“Tôi dễ nổi
nóng”, “Tôi có tật say sưa”, “Tôi lại thích phê bình
kẻ khác” hoặc “Tôi biếng nhác quá”. Đó là những lời
phàn nàn ta thường nghe thấy ở những người còn ý
thức được tính cách quan trọng của phẩm giá cao cả.
Họ chẳng thể thú nhận những lời trên đây nếu trong
thâm tâm họ không ao ước muốn dứt bỏ đi các thói hư
tật xấu. Họ nhìn nhận rằng: mọi tật xấu đều bỏ đi
được, miễn là ta phải thực thi cho được 4 điều cần
thiết này:
Tự xét mình:
là điều cần thiết để nhận ra thói xấu tội lỗi. Ta
thường sửng sốt khi nghe người khác phê phán các
thiếu sót của mình. Điều này chứng tỏ cho thấy ta
chưa xét mình đủ để biết được bản thân. Một số lại
sợ phải tra vấn lương tâm: họ ngại gặp thấy những
điều có ở đó, giống như những kẻ hèn nhát không đủ
can đảm đọc bức điện tín vì sợ tin dữ.
Nhưng nên nhớ
rằng cũng như thể xác, linh hồn muốn được an lành,
trước tiên nó phải được chẩn đoán bằng cách tự xét.
Đứa con hoang đàng phải “ngẫm nghĩ” đã, rồi mới có
thể thú nhận những lỗi phạm với cha mình. Có chú tâm
suy xét lại bản thân, ta mới biết được các thói hư
tật xấu cần phải sửa đổi; để biến đổi ta thành người
thực sự như Chúa muốn chứ không phải là kẻ như ý ta
muốn.
2. Tránh xa
dịp tội: là cách dễ dàng nhất để tránh tội. Phương
cách để khỏi bị rắc rối là tránh xa những tình huống
gây rắc rối: ai hay bị phỏng lửa thì chớ bén mảng
đến gần nơi lửa cháy nữa. Kẻ nghiện rượu phải giữ
thân chớ có nhấp môi. Kẻ mê gái thì phải tránh xa
đàn bà con gái. Kẻ nào dễ bị lôi kéo làm xấu, phải
tránh xa các phe đảng băng nhóm quậy phá. Chúa đã
phán: “Ai yêu thích sự nguy hiểm, kẻ ấy sẽ bị hủy
diệt trong cơn hiểm nguy”. Ta rất khó thắng được cơn
cám dỗ khi nó đã quá gần ta; nhưng nếu ta biết cách
hành động dứt khoát để tránh xa các dịp cám dỗ thì
dễ dàng hơn nhiều. Hoàn cảnh xung quanh ảnh hưởng
rất mạnh đối với chúng ta, chúng có thể giúp ta phạm
tội hoặc ngược lại giúp ta tránh tội. Ta có thể chọn
môi trường thích hợp để sống, do đó phải kiên quyết
từ bỏ môi trường nào gây rắc rối cho ta. Chẳng hạn
nếu như những sách báo nào, con người nào hoặc trò
chơi nào khiến ta sa đọa về đạo đức, ta phải cương
quyết từ bỏ và tránh cho thật xa.
3. Phải có ý
chí mới hoàn thành được bất kể công việc gì. Bác sĩ
thường bảo ta rằng không gì giúp đỡ người bệnh cho
bằng ý chí muốn sống của chính người bệnh. Do đó nếu
ta muốn thắng được các thói hư tật xấu, chúng ta
phải có ý chí để trấn áp chúng. Sở dĩ chúng ta có
thói xấu là vì ta đã chấp nhận, nhượng bộ, đầu hàng
chúng, dần dà chúng trở nên tự động và có thể trở
thành vô thức luôn. Để thắng được chúng, ta phải đảo
ngược lại tiến trình đó, phải dùng ý chí để bẻ gãy
tính năng tự động của chúng. Đứa con hoang đàng một
khi đã suy xét, thấy cần phải xa lánh môi trường tội
lỗi, cậu đã đi đến quyết định: “Tôi sẽ chỗi dậy và
về cùng cha”.
4. Phải có
một triết lý nhân sinh đúng đắn mới hoàn tất được nỗ
lực đó, vì rằng chỉ riêng ý chí thôi cũng không đủ
thắng lướt thói hư: cần phải có lòng yêu mến nữa.
Không có kẻ say sưa nào từ bỏ được rượu chè cả nếu
kẻ ấy không tìm gặp được điều quí giá và hấp dẫn hơn
ma men. Các tật xấu khác cũng thế, phải kiếm được
những điều thiện hảo quý báu hơn thì sau đó người ta
mới từ bỏ được thói xấu. Chúa đã có lần cảnh giác
cho ta biết rằng sau khi căn nhà được quét dọn sạch
sẽ, sẽ có 7 con quỉ khác dữ hơn nữa đến chiếm. Đó là
hậu quả tất nhiên nếu như ta không có điều thiện hảo
nào thế vào chỗ đó. Ngay cả trong tâm linh, khoảng
không vẫn là điều đáng sợ.
Ta chẳng thể
xua trừ thói xấu bằng cách chỉ căm ghét chúng, vì
rằng không phải lúc nào ta cũng ghét chúng đúng mực
cả đâu. Ta phải bù vào thói xấu đó bằng cách yêu mến
một điều khác. Tình yêu này phải lớn hơn cả bản
thân… bởi vì bản thân ta cần phải sửa chữa. Tình yêu
thay thế này không được mang tính trần tục. Kẻ nào
kiêu căng, tham lam thì chẳng thể từ bỏ được các
thói xấu, mà còn phạm thêm tội nữa. Không có tình
yêu mới mẻ và mãnh liệt nào đủ sánh với tình yêu của
Thiên Chúa. Và chúng ta phải ra sức dành cho được
tình yêu như thế. Thánh Augustinô đã tóm lại rằng:
“Hãy yêu mến Thiên Chúa, rồi bạn muốn làm gì thì
làm”. Vì khi ta đã mến Chúa thực sự, ta chẳng bao
giờ muốn xúc phạm đến Ngài nữa, đồng thời chẳng muốn
làm hại anh em mình nữa.
Ta chẳng thể
tiêu diệt thói hư một cách hữu hiệu nếu không có một
triết lý nhân sinh nối kết cuộc đời ta với Thiên
Chúa là Đấng tác tạo nên ta và nếu không có Ngài trợ
giúp, ta cứ mãi trầm luân trong vòng bất toàn của
mình.
Trong thời
buổi hưu chiến này (tôi nói hưu chiến bởi lẽ không
thể cho thời đại chúng ta là thời bình) chưa bao giờ
người ta lại hô hào tinh thần hy sinh nhiều đến thế.
Tinh thần này chưa được bộc bày hẳn ra, nhưng nó vẫn
ngấm ngầm như thể các mạch nước ngầm dưới lòng đất
sâu kín vậy.
Tiềm lực của
hy sinh được biểu lộ qua một trong hai cách này: một
cách mang lại chết chóc, một cách khác đem lại an
lành và cứu giúp. Biểu hiện của cách hy sinh thứ
nhất là sự qui phục các chế độ độc tài đang thống
trị ¼ nhân loại. Có một chế độ độc tài đang
áp đặt một thuyết lý ăn cắp của Giáo hội, sau khi đã
tục hóa thuyết lý đó. Nó hô hào mọi người quên mình
đi, kêu gọi thanh tẩy, thanh trừng và bạo lực cách
mạng là điều cần thiết để kiến tạo một thiên đàng
dưới thế. Chủ nghĩa này đã mê hoặc được nhiều người
- không phải là vì những giáo điều đúng thật của nó,
mà bởi loài người đã quá mệt mỏi chán chường chủ
nghĩa Tự do nửa vời, cho rằng chẳng có gì tối hảo để
vươn tới hoặc chẳng có gì là xấu xa đáng kết án cả.
Chủ nghĩa này đã biết cách lấp đầy khoảng không mà
con người đã tạo ra khi chối bỏ Thượng Đế, Đấng đã
phán: “Hãy mang lấy thập giá mà theo Ta”.
Nhưng bên
cạnh đó còn có một cách hy sinh lành mạnh hơn mà ta
phải ấp ủ: giới trẻ hằng đòi hỏi những gì gian nan
và xứng đáng để hành động. Một số tìm được “chính
nghĩa” để phục vụ hết mình bao lâu họ còn tin rằng
chính nghĩa đó còn cứu giúp thế giới được. Nếu có ai
đó cho rằng điều đó chỉ tổ làm cho những thanh niên
thiếu nữ này trở thành vô chính phủ và hời hợt, tôi
phản đối: đó không hề là dấu hiệu chứng tỏ bọn trẻ
hèn yếu hoặc muốn nổi loạn chống đối luật pháp và
quyền bính. Trái lại tôi cho rằng đúng ra phải nói
là thế hệ đi trước mới thực sự là kẻ yếu hèn. Họ đã
lập lờ giữa thật và giả, đức hạnh với thói xấu, biến
cuộc sống thành một trò hề. Thế hệ trẻ có được tinh
thần cách mạng bởi vì họ muốn phản đối thế hệ đi
trước đã thất bại, không chuyển giao được cho thế hệ
đi sau những giá trị trong sáng và sắc sảo đáng cho
họ tranh đấu. Họ nổi loạn để tỏ cho thấy họ coi
thường xã hội man rợ, thụ động đã cưu mang ra họ. Họ
chống lại cuộc sống trống rỗng, vị kỷ. Họ muốn bù
lại bằng những hành động năng nổ nhiệt tình hơn. Dù
có bi quan đến đâu, ta vẫn thấy lóe lên tia hy vọng
này: những thái độ nổi loạn nơi giới trẻ vẫn hướng
về cuộc sống tận tụy và bao la hơn.
Lịch sử đế
quốc La mã đã có lúc rất giống với thời đại chúng ta.
Thuở ấy, dân La mã chọn triết lý khắc kỷ làm lẽ sống,
châm ngôn là: “Nghiến răng mà chịu đựng”. Thời nay
một thứ triết lý khác, tuy ít thỏa mãn được người ta
hơn so với chủ nghĩa khắc kỷ La mã, triết lý ấy đã
hình thành sau khi loài người thoát ra khỏi hai cuộc
thế chiến. Nó xuất hiện ở Đức sau Thế chiến I. Rồi
sau đó lan qua Pháp cho đến ngày nay. Đó là chủ
nghĩa Hiện sinh.
Chủ nghĩa
khắc kỷ khiến cho văn minh bị suy thoái. Chủ nghĩa
Hiện sinh kêu gọi con người chấp nhận chủ nghĩa hư
vô hóa nội tâm, hủy hoại nhân vị do Thiên Chúa ban
cho. Các triết gia hiện sinh ít nhất là đã nhìn nhận
rõ ràng rằng họ kêu mời con người phải chọn một
trong hai đối tượng tối hậu này: hoặc là Thiên Chúa,
hoặc là không gì cả. Và một khi đã chọn xong, con
người ta không được ở mức tầm thường nữa: hoặc là đi
đến điên cuồng và tự sát, hoặc là đến với Thiên Chúa
bằng hy sinh, quên mình. Đại đa số nhân loại ngày
nay - nhất là giới trẻ - đều sẵn có tinh thần hướng
thượng. Họ muốn đạt cho được bầu khí Chan Hòa với
Thập Giá, và mài dũa các khía cạnh sắc bén lởm chởm
của con đường khổ nạn cho bằng phẳng hơn để con
người giảm bớt đau khổ. Nhưng các vị lãnh đạo lại
không như thế, họ không được chuẩn bị để đáp ứng
thỏa đáng các khát vọng sâu xa của dân chúng. Các
quan sát viên nông cạn hẳn có thể cho rằng lãnh tụ
chỉ là kẻ hứa nhiều nhưng chẳng đem lại gì cả -
nhưng chắc chắn lãnh tụ trong tương lai sẽ là người
nắm bắt được ước muốn của dân, họ sẽ biết tự mình
vác lấy thánh giá.
Thời đại mà
giới lãnh đạo chỉ quen hứa hão nay đã cáo chung.
Ngày nay lãnh tụ phải biết kêu gọi lòng dũng cảm, hy
sinh, quên mình. Hàng triệu người sẽ qui tụ quanh họ,
sẵn sàng đem lại cho nhân dân những gì quý báu hơn
cả mạng sống. Nước Mỹ mới nay khao khát có được cơ
hội hy sinh cho chính nghĩa thế giới. Khi đã có lãnh
tụ biết sẵn sàng hy sinh để dành cho được những gì
quý giá nhất, bấy giờ mọi người ắt sẽ sống trong an
lạc.
Đức cha Fulton Sheen. (Nguyên
tác: Way to Happiness)