cả cây trái cấm mà nguyên tổ loài
người đă chẳng những mất quyền "làm chủ trái đất" (Khởi Nguyên 1:28), ở
chỗ bị tống đuổi ra khỏi vườn địa đàng (xem Khởi Nguyên 3:24), mà c̣n bị
thiên nhiên tạo vật chi phối nữa, cả nam lẫn nữ: nữ trong việc cưu mang
sinh nở (xem Khởi Nguyên 3:16), c̣n nam trong việc tranh đấu vất vả kiếm
ăn cho đến khi là bụi đất trở về với đất bụi (xem Khởi Nguyên 3: 17-19).
Chính Chúa Giêsu, trong Phúc Âm Thánh kư Gioan (5:1-16) đă cảnh cáo
con người bị yếu liệt 38 năm, cứ nằm chờ chực ở Hồ Chiên trong khu vực
của Đền Thờ Giêrusalem để được chữa lành khi có nước động mà chưa bao
giờ đến phiên, nhưng lại là một bệnh nhân đặc biệt đă được bất ngờ lành
bệnh mà không cần phải tranh giành xuống Hồ Chiên trước nhất cho bằng
được khi nước động, bởi Người đă tự động chữa lành cho anh ta, không cần
anh ta phải tuyên xưng đức tin trước, như hầu hết các trường hợp ở bộ
Phúc Âm Nhất Lăm. Ấy thế mà, anh ta, không phải như trường hợp của người
mù từ lúc mới sinh chẳng thấy Đấng đă phục quang cho ḿnh khi thấy ánh
sáng mặt trời (xem Gioan 9:6-7), đă chẳng những không cám ơn vị đă chữa
lành cho ḿnh một cách nhưng không, thậm chí anh ta c̣n không biết cả
tên của vị đại ân nhân này nữa. Nên khi bị nhóm Phariêsu hạch hỏi lúc
anh ta đang vác chơng vào ngày hữu lễ th́ anh ta ú ớ chẳng biết đường
trả lời. Tệ hơn nữa, bất chấp lời Người cảnh báo khi gặp lại anh ta là
"Này, anh đă được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn
trước!" anh ta đă vô ơn bội nghĩa và bất nhân bất nghĩa đến độ đă đi
tố giác tên của Người với thành phần đang muốn ám hại Người là vị đại ân
nhân của anh ta.
Là thành phần sống đời hôn nhân gia đ́nh, chúng ta hăy tự kiểm xem
chúng ta đă sống đức tin bằng đời tận hiến ra sao khi hưởng phúc may
lành:
1-
Chúng ta
có cảm thấy
ḿnh được hưởng nhiều may lành hơn bất hạnh trong đời sống hôn nhân gia
đ́nh chăng, hay ngược lại? Tại sao?
2-
Chúng ta đă hoan hưởng phước may lành ra sao? Có bằng phương pháp
sống đức tin bằng đời tận hiến hay chăng?
Nếu có th́ tác dụng ra sao? Nếu không th́ hiệu quả như thế nào?
6- Khi hoạt động tông đồ
Hoạt động tông đồ là một
yếu tố bất khả thiếu trong đời sống Kitô hữu. Chính v́ thế Công Đồng
Chung Vaticanô II đă định nghĩa "Giáo Hội lữ hành tự bản chất là truyền
giáo" (Sắc lệnh Ad Gentes - 2) và "hoạt động truyền giáo bắt nguồn sâu
xa từ chính bản tính của Giáo Hội" (cùng nguồn - 6). Tuy hoạt động tông
đồ được hiểu giới hạn trong môi trường sống của từng Kitô hữu và công
cuộc truyền giáo được hiểu bao rộng hơn, nhất là đối với thành phần được
ơn gọi truyền giáo và sai đến những địa điểm được gọi là cánh đồng
truyền giáo, nhưng cả hai đều mang một sứ vụ chính yếu đó là làm chứng
cho Chúa Kitô, làm cho Người được nhận biết.
Thật vậy, cho dù là làm
tông đồ giáo dân nơi môi trường sống của ḿnh, trong gia đ́nh, ngoài xă
hội, ở xứ đạo, hay truyền giáo ở một xứ sở xa xôi hẻo lành, ở vùng sâu
vùng xa, v.v. Kitô hữu bao giờ cũng phải "là ánh sáng thế gian" (Mathêu
5:14), phản ảnh Chúa Kitô "là ánh sáng thế gian... ánh sáng sự sống"
(Gioan 8:12). Chúa Kitô cố ư thiết lập Giáo Hội "là ánh sáng muôn dân -
lumen gentium" (nhan đề Hiến Chế tín lư về Giáo Hội) như một
thành xây trên núi, không thể ẩn khuất, chứ không như một ngọn đèn ở
dưới đáy thùng thế nào (xem Mathêu 5:14-15), th́ Chúa Kitô cũng
muốn Kitô hữu phải phản ảnh Người như thế: "Cũng vậy, các con cũng phải
chiếu giăi trước mặt con người..." (Mathêu 5:16).
Việc làm chứng cho Chúa
Kitô như thế là một trách nhiệm bó buộc chứ không phải chuyện thường và
vô trách nhiệm, một trách nhiệm gắn liền với Phép Rửa nhất là Phép Thêm
Sức là hai Bí Tích hiệp nhất Kitô hữu chúng ta nên một với Chúa Kitô và
nhận lănh Thánh Thần thông ban sự sống của Người. Tuy nhiên, về cách
thức hay phương thế để làm chứng cho Chúa Kitô lại tùy vào khả năng và
hoàn cảnh của mỗi người. Có người chỉ làm tông đồ bằng cách suốt đời
liệt giường chịu đựng bệnh tật. Trái lại, có người làm tông đồ bằng việc
đóng góp tiền bạc cho việc truyền giáo hay xây dựng cộng đồng Dân Chúa
địa phương. Thậm chí có người tham gia vào mọi sinh hoạt trong cộng đoàn
hay giáo xứ v.v.
Kinh nghiệm tông đồ giáo
dân cho thấy thành phần hằng say hoạt động tông đồ trong cộng đoàn, hội
đoàn hay giáo xứ, lúc đầu th́ sốt sắng, sau đó bỏ cuộc, chán chường,
thậm chí c̣n quay ra chống đối và phá đám gây chia rẽ nữa. Đó là chứng
cớ hùng hồn cho thấy những người anh chị em Kitô hữu ấy, một là lúc đầu
v́ Chúa, sau v́ ḿnh, nên hễ bị đụng chạm, bất đồng ư kiến một chút,
trái ư một chút, chạm tự ái một chút, bị phê b́nh chỉ trích một chút,
hoặc không được bạn bè cộng tác làm việc nữa hay bạn bè cùng làm tông đồ
với ḿnh bất măn rút lui v.v., th́ họ cũng mất hứng lấy lư kiếu từ, để
rồi sau khi nhẩy ra ngoài, họ vẫn không chịu yên thân, mà c̣n x́ xèo hay
lên tiếng b́nh phẩm đủ thứ.
Nếu hoạt động tông đồ giáo
dân bất khả phân lư với bản chất của Kitô hữu là "ánh sáng thế gian",
đến Phép Rửa và Thêm Sức, th́ hoạt động tông đồ có liên hệ mật thiết với
đức tin và là những ǵ chẳng những có tính cách truyền bá đức tin mà c̣n
thể hiện đức tin nữa. Bởi thế, một Kitô hữu làm tông đồ mà không có đức
tin hay yếu đức tin sẽ khó có thể tồn tại với việc tông đồ và mang lại
tối đa lợi ích tông đồ cho đồng đạo của ḿnh cũng như cho chính bản thân
ḿnh. Đấy là chưa kể trường hợp làm tông đồ bằng việc cần phải sống đức
tin khi xẩy ra những thái độ hay hành động chống đối và bắt đạo tại gia
giữa vợ chồng với nhau, khi người này muốn dấn thân làm tông đồ theo khả
năng dồi dào của ḿnh th́ người kia lại khó chịu, không cho đi, hết sức
ngăn cản, thậm chí đe dọa, cho dù một trong hai người đă chu toàn trách
nhiệm của ḿnh trong gia đ́nh với vợ chồng hay con cái.
Theo kinh nghiệm cho thấy,
một Kitô hữu tông đồ giáo dân đích thực phải là một
Kitô hữu làm tông đồ
theo chiều hướng đức tin
như sau:
Trước khi làm việc tông đồ:
1- quyết định làm tông đồ căn cứ vào ư Chúa hơn là ư thích hay hứng khởi
của ḿnh, hơn là chỉ v́ nể nang lời rủ rê của bạn bè; bởi vậy, một khi
nhận thức được quả thực đó là ư Chúa th́ dù họ không có tài đức, không
có thời giờ, không có phương tiện v.v. họ cũng dấn thân đáp ứng ư Chúa,
chứ không chờ đến khi họ hội đủ mọi điều kiện họ mới dấn thân làm, hoàn
toàn tin tưởng Chúa
và phó thác mọi sự trong tay Đấng đă biết họ mà c̣n chọn họ.
Đang khi làm việc tông đồ:
2- chính v́ họ làm tông đồ v́ được Chúa chọn gọi, họ không bao giờ làm
theo ư riêng của ḿnh, nhất là họ sẽ không sợ gian nan thử thách, trái
lại, họ chấp nhận mọi sự theo Thánh ư Chúa, và giải quyết tất cả mọi vấn
đề bằng niềm tin tưởng vào Chúa và trong t́nh yêu thương nhau; thậm
chí họ chấp nhận trước mọi đau khổ thử thách và cần đến đau khổ thử
thách để phần nào chứng tỏ ḷng họ thực t́nh muốn trả về cho Chúa những
ǵ Ngài đă ban cho họ.
Sau khi làm việc
tông đồ: 3- việc thành công hay thất bại của họ trong việc tông đồ họ
làm không phải ở chỗ họ được khen tặng hay chê bai, họ lập công hay mất
công trong thời gian
phục vụ, mà là ở chỗ
họ đă hết sức cố gắng chu toàn Thánh ư Chúa là Đấng
muốn họ làm, với tâm
t́nh của một người đầy tớ "sau khi làm xong những ǵ được
lệnh làm th́ nói 'chúng tôi chỉ là một người đầy tớ vô dụng – useless /
bất xứng - unworthy. Chúng tôi chỉ làm theo phận vụ của ḿnh mà thôi'"
(Luca 17:10).
Là thành phần
sống đời hôn nhân gia đ́nh, chúng ta hăy tự kiểm xem chúng ta đă
sống đức tin bằng đời tận hiến ra sao trong hoạt động
tông đồ giáo dân:
1-
Chúng ta có dấn
thân làm tông đồ
giáo dân hay chăng? Nếu chưa - tại sao, nếu rồi - thế nào?
2-
Việc tông đồ
giáo dân chúng ta đang làm có thực sự mang lại lợi ích thêng liêng cho
chính bản thân chúng ta cũng như cho chung gia đ́nh chúng ta hay chăng?
3-
Chúng ta có
dám bỏ việc tông đồ đang thành công rực rỡ của ḿnh để bảo vệ hạnh phúc
hôn nhân gia đ́nh của ḿnh hay chăng, dù không phải lỗi tại ḿnh, đă chu
toàn đầy đủ bổn phận trong gia đ́nh?
7-
Khi phối ngẫu vợ chồng
Việc hôn nhân vợ chồng
không phải chỉ là việc đáp ứng nhu cầu tâm sinh lư tự nhiên, mà c̣n là
và nhất là việc của đức tin. Ở chỗ, để chọn lựa đúng người vợ hay người
chồng suốt đời sống với ḿnh, sướng khổ có nhau, sống chết có nhau, tôi
phải cầu nguyện lâu dài để xin Đấng xe duyên kết nghĩa cho tôi biết
người mà tôi đang quen biết, và đang tiến đến chỗ kết hôn sống đời phối
ngẫu có thực sự là người Ngài gửi đến cho tôi hay chăng? Và nếu một khi
đă cẩn thận suy nghĩ, thiết tha cầu nguyện và t́m hiểu kỹ càng, người mà
tôi quyết định lấy đó phải là người tôi cảm thấy đúng là người Chúa
gửi đến cho tôi.
Nếu vợ tôi hay chồng tôi là
người đă được Thiên Chúa gửi đến cho tôi, th́ tôi phải trọn đời thủy
chung với họ, bất cứ khi nào tôi phản bội họ hay ly dị hô là tôi trước
hết và trên hết bất trung với Thiên Chúa là Đấng đă huyền nhiệm xe duyên
kết nghĩa chúng tôi với nhau. Hôn nhân theo đức tin, do đó, không phải
là một thứ pro choice, như trong việc phá thai, ở chỗ tôi có quyền chọn
người này th́ cũng có quyền bỏ người đó để lấy người khác cho tới khi
t́m được người ưng ư nhất mới thôi. Thế nhưng, làm thế nào để biết được
đó là người chồng hay người vợThiên Chúa gửi đến cho tôi? Nếu chính yếu
trước hết và trên hết không phải là t́nh yêu của cặp nam nữ giành cho
nhau ngay từ ban đầu.
Đúng thế, t́nh yêu phái
tính có thể nói chính là chứng cớ sống động nhất cho thấy việc Thiên
Chúa xe duyên kết nghĩa một cặp nam nữ nào đó. Ở chỗ, họ cảm thấy hợp
với nhau, có duyên với nhau, quyến luyến nhau và gắn bó với nhau, đến độ
sống không thể thiếu nhau, nên đă quyết định lấy nhau và sống đời vợ
chồng với nhau. Vậy nếu t́nh yêu là dấu chứng tỏ việc Thiên Chúa xe
duyên kết nghĩa cho con người nam nữ sống đời vợ chồng với nhau th́ tại
sao, như thực tế phũ phàng cho thấy, càng yêu nhau, càng tự do lấy nhau,
như ở trong các xă hội Tây phương, chứ không bị ép buộc theo tục cha mẹ
đặt đâu con ngồi đó như ở các xă hội Á Đông, các cặp vợ chồng lại càng
mau chóng ly dị và càng ly dị nhiều hơn bao giờ hết và hơn ở đâu hết?
Về t́nh trạng phản khắc này
giữa mầu nhiệm Thiên Chúa xe định trong hôn nhân và quyền pro choice của
con người đối với t́nh nghĩa vợ chồng đang ở trong một thời đại duy nhân
bản - càng văn minh càng yêu cuồng sống vội, càng phá sản văn hóa và
luân lư, chính Chúa Kitô đă khẳng định và cảnh giác rằng: "những ǵ
Thiên Chúa đă liên kết th́ loài người không được phép phân ly" (xem
Mathêu 19:6). Lư do chính yếu đă khiến cho đời sống hôn nhân bị khủng
hoảng chưa từng thấy từ thập niên 1960 tới nay, càng ngày càng kinh
hoàng, không phải là do t́nh trạng khủng hoảng về t́nh yêu cho bằng về
đức tin và luân lư, ở chỗ, con người hoàn toàn sống theo tự nhiên, sống
một cách duy vật và vô thần.
Nếu vợ chồng phải trở nên
một xác thịt th́ vợ chồng không phải chỉ sống với nhau như 1+1=2 để có
thể trở thành 1-1=0 (ly dị), mà là 1x1=1 hay 1/1=1, tức là nhân với nhau
bằng cách sống trong nhau, ở chỗ chấp nhận nhau, đến độ có thể tha thứ
cho nhau cho đến cùng, và chia cho nhau bằng cách sống cho nhau, ở chỗ
hy sinh cho nhau. Hăy lợi dụng chính những ǵ khác nhau, nghịch nhau và
đụng nhau để chứng tỏ yêu nhau chân thật và trọn hảo chứ đừng v́ thế mà
xa nhau hay ly dị. Tuy nhiên, thực tế rất khó nên một xác thịt trong yêu
thương chân thật và trọn hảo, nếu không có ơn Chúa bằng đời sống cầu
nguyện và tận hiến đời sống hôn nhân gia đ́nh cho Mẹ Maria để Mẹ có thể
lợi dụng những lúc thiếu rượu của chúng ta để Chúa tỏ ḿnh ra cho chúng
ta.
Là thành phần
sống đời hôn nhân gia đ́nh, chúng ta hăy tự kiểm xem chúng ta đă
sống đức tin bằng đời tận hiến ra sao khi phối
ngẫu vợ chồng:
1-
Chúng ta có
thực sự ư thức và cảm thấy chồng ḿnh hay vợ ḿnh là người Chúa gửi đến
cho ḿnh hay chăng? Nếu không - tại sao? Nếu phải - thế nào?
2-
Chúng ta đă
sống với chồng ḿnh hay vợ ḿnh là người Chúa gửi đến cho ḿnh ra sao?
Có bằng
phương pháp
sống đức tin bằng đời tận hiến hay chăng?
Nếu có th́ tác dụng ra sao? Nếu không th́ hiệu quả như thế nào?
8- Khi giáo dục con cái
Giáo dục con cái cũng là
một hành động đức tin, chứ không phải chỉ là một hành động thuần nhân
bản theo trách nhiệm của bậc làm cha làm mẹ. Tại sao? Ở chỗ con cái là
của Chúa và thuộc về Chúa hơn là của cha mẹ và thuộc về cha mẹ. Cha mẹ
chỉ là nguyên nhân đệ nhị (second cause), là phương tiện được Thiên Chúa
dùng để sinh ra con cái cho Ngài và của Ngài mà thôi. Nên cha mẹ trần
gian chẳng những không hoàn toàn biết được con ḿnh (cả khi chúng chưa
được thụ thai, mới được thụ thai, đang được thụ thai v.v.), mà c̣n không
thể kiểm soát được chúng và cứu giúp chúng khi cần hay đáp ứng tất cả
mọi nhu cầu của chúng. Bởi thế, cha mẹ dưỡng dục con cái với tư cách là
giám hộ viên, thay cho Thiên Chúa và theo ư Thiên Chúa hơn là theo ư
riêng của ḿnh. Thế nhưng làm sao có thể dưỡng dục con cái theo ư Thiên
Chúa? Nếu không phải yêu thương!
Chính v́ tin tưởng rằng con
cái là quà tặng Thiên Chúa ban cho mà vợ chồng hân hoan đón nhận từng
đứa con, chứ không phá thai, không ngừa thai nhân tạo, có cần ngừa thai
th́ cũng chỉ ngừa thai tự nhiên một cách trân trọng nhau và yêu thương
nhau hơn là lạm dụng nhau, và cẩn thận dưỡng dục chúng sau khi chúng vào
đời như trân trọng món quà của Chúa để có thể dâng về cho Ngài những ǵ
Ngài ban tặng cho họ. Cũng chính v́ thấy được Thiên Chúa trong con cái
của ḿnh mà vợ chồng tỏ ra tôn trọng các con và cố gắng phản ảnh t́nh
yêu thương của Thiên Chúa đối với chúng qua việc tận t́nh và hết sức
chăm sóc và phục vụ của họ. Thậm chí họ tự động đến với chúng, đáp ứng
chẳng những nhu cầu của chúng mà c̣n cả ư thích của chúng nữa, không cần
chúng phải ngỏ ư xin và trước khi chúng có vẻ ngần ngại muốn xin.
Cũng v́ tin tưởng con cái
là của Chúa và thuộc về Chúa mà cha mẹ sẽ cố gắng giáo dục con về phương
diện thiêng liêng đạo đức. Gia tài quí báu nhất cha mẹ để lại cho con
cái đó là tấm ḷng đạo đức, nhờ đó, cha mẹ không cần phải lo lắng theo
dơi con từng giây từng phút, trái lại, cha mẹ có thể theo dơi con cái
ḿnh bằng bộ phận viễn khiến - remote control đó là chính ḷng đạo đức
của chúng. Một khi cha mẹ giáo dục con cái bằng tất cả ư thức đức tin
và t́nh yêu Thiên Chúa như thế, con cái sẽ cảm thấy mến phục và tin
tưởng cha mẹ, nhờ đó cha mẹ dễ dàng dạy bảo chúng. Chúng thậm chí c̣n
phục cha mẹ khi cha mẹ xin lỗi chúng v́ những sai phạm của cha mẹ khi họ
vô t́nh hay cố ư làm gương mù cho chúng. Và chính v́ bản thân cũng yếu
hèn chẳng thua ǵ con cái mà họ càng thông cảm, nhịn nhục và nhất là tha
thứ cho con cái hơn.
Thế nhưng, thực tế cho thấy, đôi
khi có những đứa con hư hỏng ngoài ư muốn của cha mẹ, cho dù cha mẹ rất
đạo đức tốt lành và đă hết sức cố gắng, hoàn toàn không do lỗi tại họ.
Bởi thế, phải luôn cầu nguyện cho chúng. Nhất là tin vào Đấng đă dựng
nên nó qua ḿnh, v́ Ngài yêu thương nó c̣n hơn ḿnh, và t́nh yêu thương
của cha mẹ đối với con cái là tiêu biểu cho thấy một phần nào đó của
t́nh ngài yêu thương chúng. Đôi khi chính nhờ đứa con hư mà cha mẹ nên
thánh hơn bởi gắn bó với Chúa hơn. Càng cảm thấy bất lực trước đứa con
hư càng phải tin tưởng vào Ḷng Thương Xót Chúa, Đấng duy nhất có thể
làm được những ǵ con người bất khả, nhờ đó, cả cha mẹ lẫn con cái đều
trở thành nơi cho Ngài tỏ ḿnh ra, đều được Ngài cứu độ và thánh hóa
theo dự án thần linh quan pḥng vô cùng yêu thương những đầy nghiệt ngă
aon khiên ngang trái đối với ḷng mong ước của con người.
Là thành phần
sống đời hôn nhân gia đ́nh, chúng ta hăy tự kiểm xem chúng ta đă
sống đức tin bằng đời tận hiến ra sao khi giáo dục con cái:
3-
Chúng ta có
thực sự ư thức và cảm thấy con cái của ḿnh thật sự
là tặng ân quí báu
Chúa ban cho ḿnh hay
chăng? Nếu không - tại sao? Nếu phải - thế nào?
4-
Chúng ta đă
sống với con cái của ḿnh là tặng ân quí báu
Chúa ban cho ḿnh ra sao?
Có bằng phương pháp
sống đức tin
bằng đời tận hiến hay chăng?
Nếu có th́ tác dụng ra sao? Nếu không th́ hiệu quả như thế nào?
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
|
|