Hết
thảy các trường hợp nhân hậu nêu ở trên đều
thiếu nguyên tắc cơ bản này: ḷng nhân hậu
chính là sự hoàn thiện đức công bằng. Tiên
vàn không phải là ḷng nhân hậu, mà là đức
công bằng. Phải thực thi công bằng trước đă,
sau đó mới tỏ ḷng khoan nhân. Công bằng mà
không khoan nhân th́ hơi khắt khe, ngược lại
khoan nhân mà không dựa trên nền tảng công
bằng là quá nghiêng về t́nh cảm. Khi khoan
nhân bị tách rời khỏi công bằng, nó không
c̣n được gọi là yêu thương nữa. Hễ ta yêu
thương ai th́ ta phải chống lại những ǵ có
hại cho đối tượng ḿnh yêu. Biết phẫn nộ
chính đáng không phải là dấu chỉ cho thấy
thiếu ḷng thương xót hay thiếu t́nh yêu.
Trái lại, đó mới là bằng chứng của ḷng
khoan nhân. Đối với tội ác, nếu ta cứ khoan
nhượng, th́ có nghĩa là ta đă bằng ḷng với
tội ác đó. Kẻ nào hô hào phóng thích bọn sát
nhân, phản bội… với lập luận rằng “ta phải
nhân từ như Chúa Giêsu nhân từ”, hẳn họ đă
quên mất điều này: Chúa Giêsu, Đấng Cứu
Chuộc nhân lành cũng đă nói rằng Ngài đến
không phải để đem lại an b́nh mà là gươm
giáo. Người mẹ yêu thương con th́ cũng sẽ
căm ghét bệnh hoạn là thứ đang đe dọa sinh
mạng con ḿnh. Thiên Chúa cũng chứng tỏ rằng
Ngài yêu mến sự Thiện khi Ngài ghét sự ác
lăm le hủy diệt linh hồn con người. Đem ví
một bác sĩ nương tay với vi trùng thương hàn
hoặc bại liệt, hoặc một quan ṭa khoan
nhượng tội hiếp dâm lấy cớ là phải bắt chước
Thiên Chúa nhân từ là một lối so sánh hết
sức khập khiễng, bởi lẽ Thiên Chúa không bao
giờ chấp nhận tội lỗi cả.
Kẻ
nào không nghiêm khắc bao giờ hoặc không
biết phẫn nộ th́ hoặc là kẻ ấy không có t́nh
thương, hoặc không c̣n khả năng phân định
phải trái nữa. T́nh yêu có thể mang tính
nghiêm khắc, cưỡng chế và kể cả dữ tợn nữa
như ta đă thấy nơi Đấng Cứu Thế. Há Ngài đă
chẳng có lần ra tay đánh đuổi bọn con buôn
ra khỏi đền thánh đó sao? Ngài cũng hết sức
gay gắt khi trả lời Hêrôđê. Ngài cũng thẳng
thừng tuyên bố với Toàn quyền Roma, nhắc cho
ông biết rằng ông chẳng có quyền ǵ cả nếu
Thiên Chúa không ban cho ông. Trong câu
chuyện với người đàn bà bên bờ giếng, sau
khi đă nói bóng gió nhẹ nhàng mà bà vẫn bỏ
ngoài tai, Chúa Giêsu đă nói thẳng ra rằng
bà đă qua 5 đời chồng. Khi những kẻ xưng
ḿnh là chính trực muốn gài bẫy Ngài, Ngài
đă lột mặt lạ họ để họ lộ nguyên h́nh là bọn
giả h́nh và Ngài gọi họ là “ṇi giống rắn
độc”. Khi Chúa hay tin những người Galilê bị
cắt cổ lấy máu, Ngài hết sức gay gắt: “Cả
các ngươi nữa, nếu không có ḷng ăn năn hối
cải th́ cũng sẽ bị hủy diệt như họ”. Ngài
cũng nghiêm khắc lên án những kẻ nào xúc
phạm, làm gương mù gương xấu cho trẻ em: “Kẻ
nào làm hư hỏng lương tâm của một trong
những trẻ nhỏ này, tốt hơn là nên cột cối đá
vào cổ y rồi quăng ra biển”.
Ngài
dạy thà rằng móc mắt, chặt bỏ tay chân nếu
chúng nên cớ cho người ta phạm tội mất phần
linh hồn. Khi một môn đồ đến xin Ngài nghỉ
việc tông đồ để về chôn cất cha ḿnh, Chúa
bảo ông: “Hăy theo Ta và cứ để mặc kẻ chết
chôn kẻ chết”. Thấy Matta lo lắng dọn bữa
tiệc đăi ḿnh, Chúa Giêsu đă nói với bà rằng
có một điều khác cần hơn. Thấy các tông đồ
say ngủ, Ngài đánh thức họ và quở trách họ
thiếu cầu nguyện. Và dù Toma đă tuyên xưng
rồi, Chúa vẫn lên tiếng trách móc ông thiếu
ḷng tin. Có khi chỉ một cái nh́n của Ngài
là đủ xuyên thấu ḷng người, phát hiện hết
mọi yếu hèn và xấu xa trong ḷng người, cái
nh́n đó đă làm một môn đệ của Ngài phải cảm
động khóc ṛng.
Nếu
như ḷng nhân từ chỉ là sự tha thứ hết mọi
lỗi lầm, không đ̣i hỏi phải đền bù, không
cần đến lẽ công bằng th́ nó càng làm cho sự
sai trái gia tăng bội phần. Ḷng khoan nhân
chỉ nên dành cho kẻ không lạm dụng; và kẻ
nào biết sửa đổi điều sai trái thành điều
ngay thẳng theo như lẽ công bằng đ̣i hỏi, kẻ
ấy hẳn không lạm dụng ḷng khoan nhân. Cái
mà ngày nay người ta gọi là khoan hồng thực
ra chẳng phải khoan hồng ǵ cả, mà chỉ là
tấm nệm êm ái đỡ đần cho kẻ không ăn ở công
b́nh, và như thế càng làm gia tăng tội lỗi
xấu xa. Người đạo đức không phải là kẻ nhu
nhược, không biết xúc cảm trước bất công.
Đúng hơn, người đạo đức phải là người vừa
dịu dàng vừa nghiêm khắc, có thể nổi giận
lên khi thấy bất công, sẵn sàng ra tay bảo
vệ công lư như thiên thần Micae, Đấng Chính
Trực của Thiên Chúa.
Lư do
tại sao ta không tốt lành hơn là v́ chính
chúng ta không hề quyết chí trở nên tốt lành
hơn. Kẻ tội lỗi và người lành thánh chỉ khác
nhau v́ những quyết định nhỏ nhoi trong tâm
hồn. Trong lănh vực tâm linh, chưa khi nào
hai trạng thái trái ngược lại ở cận kề nhau
như thế. Giữa giàu và nghèo là cả một vực
sâu ngăn cách, người ta phải cậy vào sự hỗ
trợ của hoàn cảnh bên ngoài, hoặc phải có
vận may mới vượt qua được vực thẳm đó. Giới
tuyến phân cách kẻ ngu đần với người thông
thái cũng rất sâu rộng: một người dốt nát
muốn trở thành thông thái đ̣i hỏi phải có
ḷng hiếu học và trí thông minh. Nhưng để
chuyển từ tội lỗi thành nhân đức, từ sự hèn
kém nên sự thánh thiện, người ta chẳng cần
ǵ tới “vận may” hoặc phải cậy dựa vào sự hỗ
trợ của hoàn cảnh bên ngoài. Người ta chỉ
cần một hành động hữu hiệu là quyết tâm cộng
tác với ơn Chúa, thế là đủ.
Thánh
Toma đă dạy rằng: “Chúng ta không phải là
thánh bởi v́ chúng ta không quyết tâm nên
thánh”. Cần lưu ư rằng ngài không nói “v́
chúng ta không muốn nên thánh”. Thực ra
nhiều người chúng ta vẫn muốn nên thánh đấy
thôi. Nhưng muốn đơn thuần chỉ là sự ước ao
điều ǵ đó sẽ xảy đến một cách tự nhiên
không đ̣i hỏi ta phải ra tay hành động.
Quyết tâm nghĩa là ta có kế hoạch hẳn hoi và
phải thực hiện cho bằng được với bất cứ giá
nào, với hết sức lực và hy sinh.
Chúng
ta thường tự đánh lừa ḿnh khi tưởng tượng
ra rằng ḿnh luôn quyết chí trở nên tốt lành
hơn, nhưng đồng thời trong thực tế ta vẫn
giữ lại quá nhiều nết cũ, vẫn quyết định
không đổi thay nhiều thói quen xấu đang có.
Như thế ḷng ao ước chỉ là một ước muốn ơ
hờ. Ch́a khóa để đạt được tiến bộ trong đời
sống thiêng liêng được t́m thấy trong kinh
Tin Kính: “Ngài xuống ngục Tổ tông, ngày thứ
ba Ngài sống lại”. Cũng thế mỗi người phải
xuống đến cơi vô thức, tận cùng sâu thẳm của
linh hồn, nơi chất giấu các nề nếp cũ xưa
của ḿnh. Chính các nết cũ này, rất khó nhận
ra, đă làm ta lóa mắt khi xem xét mọi sự,
tựa như các cánh cửa kiếng sặc sỡ biến đổi
các chân lư của thực tại bên ngoài khi các
chân lư này trồi lên vùng ư thức của ta. Nếu
các nếp cũ của ta là thành kiến, thói xấu,
kiêu ngạo, tham lam, ghen tỵ… th́ thực tại
sẽ bị bóp méo đi và ta chẳng thể nào có sự
phán đoán lương hảo được. Bấy giờ chân lư sẽ
bị nhào nặn sao cho phù hợp với những khiếm
khuyết của ta; ta tự dối ḿnh để khỏi phải
thay đổi, khỏi phải dứt bỏ những thói xấu mà
ta trân trọng đó.
Đa số
chúng ta sống bám theo h́nh ảnh ngụy tạo của
chính bản thân mà ta chẳng muốn rũ bỏ, ta
kinh hăi đau khổ khi khám phá ra rằng ta
không được cao thượng như ta vẫn hằng tin.
Ta nhào nặn chân lư theo khuôn mẫu ḿnh
thích, gạt bỏ hết mọi chân lư làm ta khó
chịu. Cách đo lường chân lư theo ư riêng như
thế quả gây lầm lẫn vô cùng; tựa như khi ta
tự định đặt một phím nào đó trên đàn piano
làm âm Đô vậy. Vô ích, chúng ta có thể cứ
cho phím nào ta dễ chơi nhất là nốt đô đi,
nhưng kết quả thật là thảm hại: thay v́ ḥa
âm, chúng ta chỉ có được toàn là nghịch âm.
Chớ nên nhào nặn chân lư thuận theo ư ḿnh.
Chính
các nếp cũ đeo đẳng này…cũng như các thái độ
sống mà ta không muốn dứt bỏ được thay đổi…
đă tác động lên và làm lệch lạc óc phán đoán
của ta. Trước khi bước vào miền đất hoan lạc
của Đấng Chân Thật, ta phải nhào xuống cơi
địa ngục, nơi chôn kín các lỗi lầm ta muốn
chối bỏ này. Điều này đ̣i hỏi ta phải phân
tích kỹ càng con người của ḿnh, bằng ánh
sáng của lề luật vĩnh cửu của Thiên Chúa.
“Đừng
tự lừa dối ḿnh”. Trong lănh vực tâm linh,
câu cảnh cáo này quả là một lời khuyên hay.
Không ǵ làm cản trở bước tiến trên đàng
nhân đức của ta cho bằng sự ích kỷ. Kẻ ích
kỷ lúc nào cũng tự lừa dối ḿnh, lúc nào
cũng có những lầm lỗi đối với Thiên Chúa mà
y không muốn sửa đổi, và y cũng chẳng chấp
nhận rằng ḿnh có các sai phạm đó nữa.
Đó là
lư do tại sao con người vị kỷ của chúng ta
phải hết sức lùng kiếm cho ra mọi thói hư ẩn
náu trong mọi ngơ ngách tâm hồn ḿnh. Ta cần
thấy được cái tôi thực sự của ḿnh, chứ
không phải cái tôi do ta ngụy tạo. Ta phải
yêu mến Chân lư hơn cả chính ḿnh, phải
quyết tâm từ bỏ mọi lỗi phạm, có như thế ta
mới mong thấy được Chân lư đích thực.
Không
ǵ làm cho đời sống thiêng liêng què quặt
cho bằng các thứ “chấy rận” núp ẩn trong
linh hồn. Chúng có thể là một trong bất cứ
những lỗi phạm thiếu sót thông thường như tự
phụ, cay cú, ganh tỵ, căm thù… Những ai thực
tâm muốn đến gần Thiên Chúa hơn mà không có
tinh thần xét ḿnh hẳn ngạc nhiên khi thấy
rằng sao ḿnh lại hay thất bại quá: lư do
chắc chắn là trong tâm hồn họ có con ngựa
thành Troie làm nội gián, con ngựa đó chính
là lỗi lầm chủ chốt chưa được nhận ra. Chỉ
đến khi nào t́m được rồi thú nhận lỗi lầm đó
với Thiên Chúa và quyết tâm tận diệt nó đi,
họ mới thực sự tiến tới trên đàng nhân đức.
Thánh Augustinô đă nói: “Người tôi tớ đẹp
ḷng Thiên Chúa nhất là kẻ không chỉ chuyên
tâm lắng nghe Lời Chúa, mà c̣n quyết tâm
thực thi Lời Ngài nữa”.
Đức cha Fulton Sheen. (Nguyên
tác: Way to Happiness)