TRÁI TIM CHÚA GIÊSU.
 
1. Chúa kêu mời.
 
Cách đây gần 300 năm, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với thánh nữ Margarita. Khi hiện
ra lần thứ hai, Chúa đã mở ngực ra và chỉ trái tim Người như một tòa lửa sáng rực hơn mặt trời, trong suốt như thủy tinh, chung quanh có vòng gai và trên cùng là thánh giá.Thánh nhân kể : Chúa đã cho tôi biết lòng Chúa nóng nảy khát khao được nhân loại mến yêu, và Người muốn giải thoát nhân loại khỏi vòng trụy lạc. Vì thế, Chúa có ý trỏ trái tim Người cho nhân loại, trái tim chan chứa tình yêu, đầy tràn ân sủng và sự cứu rỗi.
 
Lần khác, đang sốt sắng chầu Mình Thánh Chúa, Margarita lại được xem thấy Chúa, toàn thân Người sáng láng vinh quang với năm vết thương chói lòa như vầng đông, và nhất là trái tim đáng kính của Chúa tựa như lò than hồng. Chúa đã thông cảm cho thánh nữ biết những việc lạ lùng khôn tả của tình yêu Chúa và Người đã yêu nhân loại vô ngần. Thế mà Chúa đã nhận được những gì ? Chúa chỉ nhận được những vô ân tệ bạc !
 
Thật thế, Chúa đã yêu thương loài người hết cách, đến tuyệt độ, đến chết trên thập giá, ta thấy Chúa hằng giang tay ra ngày đêm như muốn ôm cả nhân loại vào lòng. Chúa nghiêng đầu cúi xuống như tha thiết kêu gọi người ta trở về cùng Chúa. Trái tim Người mở toác ra để chứng tỏ lòng yêu thương không bờ bến. Tình yêu thương vô cùng ấy chưa được nhận biết, Người Yêu chí thánh ấy chưa được yêu lại mà còn bị khinh dể và phản bội nhiều lắm. Kìa, chúng ta thấy còn hàng tỉ người chưa nhận biết Chúa, còn biết bao bao kẻ tội lỗi khô khan còn xúc phạm đến Chúa.
 
2. Ta đáp trả.
 
Chúa Giêsu đã yêu ta trước vì từ đời đời Chúa đã thương ta nên mới dựng nên ta, chúng ta
là sản phẩm của tình yêu Chúa. Đáp lại, chúng ta phải biết tha thiết yêu Chúa vì tình yêu bao giờ cũng phải song phương, phải cho đi rồi lấy lại vì “có đi có lại mới toại lòng nhau”. Những người yêu thì tìm đến với nhau, Chúa yêu nên đã tìm đến với ta, ta yêu nên ta tìm đến với Chúa vì người ta nói :”Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” (similis similem quaerit).
 
Chúa yêu ta nên đã chết trên thập giá cho ta. Người còn tỏ tình yêu ra bằng cách để người lính đâm lưỡi đòng thâu qua cạnh nương long để cho nước và máu chảy ra để rửa sạch tội lỗi và nước giải khát cho linh hồn chúng ta.
 
Truyện : nước và máu
Hôm ấy trên ngọn đồi Golgotha náo nhiệt rồi im dần. Lý hình cũng như dân chúng đã lần lượt xuống hầu hết, vì bản án đã thi hành xong. Hai người trộm cướp còn đang ngắc ngoải trên thập giá liền bị đánh giập ống chân cho chết, còn Chúa Giêsu lúc ấy đã từ trần. Ông Longinô – tên người lính ấy – cầm đòng đâm vào cạnh sườn Chúa, tức thì có nước và máu chảy ra (Ga 19,34). Có lời tương truyền rằng ông này vốn bị mù một mắt, và khi máu chảy theo cán đòng xuống tay ông, ông lấy tay vấy máu ấy dụi vào mắt mình, liền được sáng tức thì.
 
Chúng ta hãy dùng máu và nước từ cạnh nương long Chúa chảy ra để rửa sạch linh hồn :
“Lạy ông, xin cho tôi đựoc sạch” (Mc 10,51 ; Lc 18,41)
 
 TRÁI TIM CHÚA VỚI CHÚNG TA.
 
Chúa Giêsu yêu chúng ta, không những Người để trong lòng, nhưng vì yêu ta quá đến nỗi không che giấu trong lòng nữa mà còn phơi bầy ra cho nhân loại thấy. Ngày mà tình yêu củaNgười phải tỏ bầy cho nhân loại là ngày 27.12.1673 với thánh nữ Margarita. Trái tim của Người không còn ở trong lồng ngực nữa, mà vượt ra ngoài để tỏ cho nhân loại biết vẫn còn thật nhiều tình yêu đối với nhân loại.
 
Ôi ! “Hữu ư trung, xuất hình ư ngoại”. Tình yêu của Người chất chứa trong lòng bao thế kỷ qua, nay đã “xuất hình ư ngoại” không còn ngôn từ nào mô tả, để ca ngợi khi trái tim của Người phải xuất hình ư ngoại. Ôi ! Tình yêu Chúa, một lần nữa lại tỏ biểu cho nhân loại được tường tận. Trái tim của Người đã vượt ra khỏi lồng ngực đã hiển nhiên minh chứng cho tình yêu của Người.
 
Lạy Chúa, chúng con đã làm gì có tình yêu đối với Chúa ở trong lòng “hữu ư trung” thì làm sao chúng con ban phát cho anh em chúng con, cho những người cần nếm hương vị của Chúa, qua trung gian là chúng con để “xuất hình ư ngoại”.
 
Lạy Chúa, trong cuộc đời của chúng con chỉ “xuất hình ư ngoại” mà thật ra chẳng hề “hữu ư trung”. Tình yêu mà chúng con “xuất hình ư ngoại” đó, chỉ đặt trên môi miệng, trên tư lợi của đời sống trần gian này, mà không nương tựa nơi Chúa để tạo cho nó có “hữu ư trung”. Xin cho chúng con có tình yêu thật bên trong như Chúa đã ban phát ra cho những người khác.
 
Truyện : xuất hình ư ngoại
Năm 1597 lệnh bắt đạo trên đất Nhật thật gắt gao. Chỉ trong một tuần lễ, mọi cơ sở công giáo đều bị triệt hạ, giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán và khủng bố tàn tạ.
 
Tại vùng Odawara, Kamakura, người ta bắt được hai Linh mục trẻ tuổi là Simauchi và Uzawa cùng nhiều ảnh tượng giải về Tokyo. Quan đại thần Tsukamoto nhặt trong đống ảnh tượng một mẫu ảnh thật kỳ cục : người gì mà để trái tim ra ngoài !
 
Tsukamoto là một nhà nho uyên bác có óc thực tế, thích tìm hiểu. Ông cầm mẫu ảnh trái tim coi qua rồi vứt vào sọt rác, nhưng đến tối, ông nhớ lại và nghĩ bức ảnh kỳ lạ kia hẳn có một ý nghĩa nào đó. Ông lượm lại bức ảnh để trên bàn và suy nghĩ. Trời đã về khuya mà quan vẫn còn ngồi bất động một mình với bức ảnh trước mặt. Mãi đến gần một giờ sáng, vị đại thần mới thở ra nhẹ nhàng khoan khoái, tay cầm bút lông ghi dưới bức ảnh mấy chữ :”đối ngoại hữu kỳ tâm – đối nội vô tâm giả”.
 
Từ đó Tsukamoto đặt bức ảnh trái tim trên bàn làm việc một cách kín cẩn. Một hôm có ông bạn Osaki đến chơi, thấy vậy hỏi :
- Thế nào, bạn lại thích ảnh tượng của bọn tả đạo rồi sao ?
- Đứng về mặt chính trị của triều đình thì tôi không dám phản kháng. Nhưng về mặt văn
hóa và nhân đạo thì tôi rất thích bức ảnh này. Phải chăng bức ảnh này đã nói lên chương trình và hành động cùng lối xử thế tổng quát của Kitô giáo. Để ông bạn coi : đối với thiên hạ, tha nhân bên ngoài thì “Hữu Tâm”, còn với bản thân mình thì “Vô Tâm”. Cho nên họ mới vẽ trái tim để ra ngoài... Nghĩa là phải đem hết trái tim của mình mà phục vụ xã hội, giúp ích cho đời; còn về phần mình thì hy sinh xả kỷ, đừng bao giờ lo riêng cho mình, phải diệt cái ngã vị kỷ. Đem hết trái tim ra giúp đời giúp người. Nội bức ảnh này tôi thấy đầy đủ hơn cả cái học Từø Bi của Phật, khoan dung hơn cái Nhân Thứ của Khổng, cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão, mạnh mẽ hơn cái học Dũng thuật của Thần Đạo Nhật bản vậy. Một tôn giáo dạy phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, không quan tâm đến tư ợi, thì quả là ngay chính của Thiên hạ vậy.
Osaki cảm phục sự diễn đạt của bạn. Không ngờ Đạo Công giáo lại hàm chứa một triết lý nhân sinh cao siêu như vậy. Từ đó hai ông trở nên những người bạn chí thân và đã âm thầm nhận phép rửa tội, đồng thời vận động triều đình thả hai linh mục...
(Hồ bạc Xái, Hạt giống nảy mầm, CN B, tr 85-86)
 
Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã có tình yêu “hữu ư trung” đó. Cả cuộc đời thánh nữ gồm tóm trong chữ y ê u , yêu Chúa tận tình. Trong bức thư thứ hai gửi cho chị em họ Marie Gúerin,
thánh nữ say sưa viết :
“Tôi chỉ biết một phương thế đạt đến sự trọn lành : đó là yêu Chúa. Chúng ta hãy
yêu Chúa bởi vì trái tim chúng ta chỉ được dựng nên để cho tình yêu” !
 
Tất cả cuộc đời của thánh nữ lại được tóm lại trong một tiếng YÊU. yêu mãi, yêu hơn nữa, yêu cho đến khi nào trái tim ngất đi và ngã quỵ. Thế là không những sống trong tình yêu mà còn chết vì tình yêu như bài thơ “được chết vì yêu” mà thánh nữ đã viết.
 
Trái tim Chúa phải là sức mạnh cho chúng ta. Mỗi khi chúng ta thấy mệt mỏi, chán nản trên đường thiêng liêng, giao động trước những thử thách, hãy nhìn vào trái tim Chúa để múc lấy nguồn sức mạnh mà chiến đấu.
 
Truyện : Đại úy La Tour d’Auvergne
Năm 1800, đại úy La Tour d’Auvergne đã chết oanh liệt trên chiến trường Neugourg cạnh sông Danube. Quân lính mổ ngực ông, lấy quả tim rồi ướp thuốc thơm, đặt vào trong chiếc hộp vàng. Một quân nhân mang cờ danh dự và treo hộp ấy trước ngực. Mỗi khi kích thích tinh thần quân sĩ, viên tướng hô to : Đại úy La Tour d’Auvergne. Tức thì, tất cả đạo binh đồng thanh ứng lại :”Người đã chết anh dũng trên chiến trường, nhưng trái tim còn ở giữa chúng ta”. Và tất cả đều cảm thấy hăng hái lạ thường.
 
Qủa tim của vị đại úy đã kích thích được tinh thần quân sĩ chỉ vì đại úy đã anh dũng hy sinh vì tổ quốc và hiện giờ quả tim còn hiện diện giữa quân đội. Cũng thế, Chúa Giêsu đã anh dũng hy sinh chịu chết trên thánh giá cho nhân loại, cho chúng ta, và gần hai nghìn năm nay, trái tim Chúa vẫn còn ở giữa chúng ta. Chúng ta hãy nhìn vào trái tim Chúa Giêsu mà chiến đấu với ba thù, để sẵn sàng hy sinh cho Người, bất chấp gian khổ :
 
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
Thất bát sông cũng lội,
Tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua.
(ca dao)
KẾT LUẬN
 
Chúa Giêsu đã trao ban trái tim Người cho chúng ta, để đáp lại sự trao ban ấy, chúng ta cũng phải dâng trái tim của ta cho Người để từ nay trái tim ta, lòng ta thuộc trọn về Chúa, không bị chia sẻ cho mộ tạo vật nào nữa.
 
Thánh Benoit Joseph Labre là đấng thánh đã đi ăn xin và đã qua đời tại Roma năm 1783. Ngày kia, khi đi thăm một người đau nặng, Ngài dạy cho ông ta phải biết dâng của lễ gì cho đẹp lòng Chúa. Ngài nói : phải dâng cho Chúa ba quả tim ;
- Quả thứ nhất bằng lửa, nghĩa là quả tim đầy tình yêu đối với Chúa.
- Quả thứ hai bằng thịt, nghĩa là quả tim đầy tình yêu đối với tha nhân và năng hướng về sự cầu nguyện.
- Qủa thứ ba bằng đồng, nghĩa là quả tim mạnh mẽ để chống các đam mê của ta, nhất là chống lại tình dục của ta và lo hãm mình để phạt thân xác.
 
Hằng ngày ta hãy nhắc lại sự phó dâng ấy để luôn luôn lúc nào lòng ta cũng hướng về Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta tình yêu chân thật và nồng say mỗi khi ta đọc lời nguyện tắt này :
 
LẠY TRÁI TIM CỰC THÁNH ĐỨC CHÚA GIÊSU,
XIN BAN CHO CON KÍNH MẾN TRÁI TIM CHÚA MỘT NGÀY MỘT HƠN.
 
Lm Giuse Đinh lập Liễm