Tôi đă trả lời người anh em này như sau: "Nhận
xét được tôi nêu lên là theo nhận xét của chính Giáo Hội đấy. Tuy
nhiên, nhận xét của người anh cũng không sai đâu. Thế nhưng, vấn đề
ở đây là nhờ thành phần lănh đạo ở các nước nhược tiểu, như ở VN ta
hay các quốc gia Phi Châu chẳng hạn, ăn bớt tiền viện trợ của dân và
cho dân từ các cường quốc này mà chính sách tân thực dân đế quốc mới
càng dễ thực hiện. Bởi v́ thành phần này sẽ trở thành tay sai đắc
lực cho các cường quốc cho đến khi không xài được nữa th́ lập tức bị
hạ bệ hay bị tru diệt như thực tế cho thấy trên trường chính trị. Và
trong khi c̣n được sử dụng như công cụ chính trị th́ thành phần này
sẽ thực hiện tất cả những ǵ được sai bảo một cách hết sức ngoan
ngoăn. Thật vậy, nếu không có ĐTC GPII đơn thân độc mă can đảm và
hết ḿnh can thiệp vào Hội Nghị Dân Số ở Cairo năm 1994 th́ thế giới
này đă bị toàn cầu hóa theo luật phá thai do Hoa Kỳ (qua vận động và
hỗ trợ mănh liệt của chính phủ Clinton bấy giờ) từ lâu rồi. Chúng ta
hăy cầu nguyện với tất cả ḷng tin tưởng nhé".
Phải, trong bài
Tam Điểm phần 3 về Toàn Cầu Hóa, chúng ta đă thấy được các cơ quan ở
Hoa Kỳ, thực hiện các "âm mưu lịch sử" mà chủ chốt là
Hội Đồng Liên Hệ Ngoại Giao (Hoa Kỳ),
Pratt House, Cơ Quan Rockefeller, tờ phát hành
Foreign Affairs v.v.
Chủ trương toàn cầu hóa vấn đề phá thai thời chính phủ Clinton là
một "âm mưu lịch sử" làm sao không xuất phát từ các trụ sở then chốt
chủ yếu này.
Nếu ai theo dơi diễn tiến của Hội
Nghị về Dân Số ở Cairo Ai Cập năm 1994 sẽ không thể nào phủ nhận
được vai tṛ chủ chốt của ĐTC GPII, vị không thể thiếu trong biến cố
Cộng Sản Đông Âu sụp đổ vào hạ bán năm 1989, trong biến cố Hội Nghị
về Dân Số ở Cairô năm 1994, ở chỗ ngài cương quyết ngăn chặn một
trào lưu hết sức hùng hậu và hùng hổ đang ào ạt xông lên bấy giờ
nhắm đến mục tiêu toàn cầu hóa việc phá thai. Bằng không, một khi
luật phá thai đă được hợp thức một cách toàn cầu hóa từ Hội Nghị về
Dân Số ở Cairô năm 1994 này, th́ không biết từ đó đến nay biết bao
nhiêu và gấp bao nhiều lần số thai nhi tử vong đă bị cưỡng buộc phá
đi ở các nước nghèo thuộc Phi Châu, Á Châu hay Nam Mỹ, cho dù người
mẹ không muốn v.v.
Sau đây là 2 biến cố điển h́nh liên
quan đến nữ giới cho thấy hiện tượng toàn cầu hóa duy nhân bản như
là một ḷ hỏa diệm sơn đă từng bùng nổ qua Hội Nghị Phụ Nữ Liên Hiệp
Quốc ở Bắc Kinh năm 1995, ngay năm sau Hội Nghị về Dân Số ở Cairô
1994, như để phản kháng lại cái thua bại chua cay không ngờ của hội
nghị dân số một năm trước đó, cũng như qua Hội
Nghị Phụ Nữ về Truyền Chức trong Giáo Hội Công Giáo.
Hiện tượng duy
nhân bản chuyên biệt và nổi bật nhất hiện nay, ngoài trào lưu luân
lư nhân tạo, phải kể đến "phong trào nữ giới quá khích" (feminism),
cả lănh vực đời cũng như đạo. Về đời, có luật pháp "pro-choice", cho
phép người phụ nữ có quyền phá thai, và về đạo, có áp lực "inclusive
language", sửa lại ngôn ngữ có vẻ mang tính cách kỳ thị phái tính
trong Thánh Kinh. Tuy nhiên, gần đây cho thấy mức độ quá khích của
phong trào nữ giới đă được tỏ ra qua hai biến cố: thuộc lănh vực
trần thế, có Hội Nghị Phụ Nữ Liên Hiệp Quốc (lần thứ 4) ở Bắc Kinh
Trung Cộng nhóm họp từ 4 đến 15-9-1995, và thuộc lănh vực đạo giáo,
có Hội Nghị Phụ Nữ về Truyền Chức (Women's Ordination Conference)
nhóm họp vào cuối tuần lễ 10-12/11/1995 ở Washington D.C.
Trước hết là biến cố Hội Nghị Phụ Nữ
Liên Hiệp Quốc ở Bắc Kinh. Một trong những điểm được
tranh luận và tranh đấu quyết liệt nhất, bởi những nhân vật đại diện
trí thức tiêu biểu của các quốc gia ở vào thời điểm loài người văn
minh tuyệt vời ngày nay, có thể nói là phải kể đến ư niệm về nam
tính và nữ tính của con người đă được phần đông không muốn gọi là
phái tính (sex) xứng danh con người là loài "nhân linh ư vạn vật"
nữa, mà là giống đực và giống cái ("gender") chẳng khác ǵ như loài
vật. Tổng quan về "Quan Điểm Giống Tính" (Gender Perspective) của
thành phần chủ trương nam tính và nữ tính theo giống đực và giống
cái, đă được nguyệt san CWR (Catholic World Report), trong số báo
tháng 5-1995 và số báo tháng 11-1995, tóm kết như sau:
1. Chủ trương
phá thai là một nhân quyền, phổ biến rộng răi pháp quyền phá thai: "freedom
of reproductive choice" (nguyên văn của tài liệu do
INSTRAW phổ biến trong Hội Nghị), giáo dục phái tính và những quyền
được phép liên hệ dục tính cho vị thành niên cũng như những ai chưa
lập gia đ́nh. (INSTRAW là chữ viết tắt của International Research
and Training Institute for the Advancement of Woman, một cơ quan của
Liên Hiệp Quốc được thành lập nhằm phục vụ việc thăng tiến cho những
phúc lợi của giới phụ nữ)
2. Chủ trương quyền được đồng tính luyến ái (homosexual)
và đồng nữ luyến ái (lesbian).
3. Chủ trương xác định giống tính như một cấu trúc xă hội và chống
lại quan niệm 'sinh lư định mệnh' (biology is destiny).
4. Tin tưởng rằng t́nh trạng nghèo nàn của phụ nữ là do bởi phụ nữ
thiếu tự lập về kinh tế.
5. Cổ vơ hành nghề không theo truyền thống và công việc ngoài gia
đ́nh, và lên án những nghề nghiệp truyền thống và những khuôn mẫu.
6. Chống lại việc bạo hành phụ nữ, v́ tin rằng việc bạo hành như vậy
là do quyền lực của phái nam và gia đ́nh.
7. Đề xướng đẳng số giống tính (gender
quotas) 50-50 trong tất cả mọi cơ quan chính quyền,
dù được bầu cử cũng như được bổ nhiệm: "political equality between
women and men" (nguyên văn của tài liệu do INSTRAW phổ biến dịp Hội
Nghị), trong tất cả mọi ngành nghề kinh tế, làm việc nhà cũng như
coi con cái.
8. Muốn thay đổi định nghĩa về gia đ́nh, hay
chữ 'gia đ́nh' (family) phải được thay thế
bằng chữ 'gia cư' (household).
9. Tin tưởng rằng tôn giáo 'thủ cựu' (fundamentalist)
phải chịu trách nhiệm về t́nh trạng nữ giới bị bạo hành và về việc
chối bỏ những quyền b́nh đẳng của nữ giới.
Sau biến cố Hội Nghị Liên Hiệp Quốc về Phụ Nữ thuộc lănh vực trần
thế, tiếp đến là Hội Nghị Phụ Nữ về
Truyền Chức trong lănh vực đạo giáo, một biến cố đă
được nhen nhúm và sửa soạn từ năm 1993. Nguyệt san Catholic World
Report, số tháng 1/1996, đă phổ biến một bài báo dưới tựa đề "Strange
Sisters: Feminists are ready to abandon the hiearchy, the
priesthood, the sacraments - but not their positions at Catholic
institutions" (Những
Nữ Tu Kỳ Lạ: Các Giới Nữ không ngần ngại băi bỏ hàng giáo phẩm, chức
linh mục và các bí tích, nhưng vẫn giữ lấy chỗ đứng của ḿnh ở tại
các học viện Công Giáo) đă tiết lộ như thế. Căn cứ
vào những tường tŕnh của bài báo, diễn tiến và nội dung của biến cố
có tính cách bùng nổ vô tiền khoáng hậu này có thể được phân tách và
đúc kết như sau.:
Chủ đề của Hội Nghị là
"A Discipleship of Equals"
(Một Mối Liên Hệ Môn Đồ B́nh Đẳng), nhan đề của một cuốn sách đă gợi
hứng cho Hội Nghị này. Bởi thế, những nhân vật điều hành chương
tŕnh Hội Nghị mặc áo linh mục và cả bộ giám mục. Và cũng bởi thế,
một đám đông cả gần 1000 nữ tu,
toàn là các giáo chức hay các thần học
gia, trong ánh sáng mờ ảo của một hội trường, đă có những mục cùng
nhau cử hành các nghi thức tương tự như thánh lễ và giờ kinh.
Trong phần làm phép bánh, họ
đồng thanh đọc lên sau đây:
Chúc tụng
ngài, Thần Linh Tồn Dưỡng, v́ từ Hành Tinh của Trái Đất ngài mang
lại nhiều hạt lúa miến. Chúng tôi nhận lấy, chúc tụng, bẻ ra và dùng
bánh này, khi chúng tôi nhận thức được vẻ đẹp và quyền năng của sự
khác biệt để thực hiện mối liên hệ môn đồ b́nh đẳng.
Cũng thế, qua
phần làm phép chén, họ
cũng đồng thanh đọc:
Chúng tôi nhận
lănh, chúc tụng và uống hoa trái này của cây nho, trong liên đới với
tất cả những ai được Thần kêu gọi nhập cuộc cho một sứ vụ tư tế cải
cách, đó là một mối liên hệ môn đồ b́nh đẳng. (Thế rồi, trên chén
rượu của từng người, họ hát một bản nhạc trong đó có lời này:) "Chớ
ǵ máu của tôi là một mầm mống cho việc giải phóng".
Sang phần
Giờ Kinh Phụng Vụ, họ
hát xướng như sau:
Chúc tụng
Sophia. Chúc tụng danh thánh của bà. Chúc tụng tất cả mọi phụ nữ:
được trẻ trung, phong phú và khôn ngoan. Chúc tụng những chị em của
Sophia là những người làm tồn tại cho một mối liên hệ môn đồ b́nh
đẳng. Chúc tụng tất cả mọi đứa con kể lại các truyện về những vị
tiền mẫu của ḿnh..." (phụ chú: theo thuyết chủ đạo thức, Sophia là
một Đại Mẫu, Nữ Chúa Trời Cao đă xuống thế giới vật chất và hạ sinh
ra 7 quyền lực)
Qua những tŕnh diễn trên đây, mục
tiêu của Hội Nghị là có ư lật đổ chế độ "phẩm trật"
(Kyriarchy là chữ cố ư được dùng thay cho chữ Patriarchy, chữ ám chỉ
phẩm trật), v́ Hội Nghị chủ trương: "Ordination means subordination"
(Chịu Chức tức là lụy thuộc).
Do đó, họ tỏ ra không thèm "phẩm trật"
nữa. Trong một tờ phát hành của Hội Nghị, "Tân Nữ
Giới, Tân Giáo Hội", Janet Kalven viết:
"Những nhà
thần học của chúng ta vạch ra rằng chức linh mục là một quan niệm
phẩm trật thừa kế, được Giáo Hội thiết lập theo ảnh hưởng của Do
Thái cũng như theo những khuôn mẫu của người Rôma, mà hiện nay nó
được gắn liền với những thể thức được giáo sĩ hoá có tính cách trịch
thượng kỳ thị phụ nữ. Nó thật sự phản lại với những sứ vụ của nữ
giới mà phụ nữ đang tạo lập nên... Chúng ta đang đi một bước rất tốt
đẹp: một đàng nhấn mạnh rằng việc loại trừ không cho phụ nữ chịu
chức là bất công. Đàng khác, đẩy mạnh một loại sứ vụ rất khác biệt
trong một giáo hội cộng đồng chuyên nghiệp".
Sau đây là hai lời phát biểu của hai nhân vật chính trong nhóm họ,
lời thứ nhất của Elisabeth Schussler
Fiorenza, tác giả cuốn "Một
Mối Liên Hệ Môn Đồ B́nh Đẳng" (A Discipleship of
Equals), và lời thứ hai của Donna
Steichen, tác giả cuốn "Cơn
Hận Nộ Thách Trời: Dung Nhan Kín Nhiệm của Phong Trào Nữ Giới Công
Giáo" (Ungodly Rage: the Hidden Face of Catholic
Feminism).
1. "Cái mơ
mộng c̣n cần phải được nhận thức là ǵ? Phải chăng, đó là phụ nữ
trong Giáo Hội Công Giáo Rôma sau cùng rồi cũng có thể được gọi là
'Reverend', được mặc bộ giáo sĩ, được khoác những phẩm phục giáo sĩ
hay là nhận được những đặc ân giáo sĩ, nhận được một ấn dấu không
thể xoá bỏ của sự khác biệt chính yếu, của việc tiến lên một cấp
trật cao hơn, chẳng những trong Giáo Hội mà c̣n trên cả thiên đàng
nữa? Phải chăng đó là một mộng mơ cần phải chiếm lấy mẩu bánh giáo
sĩ, cho dù có v́ thế mà chúng ta bị mắc nghẹn hay chăng?"
2. "Người
ta khó mà tin được, song thực sự là giới lănh đạo của phong trào nữ
tu giới đă lâu lắm rồi không hề chú trọng đến chức linh mục, một khi
chúng ta hiểu được từ ngữ đó. Họ sẽ không tuyên hứa vâng phục một vị
giám mục và họ chắc chắn cũng không thi hành đức vâng phục nếu họ có
hứa."
Với tinh thần của Hội Nghị Nữ (Tu) Giới Công Giáo trên đây, một
người b́nh thường tự nhiên cũng sẽ cảm thấy rằng, phong trào nữ giới
quá khích Công Giáo tỏ ra không thèm phẩm trật là v́ biết rằng không
đ̣i được nữa. Bởi v́, trước tháng 5-1994, thời điểm Đức Gioan-Phaolô
II dứt khoát khẳng định trong tông thư "Ordinatio
Sacerdotalis": "Ta
tuyên bố là Giáo Hội không có quyền ǵ cả trong việc truyền chức
linh mục cho nữ giới", th́ họ c̣n ham chức vị linh
mục, như ấn bản "New Women, New Church" được phổ biến trong dịp Hội
Nghị đă tiết lộ: "Vào một cuộc họp (sửa soạn cho Hội Nghị từ tháng
11-1993) có chừng 40 người, trong đó có một giám mục và một linh mục,
chúng tôi đă ôm ấp tư tưởng là t́m kiếm một hay hai vị giám mục hưu
trí Công Giáo để truyền chức các các phụ nữ vào lúc cao điểm nhất
của hội nghị". Tuy nhiên, sau thời điểm bức tông thư oan nghiệt xuất
hiện, họ rành rành đă tỏ ra một thái độ "không thèm" hay "cóc cần"
chức linh mục nữa, được phản ảnh qua Hội Nghị Nữ Giới về Truyền Chức
vào cuối năm 1995.
Nếu thế, không phải hay sao, ư định muốn lănh chức linh mục của
thành phần nữ giới Công Giáo quá khích chỉ là v́ địa vị hơn là thuần
túy v́ "sứ vụ" (theo ư nghĩa của chữ "ministry") và để "phục vụ",
một ư định như thế hoàn toàn ngược hẳn lại với tinh thần của Chúa
Kitô là Đấng cũng "không tự vinh phong cho ḿnh chức vị thượng tế,
mà là nhận lănh bởi Đấng đă phán: Con là Con Cha, hôm nay Cha đă
sinh ra Con" (DT 5:5), cũng là Đấng "đă đến không phải để được phục
vụ mà là để phục vụ, để hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho nhiều
người" (Mt.20:28).
Qua hai biến cố điển h́nh hết sức cập nhật hoá trên đây của
phong trào nữ giới quá khích - Feminism,
nhất là của nữ (tu) giới Công Giáo, duy nhân bản quả thật là một
biểu hiệu cho tinh thần của phản Kitô và là phản ảnh của tinh thần
phản Kitô. Có thể nói, bộ mặt thật của
duy nhân bản không ǵ khác hơn là tinh thần "Pro-Self",
tức là tinh thần "tôn sùng thần tôi"
của ḿnh, được thể hiện qua thái độ và hành động "Pro-Choice".
Đúng thế, theo lư, nếu con người đă tự nhận ḿnh là có quyền tự chọn
và tự quyết (như tự do luyến ái), tự chọn cả những việc không thích
hợp với thân phận của ḿnh, như chức linh mục nơi giới nữ tu, hay cả
những điều không được phép, như phá thai nơi giới nữ trần, th́ tự
nhiên họ cũng có quyền được tự quyết định hủy bỏ, kể cả những ǵ
"loài người không được phép phân rẽ" (Mt.19:6), như ly dị v.v.
Những hiện tượng duy nhân bản quá cỡ
ngày nay, như đến thời điểm không thể nào không bùng
nổ của nó, vừa có tính cách toàn cầu,
như Hội Nghị Phụ Nữ Liên Hiệp Quốc ở Bắc Kinh hồi tháng 9-1995, lại
vừa có tính cách trắng trợn,
như Hội Nghị Phụ Nữ về Truyền Chức của Nữ Tu Công Giáo vào tháng
11-1995 trên đây. Phải chăng đó là những dấu hiệu báo động "mùa gặt
trái đất đă chín mùi" (KH.14:18), cần phải nhổ đi cỏ lùng mà kẻ thù
đă được phép gieo vào thế gian (x.Mt.13:29,38,39) để chẳng những
chúng không thể lấn át được thành phần hạt giống tốt mà lại c̣n làm
lợi cho thành phần hạt giống tốt, những hạt giống được "chọn"
(Gn.15:16) để "Pro-Christ",
để "theo Con Chiên đến mọi nơi Con
Chiên tới" (KH.14:4).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, Hận Thù Quyết
Thắng, phụ bản 4, chương 11, phần II