BÀ NHU
và Những
Ngày
Cuối
Cùng của
Đệ I
Cộng Hòa
·
Monique
Brinson
Demery
TOÀN NHƯ
chuyển
ngữ
1-
Bà
Nhu
đã
nói
chuyện
với
chồng
bà,
ông
Ngô
Đình
Nhu,
bào
đệ
của
Tổng
Thống
miền
Nam
Việt
Nam
Ngô
Đình
Diệm,
lần
cuối
cùng
vào
ngày
27
Tháng
Mười
năm
1963.
Từ
khi
bà
ra
khỏi
nước,
cứ
cách
vài
ngày
họ
lại
nói
chuyện
với
nhau,
lúc
đầu
ở Âu
Châu
và
rồi
ở
Hoa
Kỳ.
Đó
là
một
cuộc
hành
trình
dài.
Bà
Nhu
và
cô
con
gái
Lệ
Thủy,
18
tuổi,
đã
rời
Sài
Gòn
sáu
tuần
trước
đó,
và
nay
là
lúc
để
trở
về.
Họ
dự
định
bay
từ
California
về
Việt
Nam
với
sự
qúa
cảnh
ở
Nhật
Bản.
Ông
Nhu
sẽ
gặp
họ ở
Nhật
rồi
tháp
tùng
cùng
họ
chặng
đường
còn
lại,
và
Bà
Nhu
đang
cố
gắng
xác
định
lại
cái
lộ
trình
qua
một
cuộc
điện
đàm
đường
dài
nối
bà
từ
San
Francisco
về
Sài
Gòn.
Bà
Nhu
giải
thích,
bà
đang
có
một
cái
mụn
mỡ
(cyst)
ở mí
mắt.
Bà
muốn
giải
phẫu
nó,
nhưng
có
thể
phải
đợi
vài
ngày
nữa
khi
bà
đến
Tokyo.
Bà
hỏi
ông,
“Như
vậy
có
được
không?”
Bà
giải
thích
lý
do,
nếu
bà
làm
việc
này
ở
Nhật,
“nó
sẽ
rẻ
hơn”.
Bà
Nhu
đã
cố
gắng
làm
nhẹ
đi
tình
hình.
Thật
là
khó
để
đọc
được
ý
nghĩ
của
một
người
qua
hàng
ngàn
dặm
dây
cáp
xuyên
thái
bình
dương,
nhưng
bà
nghe
giọng
ông
Nhu
nhỏ
và
có
vẻ
khác
lạ.
“Tôi
sẽ
không
đến
Nhật
nữa.
Tôi
ở
lại
Sài
Gòn.”
Bà
Nhu
đã
không
gặng
hỏi.
Bà
không
muốn
có
một
sự
bất
đồng
qua
điện
thoại,
cho
nên
bà
mím
môi.
“Cũng
được”.
Bà
có
thể
hoàn
tất
cuộc
giải
phẫu
trước
khi
bay
về.
Ở
Los
Angeles
cũng
được
chứ,
tại
sao
không?
Các
bác
sĩ ở
đó
đã
từng
làm
việc
trên
những
khuôn
mặt
đẹp
nổi
tiếng.
Bà
sẽ ở
lại
đó
thêm
10
ngày.
Sau
Hoa
Thịnh
Đốn,
Bà
Nhu
đã
công
khai
dừng
lại
ở
các
thành
phố
và
trường
đại
học
ở
North
Carolina,
Illinois
và
Texas.
Bà
đã
tham
dự
Ngày
Hiệp
Chúng
Quốc
(US
Day)
ngày
23
tháng
10 ở
Hội
Trường
Dallas
Memorial,
tại
đây
bà
đã
được
mời
lên
sân
khấu
và
được
trao
tặng
một
bó
hoa.
Ngày
Hiệp
Chúng
Quốc
là
một
cuộc
tuần
hành
phản
đối
được
tổ
chức
đặc
biệt
chỉ
một
ngày
trước
Ngày
Liên
Hiệp
Quốc
(U.N.
Day)
để
chào
mừng
Hoa
Kỳ
là
một
thành
viên
của
Liên
Hiệp
Quốc
tại
cùng
một
địa
điểm.
Có
những
biểu
ngữ
viết
“Hoa
Kỳ
hãy
rút
ra
khỏi
LHQ”
hay
“LHQ
hãy
rút
ra
khỏi
Hoa
Kỳ”.
Cuộc
tập
họp
chống
LHQ
đã
mang
những
người
siêu
bảo
thủ
lại
với
nhau
để
chống
lại
chính
phủ
Kennedy
ở
Hoa
Thịnh
Đốn
–
các
thành
viên
của
các
tổ
chức
như
Hội
John
Birch,
The
Minutemen,
The
National
Indignation
Convention,
và
cả
một
người
có
tên
Lee
Harvey
Oswald
(người
sau
này
đã
ám
sát
tổng
thống
Kennedy)
đã
có
mặt.
2-
Nhưng
theo
tất
cả
những
sự
chú
ý
của
báo
chí
đối
với
Bà
Nhu
và
những
người
bạn
mới
đầy
quyền
lực,
sự
việc
ở
Sài
Gòn
đã
tiếp
tục
trở
nên
xấu
hơn.
Giọng
ông
Nhu
có
vẻ
lạ
lùng
trên
điện
thoại
với
vợ
ông
vì
ông
biết
rằng
tới
lúc
đó
mọi
việc
đã
trở
nên
vô
vọng.
Việc
tấn
công
của
ông
Nhu
vào
các
chùa
(Phật
giáo)
vào
Tháng
Tám
(được
thực
hiện
bởi
Quân
Đội
của
Lực
Lượng
Đặc
Biệt
VNCH
và
cảnh
sát,
trong
đó
hơn
1400
Phật
giáo
đồ
đã
bị
bắt)
đã
phá
hỏng
thiện
chí
còn
lại
trong
mối
liên
hệ
của
ông
với
người
Mỹ.
Trước
đó,
suy
nghĩ
chung
ở
Hoa
Thịnh
Đốn
là
Hoa
Kỳ
đã
giản
dị
“xác
quyết
một
cách
không
đầy
đủ”
trong
việc
điều
đình
với
ông
Nhu
và
bào
huynh
của
ông
là
Tổng
Thống
Diệm.
Nhưng
sau
cuộc
tập
kích
vào
Tháng
Tám
và
sự
loại
bỏ
thẳng
thừng
của
ông
Nhu
về
sự
chỉ
dẫn
của
người
Mỹ
giúp
giải
quyết
những
sự
căng
thẳng
với
Phật
giáo,
chính
sách
của
Hoa
Thịnh
Đốn
đã
thay
đổi
một
cách
rõ
rệt.
Ông
Diệm
và
Nhu
đã
không
thể
nào
cải
hóa
được,
và
họ
có
thể
phải
bị
thay
thế.
Ngày
24
tháng
8,
một
bức
điện
văn
tối
mật
đã
được
gởi
tới
Đại
Sứ
Mỹ
Henry
Cabot
Lodge
ở
Saigon
hướng
dẫn
ông
đối
đầu
với
ông
Diệm
với
những
yêu
cầu
ông
phải
thực
hiện
ngay
và
không
mấy
thuận
lợi:
Hãy
cho
các
người
theo
Phật
giáo
điều
họ
muốn,
và
loại
bỏ
ông
Nhu.
Nếu
ông
Diệm
không
đồng
ý
hay
thực
hiện
ngay,
“Chúng
ta
phải
đối
diện
với
khả
năng
rằng
chính
ông
Diệm
cũng
có
thể
không
được
duy
trì.”
Lodge
đã
được
bật
đèn
xanh
để
tìm
kiếm
những
người
lãnh
đạo
thay
thế.
Mặc
dù
những
nhà
lãnh
đạo
ở
Hoa
Thịnh
Đốn
không
thể
làm
chủ
được
những
chi
tiết
tinh
quái
nhắm
đến
một
sự
thay
đổi
chế
độ,
bức
điện
xác
nhận
với
Lodge
rằng
“chúng
tôi
sẽ
ủng
hộ
ông
hành
động
để
làm
cho
những
mục
tiêu
của
chúng
ta
được
thành
công.”
Dĩ
nhiên,
vị
đại
sứ
của
Hoa
Kỳ
chắc
chắn
không
thể
đòi
hỏi
chế
độ
phải
thay
đổi.
Đó
là
công
việc
của
Fred
Flott.
Là
một
sĩ
quan
của
Sở
Ngoại
Vụ
Mỹ
đến
từ
Trung
Đông,
Flott
hiểu
rằng
nhiệm
vụ
của
ông
là
phải
làm
cái
công
việc
bẩn
thỉu
mà
một
vị
đại
sứ
không
thể
tự
mình
làm
–
như
tiếp
xúc
với
những
người
đối
lập
của
chế
độ
Diệm
và
rót
sự
yểm
trợ
để
lật
đổ
chính
quyền
của
một
quốc
gia
bạn.
Anh
em
họ
Ngô
có
thể
không
biết
toàn
bộ
những
gì
đang
diễn
ra
bên
trong
tòa
đại
sứ
Mỹ ở
Saigon,
nhưng
họ
có
một
ý
tưởng
khá
hay.
Một
số
người
trung
thành
với
nhà
Ngô
đã
gắn
những
dụng
cụ
nghe
lén
trong
những
văn
phòng
tòa
đại
sứ
mà
không
bị
phát
giác
mãi
đến
sau
khi
nhà
Ngô
bị
lật
đổ.
Nhưng
ngay
cả
không
có
những
kỹ
thuật
gián
điệp,
có
thể
ông
Diệm
và
Nhu
đã
thấy
có
sự
chuyển
động
rõ
ràng.
Ngày
2
tháng
9
năm
1963,
Tổng
Thống
John
F.
Kennedy
đã
nói
trong
cuộc
phỏng
vấn
của
CBS
National
News
với
Walter
Cronkite
rằng,
“chính
quyền
của
anh
em
ông
Diệm
đã
xa
rời
dân
chúng
miền
Nam
Việt
Nam.
Việc
mà
chúng
ta
có
thể
làm
bây
giờ
là
phải
nói
rõ
rằng
đó
không
phải
là
cách
để
chiến
thắng.”
Kennedy
nói
tiếp,
ông
kêu
gọi
cần
có
“những
sự
thay
đổi
về
chính
sách
và
nhân
sự,”
một
phát
biểu
đã
được
diễn
dịch
như
là
một
sự
đe
dọa
đòi
ông
Diệm
loại
bỏ
ông
Nhu.
Anh
em
họ
đã
không
thể
phá
vỡ
được
sự
nguy
hại
của
họ
với
người
Mỹ
một
cách
hoàn
toàn,
nên
họ
dường
như
đã
trút
cái
đó
lên
dân
chúng
miền
Nam.
Thiết
quân
luật
đã
được
gỡ
bỏ,
nhưng
hàng
ngày
cảnh
sát
của
ông
Nhu
vẫn
bắt
giữ
hàng
chục
những
người
“bất
đồng
chính
kiến”.
Dân
chúng
phân
phát
những
truyền
đơn
chống
chính
phủ
hoặc
viết
lên
tường
những
khẩu
hiệu
chống
nhà
Ngô
đã
bị
bắt
giam;
ngay
cả
các
học
sinh
cũng
bị
giam
giữ
trong
những
phòng
tạm
giam.
Anh
em
(họ
Ngô)
ở
Saigon
có
thể
đã
không
biết
rằng
ở
Hoa
Thịnh
Đốn
người
ta
đang
hào
hứng
với
một
cuộc
đảo
chánh
đang
được
chuẩn
bị.
Chính
Tòa
Bạch
Ốc
đang
ngập
đầy
những
sự
cố
vấn
về
một
cuộc
chiến.
Giám
Đốc
CIA
John
A.
McCone
không
ngừng
chỉ
trích
cái
ý
kiến
đảo
chánh.
Trong
một
cuộc
họp
với
Nhóm
Đặc
Biệt
chuyên
trách
về
Việt
Nam,
McCone
đã
nói
rằng
thay
thế
Diệm
và
Nhu
bằng
những
người
chưa
biết
là
ai
là
“qúa
nguy
hiểm”
và
hầu
như
có
thể
mang
đến
“sự
tai
hại
tuyệt
đối”
cho
Hoa
Kỳ.
Ông
cũng
đã
nói
riêng
với
Tổng
Thống
Kennedy
rằng
cuộc
đảo
chánh
này
“có
thể
dẫn
đến
những
cuộc
đảo
chánh
khác
theo
sau.”
Trái
lại,
Bộ
Ngoại
Giao
và
Quốc
Phòng
lại
ủng
hộ
việc
đảo
chánh.
Hoa
Kỳ
đã
bị
chia
rẽ
nhưng
đã
sẵn
sàng
đi
đến
kết
luận
không
thể
quay
lại
được
nữa.
Đại
sứ
Lodge
đã
tin
chắc
rằng:
“Chúng
ta
đang
thực
hành
cái
việc
mà
chúng
ta
không
thể
quay
lui
lại
được.”
Tổng
Thống
Kennedy
không
biết
xử
trí
ra
sao.
Ông
gởi
một
phái
đoàn
đi
công
tác
chín
ngày
để
tìm
hiểu
sự
thật,
cầm
đầu
bởi
bộ
trưởng
quốc
phòng,
Robert
McNamara,
và
chủ
tịch
Tham
Mưu
Hỗn
Hợp,
Tướng
Maxwell
Taylor,
vào
tháng
Mười
1963.
Chuyến
đi
được
ngụy
thức
như
là
để
kiểm
tra
diễn
tiến
của
chiến
tranh
với
Việt
Cộng,
và
để
giữ
đúng
nghi
lễ
các
ông
này
đã
có
cuộc
gặp
gỡ
với
Tổng
Thống
Diệm
ở
trong
dinh
trong
hơn
hai
giờ.
Tuy
không
có
trong
chương
trình
chính
thức,
họ
đã
có
một
buổi
đánh
quần
vợt
với
Trung
Tướng
Dương
Văn
Minh.
Tướng
Minh
còn
được
biết
dưới
tên
Big
Minh
vì
hai
lý
do:
để
phân
biệt
ông
với
một
ông
tướng
khác
có
cùng
tên
và
bởi
vì
cái
vóc
dáng
qúa
khổ
của
ông.
Cao
gần
6
feet
(1m80)
và
nặng
200
cân
Anh
(khoảng
90
kg),
Minh
cao
hơn
hẳn
những
đồng
đội
của
ông
và
thường
phải
cúi
nhìn
xuống
anh
em
nhà
Ngô,
cấp
chỉ
huy
của
ông.
Là
một
sĩ
quan
tốt
nghiệp
Trường
Quân
Sự
(École
Militaire)
ở
Paris
và
là
một
cựu
binh
trong
Chiến
Tranh
Đông
Dương
lần
thứ
nhất
từng
chiến
đấu
bên
cạnh
người
Pháp
chống
lại
Việt
Minh,
ông
đã
ủng
hộ
ông
Diệm
và
chiến
đấu
chống
lại
những
kẻ
nổi
loạn
trong
những
năm
đầu
của
tổng
thống
Diệm.
Nay
Minh
đang
âm
mưu
chống
lại
Diệm
và
Nhu.
Mặc
dù
khổ
người
to
lớn
kềnh
càng,
Minh
chơi
quần
vợt
khá
giỏi.
Các
giới
chức
Mỹ,
McNamara
và
Taylor,
mặc
dù
phải
chịu
đựng
cái
nóng
gay
gắt
của
Saigon,
nhưng
họ
vẫn
ráng
đổ
mồ
hôi
cho
một
trận
đánh
đôi
trên
sân
cỏ
của
Cercle
Sportif.
Sau
đó
cả
nhóm
nghỉ
chơi
đi
vào
một
căn
phòng
dát
gỗ
trong
câu
lạc
bộ
để
chuyện
vãn
“về
cuộc
chơi”.
Được
nghe
nói
về
trận
đấu
(quần
vợt)
và
cuộc
trò
chuyện
riêng
tư
của
họ,
Nhu
và
Diệm
chỉ
có
thể
kết
luận
rằng
họ
đang
lập
mưu
lập
kế.
Thực
ra,
họ
không
có
như
vậy.
Minh
rất
lo
sợ
về
việc
lộ
ra
cái
ngày
đó.
Nhưng
Diệm
và
Nhu
biết
rất
rõ
mối
liên
hệ
của
ông
với
những
kẻ
âm
mưu
và
Toà
Đại
Sứ
Mỹ
và
CIA.
Trước
ngày
cuối
cùng
của
Tháng
Mười,
Diệm
và
Nhu
đưa
ra
chiến
thuật
cuối
của
họ
để
cố
gắng
giữ
cho
chế
độ
tồn
tại.
Đó
là
chỉ
dấu
của
Nhu,
người
chủ
mưu
rất
kín
đáo:
Ông
và
Diệm
sẽ
làm
một
cuộc
đảo
chánh
gỉa.
Việc
này
có
thể
tai
hại,
nhưng
đó
là
hy
vọng
duy
nhất
của
họ.
Một
cuộc
đảo
chánh
gỉa
có
thể
sẽ
làm
cho
người
Mỹ
lo
sợ
để
trở
lại
tái
tục
sự
ủng
hộ
cho
chế
độ
Diệm.
Các
lãnh
tụ
của
cuộc
đảo
chánh
gỉa
được
lựa
chọn
một
cách
cẩn
thận
gỉa
vờ
như
“những
người
muốn
trung
lập”,
phỏng
theo
cuộc
đảo
chánh
trung
lập
đầy
bất
ngờ
vào
năm
1960
ở
Lào
đã
làm
tổn
hại
nghiêm
trọng
những
lợi
ích
của
Hoa
Kỳ ở
Đông
Nam
Á.
Đối
với
một
quan
sát
viên
bình
thường,
ngày
31
tháng
10,
1963,
có
vẻ
giống
như
một
ngày
nào
khác
ở
Saigon.
Buổi
sáng
hôm
đó,
Tổng
Thống
Diệm
nói
chuyện
một
cách
thoải
mái
trong
văn
phòng
của
ông
với
Đại
Sứ
Lodge
và
vị
Tư
Lệnh
Thái
Bình
Dương
của
Hoa
Kỳ,
Đô
Đốc
Harry
Felt.
Felt
đã
ghé
qua
Saigon
như
là
một
cuộc
thanh
sát
thường
lệ
về
sự
trợ
giúp
quân
sự
cho
Nam
Việt
Nam,
nhưng
thực
ra
các
tướng
lãnh
Nam
VN
đang
âm
mưu
chống
ông
Diệm
đã
dàn
cảnh
sự
có
mặt
của
ông,
đặc
biệt
là
thời
gian
viếng
thăm
của
Felt
sẽ
giữ
ông
Diệm
ở
trong
dinh
suốt
buổi
sáng.
Vị
tổng
thống
Nam
Việt
Nam
đã
lưu
ý
các
vị
khách
rằng
họ
có
thể
nghe
đồn
về
một
cuộc
đảo
chánh
nhưng
không
nên
bận
tâm
đến
chúng.
Vào
buổi
trưa,
các
tấm
mành
che
được
hạ
thấp
xuống
phía
trước
các
gian
hàng.
Các
xe
mô
tô,
xe
đạp
và
taxi
đưa
mọi
người
về
nhà,
ra
khỏi
cái
nóng
giữa
trưa
cho
hai
giờ
nghỉ
ăn
trưa.
Dinh
(tổng
thống)
cũng
yên
lặng.
Mấy
người
con
của
Nhu
đã
đi
lên
Đà
Lạt.
Chúng
đang
nghỉ
phép,
và
mấy
cậu
con
trai
đã
xin
cha
chúng
cho
phép
chúng
đi
săn.
Ông
đã
để
chúng
đi
nhưng
đã
cho
15
nhân
viên
phòng
vệ
phủ
tổng
thống
tháp
tùng
theo
chúng
để
bảo
vệ.
Cô
con
gái
nhỏ
tuổi
nhất,
Lệ
Quyên
mới
4
tuổi,
không
đi
săn
được,
nhưng
cô
bé
vẫn
được
cho
đi
lên
núi
với
các
người
anh
và
người
vú
em.
Khoảng
sau
4
giờ
chiều
một
chút,
một
tiếng
nổ
của
đạn
đại
bác
nổ
vang.
Tiếng
súng
dường
như
gần
hàng
rào
phòng
vệ
phủ
tổng
thống.
Tiếng
súng
rất
gần
dinh
rõ
ràng
không
phải
như
trong
kế
hoạch.
Cho
đến
lúc
đó,
các
anh
em
đã
cho
rằng
việc
triển
khai
binh
sĩ
và
xe
tăng
trong
phạm
vi
Saigon
lặng
lẽ
qúa.
Họ
đã
lưu
ý
việc
triển
khai
trong
thành
phố
phải
tránh
xa
văn
phòng
của
họ.
Thay
vì
giương
những
lá
cờ
báo
hiệu,
việc
di
chuyển
binh
sĩ
và
xe
tăng
sẽ
đảm
bảo
cho
Diệm
và
Nhu.
Họ
tin
rằng
đó
là
kế
hoạch
của
họ,
có
ám
danh
“Bravo
II”
đã
khởi
sự
tốt
đẹp.
Chỉ
đến
khi
bộ
chỉ
huy
cảnh
sát
sắp
rơi
vào
tay
các
tướng
lãnh,
một
viên
chức
cảnh
sát
hốt
hoảng
điện
thoại
cho
Nhu
nói
rằng
họ
đang
bị
tấn
công.
Nhu
nói:
“Không
sao,
tôi
biết
tất
cả
rồi.”
Nhu
vẫn
bình
tĩnh
bởi
vì
ông
vẫn
nghĩ
rằng,
theo
kế
hoạch,
lực
lượng
của
ông
sẽ
đập
tan
“đám
phản
loạn”,
rồi
ông
và
Diệm
sẽ
được
chào
đón
như
anh
hùng.
Trong
sự
lầm
lẫn
tiếp
theo
đó,
Nhu
còn
muốn
chỉ
đạo
một
cuộc
tắm
máu.
Lực
Lượng
Đặc
Biệt
và
đám
du
đãng
được
Nhu
thuê
mướn
sẽ
ám
sát
những
tướng
lãnh
và
sĩ
quan
cao
cấp
QLVNCH
không
trung
thành.
Những
người
Mỹ
gây
phiền
nhiễu
cũng
bị
đưa
vào
danh
sách;
ký
gỉa
Stanley
Karnow
được
biết
rằng
Đại
Sứ
Lodge
và
cựu
nhân
viên
CIA
Lucien
Conein
cũng
nằm
trong
danh
sách.
Cuộc
phản
đảo
chánh
hiện
đang
diễn
ra
hầu
như
đang
là
một
sự
đánh
lừa:
Đó
là
một
cuộc
đảo
chánh
trong
đảo
chánh.
Nhưng
ngay
sau
đó
anh
em
họ
đã
biết
rằng
có
cái
gì
đó
đã
xảy
ra
không
ổn.
Họ
tụ
tập
quanh
chiếc
máy
truyền
tin
trong
văn
phòng
tổng
thống.
Nó
hoàn
toàn
im
lặng.
Họ
gọi
điện
thoại
cho
các
tỉnh
trưởng
chung
quanh,
các
sĩ
quan
quân
đội.
Họ
gọi
các
tư
lệnh
quân
đoàn
và
cả
các
tư
lệnh
sư
đoàn.
Không
ai
lên
tiếng.
Đến
lúc
đó
Nhu
đã
nhận
ra
điều
gì
đang
thực
sự
xảy
ra,
nhưng
đã
qúa
trễ.
Không
còn
cách
nào
ra
khỏi
thành
phố
và
không
còn
ai
đáng
tin
cậy.
Những
kẻ
phản
bội
đã
bao
vây
dinh,
tạo
thành
một
cái
thòng
lọng
đang
xiết
chặt.
Nhu
nắm
lấy
cái
ống
vố.
“Mang
theo
vũ
khí.”
Ông
gào
lên
cái
mệnh
lệnh,
niềm
hy
vọng
cuối
cùng
của
anh
em
họ,
cho
những
chàng
trai
của
Thanh
Niên
Cộng
Hòa
và
Đoàn
Thanh
Nữ
bán
quân
sự
của
vợ
ông.
Sự
im
lặng
của
họ
đã
là
một
bản
án
tử.
Kế
hoạch
của
ông
Diệm
và
Nhu
đã
bị
đánh
cắp.
Người
mà
họ
tin
tưởng
sẽ
thi
hành
cuộc
đảo
chánh
gỉa,
Tướng
Tôn
Thất
Đính,
đã
theo
họ.
Là
vị
tướng
trẻ
nhất
trong
quân
đội
Nam
Việt
Nam,
Đính
đã
chuyển
sang
đạo
Công
giáo
và
gia
nhập
chính
đảng
của
Nhu
để
lấy
lòng
chế
độ
nhà
Ngô.
Về
điểm
này,
chiến
thuật
của
Đính
đã
có
hiệu
qủa.
Tổng
Thống
Diệm
đã
đối
xừ
với
Đính
như
một
người
con
nuôi.
Nhưng
sự
tự
mãn
của
Đính
đã
khiến
ông
trở
thành
con
mồi
cho
những
kẻ
đối
nghịch
của
ông
Diệm.
Những
người
chủ
mưu
thuyết
phục
Tướng
Đính
rằng
ông
phải
ở
trong
nội
các
của
tổng
thống.
Khi
Diệm
từ
chối
không
giao
chức
vụ
cho
Đính,
sự
kiêu
hãnh
của
Đính
đã
bị
thương
tổn
là
dịp
chín
muồi
để
dụ
ông.
3-
Los
Angeles
đi
sau
Saigon
15
giờ,
đệ
nhất
phu
nhân
của
Việt
Nam
Cộng
Hòa
đang
hồi
phục
trong
một
căn
phòng
ở
khách
sạn
Beverly
Wilshire.
Bà
vừa
cắt
bỏ
cái
mụn
mỡ
(cyst)
trên
mắt
bà
ít
giờ
trước
đó.
Bà
Nhu
và
Lệ
Thủy
đã
được
đánh
thức
dậy
giữa
đêm
bởi
một
cú
điện
thoại
hốt
hoảng
từ
phòng
tùy
viên
của
Tòa
Đại
Sứ
Việt
Nam.
Trong
sự
sợ
hãi,
người
này
mô
tả
cuộc
khủng
hoảng
đang
xảy
ra ở
Saigon.
Ông
ta
nói
đường
phố
đã
bị
ngăn
chặn
các
ngả
dẫn
đến
phi
trường.
Binh
sĩ
thủy
quân
lục
chiến
của
phe
nổi
dậy
mang
khăn
đỏ
đã
tràn
vào
trung
tâm
thành
phố
trên
những
chiếc
xe
cam
nhông.
Bà
Nhu
lắng
nghe
một
cách
tuyệt
vọng
những
chi
tiết
về
cuộc
khủng
hoảng
đang
ở
cách
xa
hàng
ngàn
dặm.
Bà
đã
viết
đi
viết
lại
nhiều
lần
trong
nhật
ký
của
bà
là
“Nếu
tôi
có
mặt
ở
đó…”
Bà
đã
tự
nhủ
rằng,
đáng
lẽ
bà
đã
ngăn
chặn
không
để
cho
chế
độ
sụp
đổ,
như
bà
đã
làm
được
những
năm
1955,
1960
và
1962.
Bà
tin
rằng
lần
này
vì
sự
vắng
mặt
của
bà
đã
làm
suy
yếu
trầm
trọng
chế
độ
nhà
Ngô.
Cái
tệ
hại
nhất
là
bà
đã
không
thể
bảo
vệ
các
con
của
bà.
Cậu
Trác
15
tuổi,
Quỳnh
11
và
bé
Lệ
Quyên
chỉ
mới
4.
Sau
này
chúng
đã
kể
lại
cho
người
mẹ
câu
chuyện
thật
thương
tâm.
Khi
cuộc
đảo
chánh
bắt
đầu,
chúng
vẫn
còn
ở
trên
Đà
Lạt.
Ở
trên
đó,
chung
quanh
là
những
quân
nhân,
chúng
chẳng
biết
tin
ai.
Các
đứa
trẻ
chạy
trốn
vào
rừng
phía
sau
nhà
và
đã
trải
qua
một
đêm
trong
mưa
lạnh.
Chúng
đi
bộ
cả
ngày
hôm
sau
tới
một
làng
trên
núi
xin
một
ít
cơm
với
chút
thịt
xay.
Rồi
chúng
chờ
đợi.
Anh
em
họ
Ngô
chạy
vào
Chợ
Lớn,
khu
vực
người
Hoa
ở
Saigon.
Một
số
người
nói
họ
sử
dụng
một
cái
đường
hầm
dưới
‘basement’
ở
trong
dinh
để
thoát
trốn
đi.
Một
số
khác
lại
nói,
một
chiếc
xe
Citroen
màu
đen
đã
ngừng
lại
trước
cổng
dinh,
và
cả
hai
anh
em,
đều
mặc
bộ
veston
xám
đậm,
đã
bước
ra
và
leo
lên.
Dù
bằng
cách
nào,
họ
cũng
đã
đào
tẩu.
Phải
mất
hàng
giờ
sau
lực
lượng
đảo
chánh
mới
nhận
ra
họ
đang
tấn
công
vào
một
cái
dinh
trống
không.
Lúc
đó
anh
em
ông
Diệm
đang
trốn
trong
nhà
một
thương
gia
(người
Hoa)
tên
là
Mã
Tuyên.
Đến
trước
bình
minh
ngày
1
tháng
11,
1963,
cuộc
bao
vây
cuối
cùng
vào
dinh
đã
bắt
đầu.
Biệt
động
quân
của
QLVNCH
di
chuyển
theo
đội
hình
theo
sau
một
đoàn
xe
tăng.
Họ
chĩa
nòng
súng
hướng
về
phía
dinh
và
bắt
đầu
khai
hỏa.
Họ
đã
không
tốn
nhiều
thời
gian
sau
khi
cuộc
tấn
công
trực
diện
chọc
thủng
một
lỗ
tường.
Một
lá
cờ
trắng
sau
cùng
đã
xuất
hiện
trên
tầng
lầu
thứ
nhất
ở
góc
phía
tây
nam
của
dinh,
ra
dấu
cho
những
người
lính
khác
và
những
thường
dân
biết
rằng
mọi
sự
đã
xong.
Đó
cũng
là
lúc
dinh
bị
mọi
người
vào
hôi
của.
Một
đoàn
người
tràn
vào
sân
và
đi
lên
lầu.
Những
tấm
màn
cửa
bằng
lụa
treo
bị
rách
tơi
tả,
và
những
tấm
gương,
đèn,
và
vật
trang
trí
trong
dinh
có
từ
thời
Pháp
thuộc
đã
nằm
vỡ
vụn
trên
sàn
nhà.
Các
anh
biệt
động
quân,
các
binh
lính
và
phóng
viên
đã
phải
bước
qua
những
đống
đổ
nát.
Họ
thấy
những
chai
rượu
whiskey
của
Nhu
và,
ở
dưới
bàn
viết
của
ông
một
cuốn
sách
mà
ông
còn
đang
đọc
dang
dở:
Bắn
cho
Chết
(Shoot
to
Kill)
của
Richard
Miers,
một
cuốn
hồi
ký
về
sự
chiến
đấu
chống
cộng
sản
thành
công
ở Mã
Lai.
Và
trong
khi
người
ta
khám
phá
ra
ông
Diệm
thích
đọc
những
truyện
phiêu
lưu
về
Miền
Tây
Nước
Mỹ,
các
chàng
trai
đầu
tiên
đã
háo
hức
dừng
lại
ở
những
chiếc
áo
lụa
của
bà
Nhu
nhìn
thấy
cuốn
sách
có
bìa
màu
nâu
trong
ngăn
kéo
của
bà.
Cuốn
nhật
ký
của
bà
cuối
cùng
đã
được
tìm
thấy,
được
cất
kín
trong
nhiều
thập
niên
như
một
món
đồ
trang
sức
và
kỷ
niệm.
Anh
em
(ông
Diệm)
biết
rằng
thế
là
đã
hết,
nên
họ
đã
không
cố
gắng
trốn
lâu
hơn
nữa.
Họ
di
chuyển
từ
nhà
của
Mã
Tuyên
tới
một
địa
điểm
khác
ở
Chợ
Lớn,
ngôi
nhà
thờ
có
tường
màu
vàng
và
trắng
St.
Francis
Xavier.
Ông
Diệm
gọi
điện
thoại
cho
bộ
chỉ
huy
quân
đội
và
yêu
cầu
được
tiếp
xúc
với
các
tướng
lãnh
để
sắp
đặt
sự
đầu
hàng
của
ông.
Binh
sĩ
đã
được
gởi
đến
ngay
sau
đó.
Các
sĩ
quan
đi
đến
phía
trước
nhà
thờ
và
chào
người
đã
từng
là
tổng
thống
của
họ
trong
chín
năm.
Rồi
họ
dẫn
ông
và
người
em
ra
và
xô
họ
vào
phía
sau
của
một
chiếc
xe
tải
nhỏ
có
che
bạt
ở
hai
bên.
Sau
đó,
không
ai
biết
khi
nào,
cả
hai
anh
em
được
chuyển
qua
một
chiếc
xe
bọc
thép.
Họ
đã
không
còn
sống
để
ra
khỏi
chiếc
xe
đó.
Bà
Nhu
đã
chết
trân
trong
sự
lộng
lẫy
im
ắng
của
Beverly
Wilshire,
nhưng
vẫn
cố
công
tìm
cách
để
đem
các
con
bà
ra
khỏi
Nam
Việt
Nam.
Bà
gọi
cho
Marguerite
Higgins,
một
ký
gỉa
mà
bà
đã
gặp
ở
Saigon
và
đã
trở
thành
một
người
bạn
của
bà.
Bà
Nhu
thổn
thức
hỏi:
“Bạn
có
thực
sự
tin
rằng
họ
(Diệm
và
Nhu)
đã
chết
không?
Họ
có
giết
các
con
tôi
nữa
không?”
Higgins
cho
biết
sẽ
giúp
bà
bằng
cách
gọi
cho
những
người
quen
biết
của
bà ở
Bộ
Ngoại
Giao
ở
Hoa
Thịnh
Đốn.
Bà
Nhu
thỉnh
cầu:
“Làm
ơn
nhanh
lên.
Nhanh
lên!”
Higgins
gọi
cho
Roger
Hilsman,
cố
vấn
thân
cận
của
Tổng
Thống
Kennedy
và
là
phụ
tá
ngoại
trưởng
đặc
trách
về
Viễn
Đông
sự
vụ,
vào
lúc
2
giờ
sáng.
Bà
chúc
mừng
ông:
“Chúc
mừng,
Roger.
Ông
cảm
thấy
thế
nào
khi
bàn
tay
ông
dính
máu.”
“Ồ,
hãy
bình
tĩnh
nào”,
Hilsman
trả
lời,
“Cách
mạng
còn
sơ
khai.
Mọi
người
đều
bị
tổn
thương.”
Tuy
nhiên
tiếng
nói
của
Higgins
trên
điện
thoại
vào
lúc
nửa
đêm
yêu
cầu
về
những
đứa
con
của
bà
Nhu
đã
là
một
sự
lưu
ý
đáng
kinh
ngạc
về
quyền
lực
của
báo
chí.
Phản
ứng
đầu
tiên
của
Hilsman
đã
thay
đổi
một
cách
mau
lẹ
khi
ông
nhận
ra
rằng
Hoa
Kỳ
không
thể
đứng
bên
lề
và
để
chuyện
gì
đó
xấu
xa
xảy
ra
cho
mấy
đứa
trẻ,
không
cần
biết
cha
mẹ
chúng
là
ai.
Hilsman
đã
cam
kết
với
bà
và
hứa
sẽ
đưa
chúng
đến
một
nơi
an
toàn.
Chỉ
trong
vòng
ba
ngày,
mấy
đứa
trẻ
đã
thoát
khỏi
sự
nguy
hại
đi
tới
Rome.
Đối
với
những
người
Mỹ,
mọi
sự
đã
có
một
khởi
đầu
xấu.
Tin
tức
chính
thức
nói
rằng,
anh
em
ông
Diệm
tự
sát,
đã
bị
loại
bỏ
khi
có
hai
tấm
ảnh
tiết
lộ
cho
thấy
ông
Diệm
bị
bắn
xuyên
qua
đầu
và
thi
thể
ông
Nhu
có
đầy
dấu
lưỡi
lê
trên
20
dấu.
Một
bức
ảnh
cho
thấy
cả
hai
thân
xác
nằm
trên
vũng
máu
trong
chiếc
xe
APC,
tay
họ
bị
trói
ra
đằng
sau
lưng.
Một
tấm
ảnh
khác
cho
thấy
thi
thể
đầy
máu
của
ông
Diệm
trên
một
tấm
băng
ca
với
một
binh
sĩ
đang
mỉm
cười
nhìn
vào
máy
ảnh.
Cuốn
Hồ
Sơ
Ngũ
Giác
Đài
(Pentagon
Papers),
nói
về
lịch
sử
chính
phủ
Hoa
Kỳ
dính
líu
về
quân
sự
và
chính
trị
ở
Việt
Nam,
đã
kết
luận
về
cuộc
đảo
chánh
năm
1963
rằng,
“Chín
năm
cầm
quyền
của
Diệm
đã
đi
đến
một
kết
cuộc
đẫm
máu,
sự
đồng
lõa
của
chúng
ta
trong
sự
lật
đổ
ông
đã
làm
tăng
thêm
trách
nhiệm
của
chúng
ta
và
sự
dính
líu
của
chúng
ta
trong
một
nước
Việt
Nam
đã
không
có
người
lãnh
đạo
cần
thiết.”
Các
tướng
lãnh
đứng
sau
cuộc
đảo
chánh
bắt
đầu
sắp
xếp
một
chính
phủ
dân
sự.
Tướng
Big
Minh
trở
thành
tổng
thống,
và
sau
khi
trì
hoãn
một
khoảng
thời
gian
thích
hợp,
chính
phủ
Hoa
Kỳ
đã
công
nhận
chính
phủ
mới
ở
Nam
Việt
Nam
vào
ngày
8
tháng
11.
4-
Toàn
bộ
các
cuốn
sách
đã
nghiên
cứu
mức
độ
Hoa
Kỳ
chịu
trách
nhiệm
trực
tiếp
về
cuộc
đảo
chánh
và,
xa
hơn,
về
cái
chết
anh
em
họ
Ngô.
Ít
người
đã
nói
một
cách
ngắn
gọn
hơn
là
Tổng
Thống
Lyndon
Johnson,
khi
ông
càu
nhàu
trong
một
cuộc
điện
đàm
với
thượng
nghị
sĩ
Eugene
McCathy
ngày
1
tháng
2,
1966:
“Chúng
ta
đã
giết
ông
ấy (Diệm).
Tất
cả
chúng
ta
đã
cùng
làm
và
sử
dụng
một
đám
côn
đồ
khốn
kiếp
(a
goddamn
bunch
of
thugs)
và
chúng
ta
đã
đến
và
ám
sát
ông
ấy.
Bây
giờ,
chúng
ta
thực
sự
không
có
sự
ổn
định
chính
trị
kể
từ
đó.”
Cựu
Giám
Đốc
CIA
William
Colby
đã
nói:
“Việc
lật
đổ
ông
Diệm
là
một
lỗi
lầm
tệ
hại
nhất
mà
chúng
ta
đã
làm.”
Nếu
Hoa
Kỳ
duy
trì
sự
ủng
hộ
dành
cho
Diệm,
và
nếu
ông
ấy
không
bị
giết,
Colby
tin
tưởng,
người
Mỹ
“có
thể
đã
tránh
được
hầu
hết
phần
còn
lại
của
cuộc
chiến,
một
địa
ngục
đáng
ghi
nhớ.”
Qua
tất
cả
mọi
chuyện,
Tổng
Thống
Kennedy
bị
phiền
nhiễu
một
cách
sâu
xa
bởi
cái
chết
của
anh
em
họ
Ngô.
Trong
phòng
nội
các
của
Tòa
Bạch
Ốc,
Tướng
Taylor
nhớ
lại
rằng
“Kennedy
vội
vã
ra
khỏi
phòng
với
một
cái
nhìn
thảng
thốt
và
kinh
hoàng
trên
nét
mặt
mà
tôi
chưa
từng
thấy
bao
giờ.”
Nhân
viên
CIA
Colby
đã
xác
nhận
cái
phản
ứng
đó,
nói
rằng
tổng
thống
đã
“tái
mặt
bước
ra
khỏi
phòng
để
tự
trấn
tĩnh.”
Nhưng
những
người
khác
thì
tự
hỏi
làm
sao
tổng
thống
lại
bị
kinh
ngạc
đến
thế.
Red
Faye,
một
người
bạn
của
Kennedy
nhớ
lại,
tổng
thống
không
chỉ
tự
trách
mình
về
cái
chết
của
ông
Diệm
và
ông
Nhu.
Ông
còn
đổ
tội
cho
Bà
Nhu.
“Con
mụ
chó
chết
đó (That
goddamn
bitch).
Bà
ta
phải
chịu
trách
nhiệm
về
cái
chết
của
con
người
tử
tế
đó (Diệm).
Anh
biết
đó,
thật
là
hoàn
toàn
không
cần
thiết
để
con
người
tử
tế
đó
chết
bởi
vì
mụ
chó
chết
đó
cứ
chĩa
mũi
vào
và
khuấy
động
toàn
bộ
tình
hình
ở đó.”
Vào
một
ngày
sau
cuộc
đảo
chánh,
Tổng
Thống
Kennedy
đã
đọc
một
bản
ghi
nhớ
cho
hồ
sơ
của
ông.
Ông
gọi
cái
chết
của
Diệm
và
Nhu
là
“đặc
biệt
đáng
ghét”
và
chịu
trách
nhiệm
về
việc
đã
“thúc
đẩy
Lodge
làm
theo
một
đề
nghị
mà
ông
có
vẻ
đã
ngả
theo.”
Những
ý
tưởng
của
tổng
thống
về
việc
ám
sát
ở
Saigon
sau
đó
đã
bị
gián
đoạn
trong
chốc
lát
bởi
cậu
bé
John
Jr.
3
tuổi
và
cô
bé
Caroline
6
tuổi
đã
chạy
vào
văn
phòng
ông
la
hét
đùa
giỡn
với
ông.
Đằng
sau
những
cuốn
băng
thu
âm
đã
nhàu
nát,
các
bạn
có
thể
nghe
thấy
những
tiếng
nói
bé
nhỏ
“Hello”
thu
vào
trong
máy
thâu
âm
của
Kennedy.
Một
lát
sau
đó
người
cha
của
chúng
hỏi
các
đứa
trẻ
về
sự
đổi
thay
mùa.
Tại
sao
các
lá
cây
màu
xanh?
Làm
sao
lại
có
tuyết
trên
mặt
đất?
Sự
đối
thoại
tất
cả
còn
xúc
động
hơn
khi
các
bạn
nhớ
lại
rằng
những
đứa
trẻ
này
sẽ
chẳng
bao
giờ
nhìn
thấy
sự
thay
đổi
mùa
cùng
với
cha
chúng
một
lần
nào
nữa.
Kennedy
đã
bị
ám
sát
chỉ
ba
tuần
sau.
(Dịch
theo
“Assaasination,
Coup
and
Madame
Nhu”,
Vietnam
Magazine,
Dec.
2013)