Loài người
ngày nay nếu không biết dành chút ít thời gian để
suy niệm th́ khó mà sống hạnh phúc hơn được. Trong
Cựu Ước đă có một vị tiên tri cho rằng: “Ḥa b́nh,
ḥa b́nh, thế mà vẫn không có ḥa b́nh. Và cũng
chẳng có ai nhận ra sự thể đó cả”. C̣n trong Tân Ước
th́ Chúa Giêsu cũng đă rút khỏi đám đông, vào nơi
hoang vắng để cầu nguyện. Martha quá bận rộn về
nhiều việc nên đă được Chúa bảo cho hay rằng chỉ có
một điều cần mà thôi. Để nuôi dưỡng đời sống đức tin
và có được an b́nh trong tâm hồn, người ta phải biết
định kỳ tách ḿnh khỏi các lo lắng trần tục.
Có nhiều loại
mệt mỏi: Mệt nhọc thể xác, để phục hồi sức lực có
thể ta chỉ cần ngồi nghỉ dưới bóng cây, hoặc nằm dài
ra nghỉ; sự kiệt quệ trí óc đ̣i hỏi phải ngơi nghỉ
mới có thể tiếp tục nảy sinh các suy tư khác được.
Nhưng gian nan nhất vẫn là sự ṃn mỏi tâm hồn mà chỉ
có cách hiệp thông với Thiên Chúa mới cứu chữa được.
Im lặng giúp
ta ăn nói, nghỉ ngơi giúp ta suy tư. Một nhân chứng
đương thời với A. Lincoln kể lại rằng ông ta có sống
với Lincoln trong ba tuần lễ ngay sau khi trận đánh
Bull Run kết thúc: “Đêm ấy tôi không ngủ được. Tôi
bèn thử dợt lại những ǵ phải nói trước công chúng
sáng hôm sau đó. Đă quá nửa đêm, đúng ra là hừng
đông. Và tôi nghe thấy có tiếng thầm th́ trong pḥng
Tổng thống ngủ. Cửa pḥng hé mở, theo bản năng, tôi
bước lại gần và thấy Tổng thống quỳ bên một cuốn
Kinh Thánh đang mở. Ánh sáng trong pḥng chỉ vừa đủ.
Ngài quay lưng về phía tôi. Tôi đứng lặng một lúc,
quá đỗi bàng hoàng và kinh ngạc. Rồi tôi nghe Tổng
thống buồn bă kêu lên: ‘Lạy Chúa! Chúa đă nghe lời
cầu khẩn của Salomon trong đêm khuya: xin cho được
ơn khôn ngoan. Xin Chúa nhậm lời con đây, con không
thể dẫn dắt dân tộc này nếu Chúa không ra tay giúp
đỡ con. Con là kẻ nghèo hèn và tội lỗi. Lạy Chúa,
Chúa đă nhậm lời cầu xin của Salomon, xin hăy nghe
lời con nài van mà cứu lấy đất nước này!”
Nay ta tự hỏi
liệu không biết có bao nhiêu quan chức thời nay biết
kêu xin Thiên Chúa giúp đỡ họ chu toàn gánh nặng
trên vai họ. Khi Liên hiệp quốc lần đầu tiên nhóm
họp ở San Francisco, v́ sợ làm phật ư các kẻ vô thần,
người ta đă quyết định dành một phút im lặng thay v́
lên tiếng cầu nguyện xin Thiên Chúa soi sáng và
hướng dẫn mọi dân nước. Khi thấy Phêrô không lưới
được cá, Chúa Giêsu bèn bảo ông “Hăy buông lưới sâu
hơn”. Chính khi bị thất bại, linh hồn càng phải rút
ra xa bờ hơn.
Đấng Cứu Thế
hứa ban cho ta “sự nghỉ ngơi tâm hồn” khi ta rút lui.
Nghỉ ngơi là một ơn Chúa ban chứ không phải tự ta
t́m mà có hoặc là sự trả công khi đă chu toàn công
việc. Ham muốn, ganh tỵ, giàu sang và hà tiện đă
khiến con người suy nghĩ theo kiểu phàm tục. Sự nghỉ
ngơi thực sự là việc kiểm soát được mọi đam mê,
khống chế được các khát vọng. Đó chính là niềm vui
thích của một lương tâm yên ổn. Và ta cũng đạt được
sự nghỉ ngơi chỉ khi nào hiểu rơ được cuộc đời này.
Đa số các khuấy động ngày nay xảy ra là do người ta
không hiểu tại sao họ có mặt trên đời này, và họ sẽ
đi về đâu và họ chẳng thèm phí thời giờ để giải đáp
các vấn nạn đó. Nếu không giải đáp được điều đó th́
chẳng giải quyết được điều chi cả. Kéo dài kiếp sống
mà chẳng hiểu tại sao ḿnh sống hẳn là điều hết sức
vô nghĩa.
Động lực
hướng ngoại phải đi kèm với sự nghỉ ngơi bên trong,
nếu không năng lượng sẽ nổ tung và gây ra hành động
thiếu khôn ngoan. Kẻ nào biết dựa vào Thiên Chúa, kẻ
ấy sẽ phục hồi sức mạnh: cả sức mạnh tinh thần và
thể xác. Một linh hồn ṃn mỏi thường dễ kéo theo
thân xác mệt mỏi. Ngược lại một thể xác mệt mỏi lại
ít khi làm cho linh hồn ṃn mỏi hơn. Sự nghỉ ngơi
theo quan điểm Kitô giáo không phải là ngưng làm
việc cho bằng việc giải thoát khỏi những lo lắng do
tội lỗi và ham hố đem lại. Hàng ngàn bệnh nhân loạn
thần kinh cần được phục hồi lại cuộc sống hài ḥa
bằng cách đem lại cho họ sức sống tâm linh nhờ vào
cầu nguyện, tĩnh tâm và chiêm niệm. Cuộc đời có thể
ví như âm nhạc, phải có những tiết tấu thinh lặng
xen lẫn tiết tấu âm thanh.
Sự nghỉ ngơi
do rút lui vào thinh lặng và sự suy niệm đem lại
không chỉ đơn thuần là ngưng làm việc, mà là nghỉ
ngơi ngay trong công việc. An b́nh của Đức Kitô
không phải là một kiểu an b́nh thách thức, cứ đưa
đầu ra đón chờ băo tố. Nó là ḥa b́nh để chiến đấu
và là niềm vui cho lương tâm của những ai biết lắng
nghe tiếng lương tâm. Thế gian không thể ban tặng nó,
cũng không thể tước đoạt nó đi. Nó thống lănh tâm
hồn con người và đó là một thái độ bên trong. Lưu
tâm tới đời sống tâm linh th́ phải biết nghỉ ngơi
vậy.
Chương 8:
CHO
Đại đa số dân
chúng thuộc văn minh Tây phương đều thích được nhận
lănh. Và kỳ lạ thay, đạo đức Kitô giáo lại dựa vào
một nguyên tắc trái ngược: cho đi th́ có phúc hơn là
nhận lănh. Việc thực hiện tinh thần cho đi mà Chúa
đề nghị vừa là một cơ may vừa là một gánh nặng cho
chúng ta vốn sống trong một nền văn minh được Thiên
Chúa dồi dào ban ơn. Lợi tức tính trên mỗi đầu người
dân Mỹ là khoảng 10.000$ mỗi năm. Và lợi tức của 1/3
dân trên thế giới thấp hơn họ 500$ mỗi năm và 2/3
khác ít hơn họ 2.000$ mỗi năm. Ở Mỹ cứ 100$ kiếm
được là phải đóng hết 28$ cho thuế nhà nước. Như thế,
số tiền thuế ta nộp lại cao hơn nhiều so với số tiền
thế giới cần để sống c̣n.
Hẳn nhiên,
chúng ta là một dân tộc thường giúp đỡ những nước
nghèo trên thế giới, đối với những quốc gia thù địch
với ta trong chiến tranh, chúng ta cũng đă chẳng ra
tay giúp họ hồi phục kinh tế sao? Nhưng ở đây ta
không đề cập đến tinh thần giúp đỡ ở mức độ quốc gia,
mà là mức độ cá nhân. Sở dĩ ta cho rằng cho đi th́
đáng quí hơn nhận lănh bởi v́ hành động này giúp cho
linh hồn ta biết siêu thoát khỏi những ǵ là vật
chất và chóng qua hầu liên kết với tinh thần vị tha
bác ái. Đó chính là tinh thần cốt lơi của đạo giáo
chúng ta. Cicero đă từng nói: “Không ǵ khiến con
người giống thần thánh cho bằng việc họ ra tay giúp
đỡ đồng loại ḿnh”. Aristote th́ cho rằng tính hẹp
ḥi, vị kỷ và ganh tỵ làm cho con người trở nên thú
vật, trở thành chó sói và hổ báo với nhau. Nhưng một
khi con người cư xử với nhau bằng yêu thương và
thiện ư, biết thông cảm và ân cần, họ trở thành thần
thánh với nhau.
Lịch sử dân
Do Thái cho thấy họ đă dâng cúng những phúc lợi trần
thế để phục vụ Thiên Chúa và giúp đỡ kẻ nghèo. Trong
những thời thịnh trị, dân chúng quảng đại đóng góp
thuế má, lễ vật tạ ơn, lễ vật dâng tiến. Ḷng quảng
đại này không hề làm cho họ trở nên nghèo đi, họ vẫn
hằng lên tiếng tạ ơn Thiên Chúa v́ những ơn phúc
Ngài ban. Ngay cả trong thời buổi hiện nay, tinh
thần quảng đại này vẫn là một nét đặc trưng của dân
Do Thái. Không những họ chỉ giúp đỡ anh em cùng đạo,
mà c̣n giúp đỡ cả anh em Tin lành và Công giáo.
Ở một phạm vi
nhỏ hơn, ta thấy rằng tính đoàn kết của một cộng
đồng phụ thuộc phần lớn vào tinh thần phục vụ và
giúp đỡ giữa các thành viên với nhau. Ta cứ nh́n xem
giới nông dân th́ rơ: họ rất vị tha, đến mùa gặt
hái, họ giúp nhau thu hoạch. Khi gia đ́nh nào có kẻ
qua đời, họ sẵn ḷng tới giúp một tay hái bắp, gặt
lúa giùm.
Tinh thần
tương trợ này ít thấy hơn nơi phồn hoa đô hội, một
phần là bởi ở đó người ta không để ư đến nhau, phần
khác là do tính cạnh tranh. Nơi nào mà ta chỉ gặp
toàn kẻ lạ mặt, ở đấy ta dễ có thái độ khép kín hơn.
Ta nên đặc biệt lưu ư đến điều này khi quan sát việc
lái xe. Nhiều kẻ b́nh thường ở nhà th́ rất hiền ḥa,
ở sở làm rất tử tế với bạn bè thế nhưng khi lái xe
họ trở thành những người hết sức thô lỗ cục cằn, sẵn
sàng chửi bới các tài xế khác là ngu xuẩn. Bởi v́ họ
yên chí là không ai biết rơ ḿnh là ai cả.
Sự cho tặng
là một cách nhận ra ḷng nhân từ của Thiên Chúa.
Thực ra, đối với Chúa ta chẳng có ǵ để dâng Ngài cả,
nhưng Ngài vẫn hài ḷng v́ những lễ vật tạ ơn của ta.
Kẻ ích kỷ cho ḿnh là trung tâm, c̣n kẻ bác ái vị
tha lại lấy tha nhân làm trung tâm. T́nh trạng bất
b́nh đẳng của loài người chỉ được điều chỉnh bằng
nguyên tắc cho tặng: kẻ mạnh giúp kẻ yếu, giàu giúp
nghèo. Như thế xă hội loài người sẽ được an b́nh. Có
nhiều người lúc c̣n cơ cực th́ rất rộng ḷng với tha
nhân, nhưng đến khi giàu có rồi, họ lại khép kín
ḷng lại. Việc tích góp của cải tác động rất mạnh
đến linh hồn: nó khiến con người càng ngày càng khát
khao thu vén hơn. Lúc trẻ càng hoang đàng bao nhiêu
th́ về già lại càng tham lam bấy nhiêu. Nhưng chỉ
khi nào biết được nỗi sướng vui khi ra tay ban tặng
và rộng ḷng bố thí, họ mới cảm nhận được sự hào
hứng của ḷng nhân từ.
Có một chuyện
kể về một trọc phú người Tô Cách Lan tên là Braco.
Ông rất giàu nhưng lại keo kiệt. Vàng bạc chất đầy
kho. Ngày kia có một anh nông dân tới bảo ông: “Ông
ơi, cho tôi vào nh́n ngắm kho vàng bạc của ông một
chút, tôi sẽ trả cho ông một đồng”. Braco đồng ư.
Sau khi xem xong, anh nông dân đưa một đồng cho tên
trọc phú rồi nói: “Giờ đây tôi cũng giàu có như ông
rồi. Tôi đă nh́n xem được đống vàng bạc của ông như
ông vẫn nh́n ngắm hằng ngày vậy”. Khi ta vui sướng
v́ người khác tốt lành, hẳn ta hạnh phúc hơn nhiều
so với nỗi vui sướng v́ ta tốt lành. Người nhận lănh
vui mừng là điều dĩ nhiên, nhưng kẻ cho lại vui
sướng v́ đă làm cho kẻ khác vui mừng, và đó chính là
sự an b́nh thánh thiện.
Đức cha Fulton Sheen. (Nguyên
tác: Way to Happiness)