Vậy
Chúa dạy ta sử dụng tiền bạc như thế nào?
Hăy san sẻ tiền bạc cho kẻ túng thiếu, bởi
lẽ hễ bạn cứu giúp họ qua cơn ngặt nghèo, ấy
là bạn đă kết thân được với những người bạn
sẵn ḷng giúp bạn rỗi linh hồn. Dĩ nhiên
người ta chẳng thể dùng tiền để mua được
nước thiên đàng, nhưng tiền bạc có thể giúp
ta t́m được bạn hữu nâng đỡ ta khi ta thất
bại. “Những ǵ các ngươi làm cho người anh
em bé mọn nhất, ấy là các ngươi đă làm cho
Ta”. Những kẻ được Ta đoái ḷng nhân từ
thương xót hẳn sẽ cung xưng ra trước ngai
phán xét rằng: “Thưa Chúa, đây chính là
người chúng con đă nói đến. Người này thuở
c̣n sinh thời vẫn ra tay giúp đỡ chúng con
rất nhiều”.
Khi
du lịch tới xứ nào, ta đều phải đổi tiền xứ
ấy để dùng. Cũng vậy, ta phải đổi của cải
đời này thành của cải thiêng liêng ở đời sau
“không hề bị rỉ sét, mối mọt hay bị trộm cắp
đi được”.
Thế
những kẻ chẳng hề ra tay bố thí th́ sao? Họ
có tâm lư là cóp nhặt càng nhiều của cải
càng tốt. Họ quư báu từng xu một. Nhưng câu
trả lời cho họ là mọi người đều được tạo
dựng để hướng tới Đấng Vô Biên là Thiên Chúa.
Thế mà chỉ v́ mù quáng bởi tội lỗi hoặc
thiên kiến, lư trí họ đă thay Thiên Chúa
bằng tiền của, mà họ cho là vô hạn. Họ càng
lúc càng muốn có nhiều hơn, thay v́ muốn
được sống cuộc đời bên Chúa. Người ta có vô
số tóc trên đỉnh đầu, nhưng nhổ đi một sợi
cũng đủ gây đau đớn. Một người dù giàu có ức
triệu mà mất đi một xu, y cũng xót ruột lắm.
Y biết rằng “ḿnh không thể đem theo tiền
tài được” nên y chối nhận có đời sau.
Người
Kitô hữu phải biết dùng tiền bạc để chuẩn bị
cho đời sống ở thiên đàng. Có một phú hộ bảo
người tớ gái hái hoa quả trong vườn đem biếu
hàng xóm, để nhờ vậy mà kết thân với họ. Như
thế, tiền tài (mà tiếng Anh là wealth) đă tỏ
ra xứng hợp với nguyên ủy của nó, là sự an
lạc (weal).
Có
một câu chuyện về một phụ nữ giàu có sau khi
chết bà được thánh Phêrô chỉ cho thấy ngôi
dinh thự nguy nga của người tài xế của bà.
Bà liền bảo “Ôi chao, nhà của y mà đồ sộ thế,
chắc hẳn dinh cơ của con c̣n lộng lẫy ghê
lắm!” Nhưng thánh Phêrô chỉ cho bà một cái
cḥi xơ xác hơn và nói với bà: “Đó là nhà
của bà”. Bà thốt lên: “Nhà như thế làm sao
con ở được?” Thánh Phêrô trả lời: “Thưa bà,
với những vật liệu bà đă gửi lên cho ta, ta
dựng được cái cḥi như thế là khá lắm rồi
đấy!”
Người
ta dâng cúng rất nhiều tiền của, nhưng dùng
tiền của để phục vụ linh hồn lại rất ít ỏi.
Họ thường hiến tặng tiền của để tên tuổi
ḿnh được gắn trên biển vàng bệnh viện, đại
học… Người ít học lại thường đỡ đầu tiền bạc
cho các thư viện để làm ra vẻ ta đây là
người có học hành. Chúa dạy “Đừng để cho tay
trái biết việc tay phải làm”. Như thế ta
biết thêm nguyên tắc thứ hai này: khi cho
tặng, ta phải có ư tốt lành. Nếu nhân danh
Đức Kitô ta cho kẻ khác chỉ một cốc nước lă
th́ cũng được Chúa thưởng cho gấp trăm lần.
Cách
đây nhiều năm, nhân lễ Têrêxa, người ta mở
cửa tu viện ḍng kín cho công chúng vào xem,
nhiều người ṭ ṃ đổ xô vào để xem các nữ tu
hiến ḿnh sống thinh lặng, chiêm niệm và
đánh tội. Một người không hiểu ǵ về cuộc
sống ḍng kín đă gọi một nữ tu trẻ đẹp và
chỉ cho một ṭa nhà lộng lẫy bên kia đồi, và
bảo rằng: “Này chị, nếu như có được ṭa nhà
sang trọng đó, và có được cuộc sống an lạc,
xa hoa, liệu chị có bỏ ḿnh để vào tu ḍng
kín không?” Chị đáp: “Thưa ông, dinh cơ đó
trước kia là của tôi đấy!”
Người
ta đă bố thí rất nhiều một cách vô ích v́ họ
không làm việc đó để phục vụ linh hồn. Thế
gian cho rằng những ǵ cao cả nhất phải được
sử dụng để được những ǵ hèn hạ nhất, ví dụ
như dùng trí tuệ để tạo ra của cải dư dật.
Người con của Chúa lại cho rằng những ǵ
thấp hèn phải được sử dụng để phục vụ cho
những ǵ cao cả, nghĩa là ta phải dùng tiền
bạc để phục vụ Chân Lư, để an ủi kẻ hoạn nạn,
cứu chữa người bệnh hoạn, để cứu vớt các
linh hồn. Để trả lời cho câu nói: “Ngươi
chẳng thể nào đem theo được”, ta có câu:
“Được chứ, miễn là ngươi biết từ bỏ”. Như
thế ngươi sẽ được thưởng công trong cuộc
sống mai hậu.
Thường t́nh từ thuở xa xưa đến nay, người ta
cho rằng chỉ đàn bà mới ngồi lê đôi mách.
Nhưng thực sự, cánh đàn ông cũng mắc phải
chính tật xấu này mà họ gọi là “phê phán”.
Chúa
đă từng phán “Đừng xét đoán tha nhân, để
ngươi khỏi bị xét đoán”. “Xét đoán” ở đây
nghĩa là đánh giá một cách đầy ác ư, bới
lông t́m vết. Chỉ duy có Thiên Chúa mới biết
rơ tâm hồn con người, c̣n người phàm chỉ
thấy được vẻ bề ngoài. Ở nước Anh, các thẩm
phán phải mang tóc giả khi luận xét hầu
chứng tỏ cho thấy là họ không dùng ư riêng
để phán xử. Điều này nói lên một sự thực là
loài người ai cũng nghi ngờ hết. Họ cho rằng
ngay cả các vị thông thái khôn ngoan nhất
cũng không đáng được tin tưởng để phán định
ai vô tội ai có tội.
Mỗi
khi ta xét đoán tha nhân là ta xét đoán
chính bản thân ta. Chúa dạy ta không được
xét đoán để khỏi bị xét đoán. Và nhiều khi
lời phê phán của ta đối với tha nhân chính
là một lời kết án lỗi lầm chính bản thân ta.
Khi người đàn bà gọi một bà khác là kẻ “lang
chạ” hẳn bà đă biết được chuyện “mèo chuột”
rồi. Sự ganh ghét là một thuộc tính của thói
tự ti: ta ganh tỵ kẻ khác bởi v́ ta cảm thấy
không bằng họ, và v́ rằng ta không thể nào
vươn cho bằng họ được nên phải kéo họ xuống
ngang hàng với ta cho được mới thôi. Khi phê
b́nh người khác th́ cũng tương tự như thế.
Chúa
dạy rằng kẻ nào nói xấu kẻ khác th́ mang tội
nặng hơn chính kẻ bị họ nói xấu. “Cớ sao
ngươi thấy được cọng rơm trong mắt anh em,
c̣n cái xà to tướng trong mắt ngươi? Hỡi kẻ
giả h́nh, hăy lấy cái xà khỏi mắt ngươi cái
đă, đoạn ngươi mới thấy đường để nhặt cọng
rơm khỏi mắt anh em ngươi!”
Khi
cho rằng ḿnh có quyền phê phán tha nhân th́
ta đă kiêu ngạo rồi, ta đă bị “cái xà” che
khuất mắt ta. Nói xấu kẻ khác th́ hoặc là ta
đă đưa ḿnh lên cao, hoặc đă hạ thấp kẻ khác
xuống… nhưng thường là cả hai. Bởi chưng kẻ
ưa nói xấu thường thích đổ tội ḿnh phạm lên
đầu kẻ khác. Người nói dối thường xuyên chắc
chắn sẽ nổi giận hơn nhiều khi y phát hiện
ra chính y bị kẻ khác dối gạt. Cũng vậy, kẻ
ưa nói xấu hẳn tức tối ghê gớm khi hay nghe
rằng đến lượt y bị kẻ khác nói xấu sau lưng.
Chúa đă nhắc kẻ nói xấu nên suy nghĩ về việc
lên án kẻ khác phạm tội. “Kẻ nào trong các
ông không có tội, hăy ra tay ném đá trước đi!”
Vậy rơ ràng là chỉ có ai vô tội mới có quyền
kết tội. Nhưng kẻ vô tội bao giờ cũng muốn
gánh lấy tội kẻ khác, coi sa ngă của người
khác là của chính ḿnh. T́nh yêu không chỉ
nh́n nhận tội lỗi mà c̣n dám chết để chuộc
tội nữa.
Theo
bản năng thường cảm thấy rằng nếu kẻ nào lợi
dụng ta th́ chắc chắn y sai quấy. Và rồi ta
sẽ la ó như thể sắp ra tay cắt cổ y vậy. Họ
thường dùng nhiều cách để tự biện minh như
“Ai mà chẳng có ḷng từ bi hỷ xả, nhưng…”
hoặc “Dĩ nhiên, tôi không hề có ư phê phán,
nhưng…” hay “Tôi không hề muốn phê b́nh ai
cả, thế nhưng…” Những câu nói này càng được
gọt dũa sắc sảo hơn nữa… và càng chứng tỏ
rằng kẻ nói ra hoàn toàn có tâm lư đen tối
“Ai yêu mến anh em, người ấy ở trong vùng
ánh sáng. C̣n ai ghét bỏ anh em, kẻ ấy ở
trong tăm tối”.
Thiên
Chúa hứa ban cho kẻ không kết án một phần
thưởng cao quí vô ngần: họ sẽ không bị phán
xét khi đến trước ṭa Chúa. Mà dù cho họ có
bị Thiên Chúa xét xử đi nữa th́ sự phán xét
của Chúa cũng rất nhân từ, hơn loài người
nhiều. Vua Đavid khi đă phạm tội, ông đă
khôn ngoan chọn h́nh phạt do Chúa định đặt
hơn là do loài người ấn định, bởi v́ Thiên
Chúa bao giờ cũng nhân hậu hơn nhiều. Hết
thảy chúng ta, nam cũng như nữ, đều không
khôn ngoan đủ hoặc vô tội đủ để lên tiếng
phê phán nhau. Và quyết định đúng đắn duy
nhất về anh em khi thấy họ làm sai là ta nên
chấp nhận và nói “Chúng ta hăy để cho Chúa
phát xét họ”.
Đức cha Fulton Sheen. (Nguyên tác: Way to
Happiness)