Đằng Giang tự cổ huyết do hồng
Xin mượn vế đối của sứ
thần Giang Văn Minh “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” (Sông Đằng từ
xưa máu c̣n đỏ) khi đối lại vế ra của vua Sùng Trinh nhà Minh “Đồng
trụ chí kim đài dĩ lục” (Cột đồng đến nay rêu đă xanh) để nhắc đến 3
lần chiến thắng Bạch Đằng.
1. Chiến thắng Bạch
Đằng năm 938
Năm 937, một nha tướng
của Dương Đ́nh Nghệ là Kiều Công Tiễn đă giết chủ để giành lấy quyền
Tiết độ sứ. Ngô Quyền – một thuộc tướng và cũng là con rể của Dương
Đ́nh Nghệ lập tức tập hợp lực lượng từ châu Ái tiến ra Giao Châu
trừng trị kẻ phản chủ. Kiều Công Tiễn quá khiếp sợ, đă sai người
sang Nam Hán cầu cứu.
Những chiếc cọc gắn
liền với những chiến công trên sông Bạch Đằng
Sau khi diệt Kiều Công
Tiễn, Ngô Quyền gấp rút cùng quân sĩ và nhân dân chuẩn bị cuộc kháng
chiến. Ông chủ trương không cho quân Nam Hán vào sâu trong đất liền.
Biết quân Nam Hán “có lợi thế ở thuyền”, lại đoán trúng được hướng
hành quân của địch, ông đă cho quân đóng cọc gỗ với đầu nhọn và bịt
sắt ở cửa biển khu vực sông Bạch Đằng. Khi thủy triều lên, quân ta
ra khiêu chiến rồi giả thua, nhử địch tiến sâu vào băi cọc. Khi thủy
triều bắt đầu xuống, quân ta từ ba phía đánh ập vào đội thuyền giặc.
Bị đánh bất ngờ, quân địch quay thuyền đua nhau tháo chạy ra biển
th́ gặp nước sông rút nhanh, chảy xiết nên thuyền giặc va vào băi
cọc, tan vỡ hết. Hàng ngàn quân giặc rơi xuống sông ch́m nghỉm hoặc
bị sóng cuốn trôi. Chủ tướng là Hoằng Thao cũng chết tại trận.
Qua trận đánh, ta có
thể h́nh dung Ngô Quyền đă có một đạo quân thủy rất mạnh. Tham gia
trong trận đánh đó, ngoài quân bộ phục kích hai bên bờ sông, c̣n có
mấy trăm chiếc thuyền chiến Mông đồng mỗi chiếc có 32 tay chèo và 25
lính chiến đấu. V́ chiến thuật đánh địch bằng băi cọc đ̣i hỏi sự ăn
khớp rất cao về mặt thời gian, tốc độ và hướng hành quân của đối
phương. Băi cọc trong thực tế chỉ phát huy tác dụng trong một khoảng
thời gian rất ngắn, tức là khi mặt nước rút xuống chỉ c̣n cách mũi
hàng cọc một khoảng bằng độ sâu mớn nước của thuyền, cho đến khi băi
cọc bị nhô lộ ra khỏi mặt nước.
Trận Bạch Đằng năm 938
của Ngô Quyền không những đặt nền móng cho nghệ thuật quân sự Đại
Việt, mà c̣n trở thành một chiến thuật của thủy chiến trong binh thư
của chính những kẻ thảm bại v́ nó. Trong thiên Thủy chiến (quyển 13)
cuốn “Vũ bị chế thắng chí” thời nhà Minh, khi dạy về nghệ thuật dùng
cọc để chống thuyền địch, sách ấy đă nhắc đến chiến công của họ Ngô
ở Giao Châu. Như vậy, kiểu mẫu Bạch Đằng không c̣n trong phạm vi Đại
Việt nữa, mà đă trở thành một điển h́nh của nghệ thuật thủy chiến ở
phương Đông đương thời.
2. Chiến thắng Bạch
Đằng năm 981
Cuối năm 979, hai cha
con Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn bị ám sát. Được tin đó, nhà Tống vội
đem quân sang xâm lược nước ta. Ngày 24-1-981, cánh quân thủy của
địch ồ ạt tiến vào cửa Bạch Đằng. Trong trận Bạch Đằng đầu tiên này,
quân Tống đă vượt qua sự ngăn chặn của quân ta. Nhưng sau thất bại ở
pḥng tuyến B́nh Lỗ, trở lại sông Bạch Đằng, đạo thủy binh Hầu Nhân
Bảo rơi vào t́nh thế tiến thoái lưỡng nan là bị chia cắt, không gặp
được quân chủ lực của Đại Cồ Việt.
Dấu tích băi cọc Bạch
Đằng tại huyện Yên Hưng (Quảng Ninh)
Trong khi đó, Lê Hoàn
bí mật tăng cường lực lượng, chọn 1 khúc sông hiểm yếu trên sông
Bạch Đằng rồi bố trí quân mai phục chờ sẵn. Ngày 28-4-981, quân ta
đi thuyền ra khiêu chiến rồi vờ thua chạy. Quân Tống thừa thắng đuổi
theo. Khi chiến thuyền của địch lọt vào trận địa mai phục, quân ta
từ khắp các trận địa mai phục và từ các nẻo đường đổ về sông Bạch
Đằng vây đánh quân Tống quyết liệt. Tướng giặc Hầu Nhân Bảo bị giết
chết trong đám loạn quân. Lưu Trừng vội vă dẫn đám tàn quân tháo lui
ra biển. Nghe tin Hầu Nhân Bảo bị giết trên sông Bạch Đằng, các
tướng Tống khác hoảng hốt dẫn quân bỏ chạy th́ bị quân ta truy kích
tiêu diệt quá nửa. Những viên tướng chạy thoát về nước đều bị xử tử
hoặc giáng chức. Quân Tống đại bại, trong đó trận Bạch Đằng thứ hai
là trận đánh quyết định tiêu diệt chủ tướng và bộ phận lớn quân Tống.
3. Chiến thắng Bạch
Đằng năm 1288
Vào năm 1287, nhà
Nguyên tiến hành cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ ba, nhưng chỉ chiếm
được kinh thành Thăng Long không một bóng người, và thủy quân Đại
Việt do Trần Khánh Dư chỉ huy đă đánh tan nát đoàn thuyền lương của
Trương Văn Hổ trong trận Vân Đồn. Trước t́nh h́nh bất lợi, quân
Nguyên định tổ chức rút về Trung Quốc theo nhiều hướng khác nhau.
Một trong các hướng đó là sông Bạch Đằng. Trần Quốc Tuấn đă theo kế
của Ngô Quyền, liền cho người cắm cọc nhọn ở ba cửa sông Chanh, sông
Kênh và sông Rút cạnh nhau dẫn thuyền từ Bạch Đằng xuôi ra biển. Khi
Ô Mă Nhi dẫn đoàn thuyền tiến vào sông Bạch Đằng (ngày 9-4-1288),
nhân lúc nước lớn, thủy quân nhà Trần tràn ra giao chiến, rồi giả
thua chạy vào sâu bên trong. Ô Mă Nhi trúng kế khích tướng nên thúc
quân ra nghinh chiến. Khi thuyền quân Nguyên đă vào sâu bên trong
sông Bạch Đằng, tướng Nguyễn Khoái dẫn các quân Thánh Dực ra khiêu
chiến và nhử quân Nguyên tiến sâu vào trận địa cọc. Đợi cho thủy
triều xuống quân Trần quay thuyền lại kết hợp với quân mai phục từ
bốn phía đánh thẳng vào đội h́nh địch. Sông Bạch Đằng nước ṛng (tức
nước lên rất nhanh mà nước rút cũng mạnh) nên khi nước rút thuyền
của quân Nguyên bị cọc gỗ đâm trúng, lật đổ, tan vỡ, quân địch ngă
xuống sông chết đuối hoặc bị giết vô số. Những kẻ bỏ thuyền chạy lên
bờ cũng bỏ mạng v́ gặp bộ binh ta phục sẵn. Rất nhiều thuyền chiến
của quân Nguyên bị cháy rụi. Cánh thủy quân của địch hoàn toàn bị
tiêu diệt. Chiến thắng vinh quang của quân Đại Việt trong trận sông
Bạch Đằng năm 1288 được xem là một trận đánh hủy diệt và thủy chiến
lớn nhất trong lịch sử kháng chiến của dân tộc ta. Khoảng hơn 4 vạn
tướng sĩ Nguyên-Mông đă bị loại ra khỏi ṿng chiến, 400 chiến thuyền
bị bắt hoặc phá hủy. V́ thế sử gia Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử kư
toàn thư đă viết: “nước sông do vậy đỏ ngầu cả”.
Như vậy, trong ṿng
350 năm, quân và dân ta dưới sự chỉ huy của 3 danh tướng Ngô Quyền,
Lê Hoàn và Trần Quốc Tuấn đă 3 lần vùi chôn xác giặc trên sông Bạch
Đằng. Ngô Quyền đón đường tiến vào nước ta của quân Nam Hán, trong
khi Lê Hoàn và Trần Quốc Tuấn chặn đường rút về nước của quân Tống,
quân Nguyên. Trong lịch sử nghệ thuật quân sự dân tộc, chiến thắng
Bạch Đằng vừa khắc họa một truyền thống đánh giặc giữ nước bằng thủy
chiến vừa phát triển một h́nh thức mới của quy luật giành thắng lợi
trong chiến tranh. Đó là sự tất yếu đánh giặc bằng quân thủy, giành
thắng lợi trên chiến trường sông nước. Nhân tố của thắng lợi trên
sông Bạch Đằng trước hết là việc vận dụng quy luật “thiên thời, địa
lợi, nhân ḥa” trong thế trận phục kích thủy chiến. Ông cha ta đă
biết lợi dụng địa thế hiểm trở của sông Bạch Đằng (cửa sông hẹp,
nhiều phụ lưu, lại có ghềnh đá, sự chênh lệch lớn khi nước lên và
nước xuống) kết hợp với những chướng ngại nhân tạo (băi cọc), để
hoàn chỉnh cái thế thiên hiểm. Một nhân tố nữa là tài năng quân sự
kiệt xuất của các thủ lĩnh. Họ đă nắm vững quy luật thủy triều của
con sông này để vạch ra một kế hoạch thật tỉ mỉ, chính xác: Nắm chắc
con đường hành quân của địch; Chuẩn bị trận địa một cách bí mật và
hoàn thành sớm; Dụ địch vào trận địa khi thuỷ triều c̣n cao, băi cọc
chưa bị phát lộ; Tung ra một lượng quân vừa đủ để kiềm chế và nhử
địch tới băi cọc rồi đúng lúc thuỷ triều bắt đầu rút; Dùng một lực
lượng lớn dồn quân địch vào băi cọc đồng thời bố trí phục binh tiêu
diệt địch chạy lên bờ. Nếu nước triều rút sớm hơn so với dự định khi
thuyền địch c̣n ở xa, địch sẽ phát hiện ra băi cọc mà tránh xa cảnh
giác, hoặc nếu quân khiêu chiến quá yếu, quân địch sẽ lấn át rồi
vượt qua băi cọc, khi đó thủy triều mới rút th́ mưu sự sẽ hỏng.
Trong trận phục kích đường thủy này, trận địa cọc được coi như một
đội quân ngầm, có nhiệm vụ chủ yếu là chặn không cho quân địch chạy
khỏi trận địa phục kích, đồng thời là đ̣n quyết định làm rối loạn
nghiêm trọng đội h́nh chiến đấu của chúng khiến chúng phải tụ lại để
đón những đ̣n tiến công của ta. Nếu cộng thêm với đ̣n hỏa công của
quân ta, quân địch sẽ bị rối loạn hoàn toàn. Trong chiến thắng Bạch
Đằng lần ba, giữa lúc thuyền địch bị ùn tắc trước băi cọc, các bè
nứa, thuyền nan chứa đầy chất dễ cháy giấu sẵn hai bên bờ được các
đội dân binh đốt cháy thả xuôi theo ḍng nước, lao nhanh vào trận
địa đốt cháy thuyền địch. Sau này, danh sĩ Nguyễn Mộng Tuân trong
bài “Hậu Bạch Đằng Giang Phú” ví Bạch Đằng như một Xích Bích thời
Tam Quốc: “Thế ta bừng bừng, trận Xích Bích nào sánh kịp/ Cảnh giặc
hoảng loạn, gió Hoài, Ph́ nọ truyền sang!”
Truyền thống Bạch Đằng,
nghệ thuật quân sự Bạch Đằng trong suốt kỷ nguyên Đại Việt là một
trong những yếu tố chi phối mạnh nhất đến sự phát triển nghệ thuật
quân sự Đại Việt nói chung và nghệ thuật thủy chiến nói riêng. Nghệ
thuật Bạch Đằng, phẩm chất và hùng khí của Bạch Đằng luôn là một
trong những tư tưởng chỉ đạo, động viên, cổ vũ các nhà chiến lược,
các tướng lĩnh cầm quân và tới từng người lính, người dân trong mỗi
cuộc chiến tranh lập nên những kỳ công khác trong lịch sử ǵn giữ
nền độc lập dân tộc. Không phải ngẫu nhiên, chỉ hơn bốn chục năm sau
chiến thắng Bạch Đằng lần 1, Lê Hoàn lại chọn Bạch Đằng làm chiến
trường chặn quân thủy Tống. Và, khi quân Nguyên gắng sức nhất để tạo
ra một đội binh thuyền rất mạnh ḥng đối phó thắng lợi với chiến
thuật đánh thủy của ta, quyết thôn tính nước ta th́ một Bạch Đằng
lớn hơn đă diễn lại, không khác là bao Bạch Đằng năm 938. Với Ngô
Quyền năm 938, Bạch Đằng xác lập một truyền thống: truyền thống Bạch
Đằng – truyền thống đánh giặc đường thủy và thắng giặc trên chiến
trường sông nước. Với Bạch Đằng 1288, quân dân nhà Trần đă đưa
truyền thống đó tới đỉnh cao nhất, tới sự hoàn thiện nhất.