Ngày
nay người ta đưa ra rất nhiều lư thuyết kinh
tế xă hội để t́m cách thay đổi cục diện thế
giới, nhưng đúc kết lại, mọi kế hoạch đều
qui vào một trong hai lập trường này: một là
cải cách định chế; hai là cải cách con người.
Hầu
hết các tác giả viết về những kế hoạch hoàn
thiện hóa con người đều bắt đầu với giả định
này: tất cả những ǵ không tốt đẹp nơi nhân
loại đều có thể qui hết cho định chế, nghĩa
là cho một sự việc. Bởi vậy cứ thay đổi định
chế đi là mọi sự tự khắc tốt đẹp. Một số kế
hoạch đổ tội cho quyền tư hữu là nguyên ủy
của mọi rắc rối nhiễu nhương, thế là họ “cải
biến” nó thành quyền sở hữu tập thể. Một số
khác lại qui lỗi cho hệ thống nghị viện, thế
là “cải biến” thành độc tài. Kẻ khác lại
nguyền rủa chính sách kim bản vị (chế độ
tiền tệ lấy vàng làm bản vị chính, các thứ
tiền khác đều chiếu theo giá tiền vàng mà
định) và yêu cầu “sửa đổi” thành chế độ ngân
bản vị (chế độ tiền tệ lấy tiền bạc làm bản
vị chính).
Nhưng
trong các trường hợp đó, điều người ta muốn
“cách mạng” hoàn toàn nằm ở bên ngoài con
người. Người ta đổ tội cho những vấn đề tài
sản, chính quyền, tài chánh rồi t́m cách
khắc phục chúng. Các nhà cải cách ngày nay
không hề đổ tội cho chính con người về những
băng hoại của thế giới, cũng chẳng thèm sửa
đổi cá nhân con người.
Các
nhà cải cách ấy đă gán cho những định chế
này một tầm quan trọng đặc biệt, cho chúng
là thần dược của thế giới, nên họ đă vẽ ra
kế hoạch xây dựng ḥa b́nh và thịnh vượng…
thế là họ đ̣i hỏi loài người phải thay đổi
bản tính cho phù hợp với kế hoạch vạch ra.
Nhân vị trở thành vô nghĩa. Nhà nước tồn tại
không phải v́ con người, và người ta cho
rằng con người chỉ có ư nghĩa khi biết phục
vụ Nhà nước. Trong một hệ thống như vậy, con
người bị tước mất nhân bản, mất nhân vị rồi
được đúc thành những con người rập khuôn chỉ
biết qui phục một dân tộc, một ṇi giống
hoặc một giai cấp nào đó nắm quyền.
Sự
tôn sùng một cách cố chấp cái lư thuyết đó
đă gây ra những hậu quả kinh hoàng cho thế
giới hiện tại. Đối với những kẻ đẻ ra lư
thuyết đó th́ những chuyện như toàn thể nhân
dân đều bị tước bỏ tự do, hoặc hàng triệu
người chết đói, hay hàng vạn con người bị
thanh trừng… chẳng có ǵ đáng quan tâm, miễn
sao lư thuyết đó vẫn c̣n nắm được chính
quyền. Thay v́ làm ra cái mũ chính sách nhà
nước thích hợp để cho dân đội vừa, th́ họ
lại chặt đầu những kẻ không đội vừa cái mũ
đó… Họ đ̣i hỏi là các định chế kinh tế chính
trị phải đóng vai tṛ chủ đạo, cho dù có
phải trả giá bằng việc hủy hoại chính con
người.
Nhưng
ngoài những phương thức trên c̣n có một
phương thức cải tạo thế giới khác nữa, dựa
vào xác tín này: mọi cuộc cải tạo phải khởi
sự từ nơi con người, bản tính loài người
phải thích nghi, thuận theo một kế hoạch
rộng lớn, cao cả hơn những lư thuyết thế
gian này, hơn bất kỳ kế hoạch xây dựng trật
tự thế giới do một nhà nước hay định chế nào
phác thảo ra. Phương pháp này công nhận rằng
phải làm cách mạng… nhưng không phải lật đổ
những ǵ nằm bên ngoài con người. Nó thôi
thúc con người phải làm cách mạng ngay trong
chính nội tâm ḿnh; với những thói hư tật
xấu như kiêu ngạo, vị kỷ, cá nhân, cục bộ,
ganh tỵ, tham lam.
H́nh
thức cách mạng thứ hai này không đổ thừa
những rắc rối ta gặp phải cho các định chế,
mà qui lỗi cho chính nhân loại… không phải
qui tội cho cách thức con người vận dụng tài
sản, mà cho cách thức con người điều khiển
bản thân. Phương pháp cải cách này ít thông
dụng hơn phương pháp đầu: khi gặp khó khăn
trở ngại, ai trong chúng ta cũng đều thích
đổ lỗi cho người khác, việc khác, hơn là cho
chính bản thân. Cậu bé va đầu vào cửa, thế
là cứ nhằm cửa mà đạp. Người cầu thủ đá hỏng
quả banh, thế là cứ nhằm đôi giày mà đổ tội.
Nhưng lỗi là của cậu ta chứ, đôi giày đâu có
làm nên tội t́nh ǵ.
T́m
cách đổ tội chẳng mang lại kết quả ǵ. Bởi
lẽ các phiền phức trong thế giới nằm ngay ở
trong con người. Chẳng ích lợi ǵ khi chuyển
nhượng tài sản từ tay một ít nhà tư bản vào
tay một ít cán bộ chức quyền để họ tha hồ vơ
vét và tham lam. Sửa đổi các điều khoản luật
lệ mà không sửa đổi bản thân người thi hành
luật th́ chẳng ích lợi ǵ, bởi v́ rắc rối
không nằm trong luật lệ, mà nằm ở chính ḷng
ích kỷ của kẻ thừa hành. Nếu ta muốn tái tạo
thế giới, ta phải bắt đầu bằng việc cải tạo
bản thân con người trước đă. Dần dà các định
chế sẽ tốt lành bởi lẽ chúng trở nên giống
với những kẻ tốt lành đă dựng nên chúng.
Và đó
cũng là lư do tại sao các định chế và kế
hoạch phải mềm dẻo và linh động đủ để thích
ứng được với những tâm hồn tự do, hứng khởi,
muốn trưởng thành và muốn mở rộng tầm nh́n
nhờ đời sống tiếp xúc với Thiên Chúa. Ngoài
Thiên Chúa ra, không có mục tiêu nào vĩ đại
đủ để đ̣i hỏi loài người phải biến đổi bản
tính của họ… bởi vậy không một định chế trần
gian nào có quyền chà đạp lên phẩm giá con
người.
Con
người là tạo vật cao cả nhất trên trần gian
này: linh hồn bất tử của con người có giá
trị hơn cả mọi lư thuyết, kế hoạch hoặc cả
thế giới gộp lại. Các định chế, kế hoạch,
nhà nước… đều sẽ qua đi. Chỉ có con người và
linh hồn của con người là quan trọng, bởi lẽ
“được cả thế gian mà mất linh hồn nào được
ích ǵ?”
Trên
thế giới có rất nhiều người bi quan khi dự
đoán tương lai. Nếu tôi không thực sự tin
vào Thiên Chúa th́ tôi cũng bi quan như họ.
Cách đây 30 năm, một từ được nói trên môi
mọi người là từ “tiến bộ”. C̣n ngày nay ai
cũng nói đến “thất bại” và “bom nguyên tử”.
Thái độ bi quan yếm thế này xuất hiện tỷ lệ
thuận với việc theo dơi tin tức thế giới.
Nói như thế không hẳn là v́ tin thế giới
ngày nay quá tŕ trệ, mà v́ người ta dành
quá ít thời gian để phát các tin khác tích
cực hơn. Kết quả là thiên hạ sống đời sống
chính trị chứ không phải đời sống tâm linh.
Giở
bất kỳ một tờ báo nào ra, hầu như ta đều đọc
thấy đại loại những tin như sau “Cắt giảm
trợ cấp” “Công ty x. phá sản!” “Giám đốc Y.
bị tố cáo đă tham ô 100 triệu!” v.v… Sở dĩ
có sự mất cân đối giữa tựa đề và bài tường
thuật là v́ ngày nay người ta đồng hóa: giật
gân là tin tức, là chân lư. Chẳng có tin tức
nào thuật lại chuyện cha mẹ thương yêu con
cái, dạy dỗ chúng biết yêu mến Thiên Chúa Ba
Ngôi, yêu mến anh em láng giềng, yêu tổ quốc.
Nhưng những chuyện thuộc loại vớ vẩn như ông
A chia tay bà B sau 18 tháng chung sống th́
lại được đăng tin. Điều xấu xa tệ hại th́
được đăng c̣n điều tốt lành lại bỏ qua.
Chiến
tranh và hiện trạng thế giới cũng thế. Thời
thế đảo điên quá! Chưa khi nào tệ hại như
hiện nay, bởi lẽ chưa bao giờ thế giới văn
minh lại điên cuồng chống đối Thiên Chúa đến
thế. Chúng ta đang chứng kiến di sản Kitô
giáo được chuyển từ Tây sang Đông. Không
phải Tây phương đánh mất di sản ấy, mà là
phương Đông nay đang bắt đầu thực hành những
điều phương Tây đă làm được trong thời sung
măn nhất. Tuy nhiên điều này không có nghĩa
là nền văn minh của ta đă cáo chung, và
chúng ta đă hết hy vọng. Chúng ta đă tới
thời buổi lịch sử mà Thiên Chúa xui khiến ta
nh́n nhận ra sự khiếm khuyết của ḿnh là hậu
quả của việc chỉ tin vào ḿnh. Thường
thường, đối với đứa con nào tự hào tưởng
rằng ḿnh làm được tất cả, người cha cứ để
mặc nó ṃ mẫm tháo ráp đồ chơi của nó, rồi
sẽ có lúc nó nhận ra ḿnh c̣n kém cỏi và cầu
cứu cha ḿnh giúp đỡ.
Thay
v́ gọi thời buổi này là thời buổi tai họa,
ta nên gọi nó là thời kỳ nhục nhă. Chúng ta
được tự do tùy nghi theo đuổi mọi quan điểm,
mọi công cụ. Dần dà con người ta nhận chân
được lời Kinh Thánh: “Khốn cho những kẻ qua
Ai cập cầu cứu, họ tin vào chuyện đông người
khỏe ngựa, mà quên đi Thiên Chúa yêu thương”.
Có
một người cha dắt con ra đồng xem thử lúa đă
gặt được chưa. Cậu con thích những cây lúa
c̣n đứng thẳng thân và bảo: “Những cây lúa
oằn xuống kia chắc chẳng có hạt lúa nào để
gặt cả”. Người cha trả lời: “Con ngốc nghếch
quá! Cây nào thẳng đứng là những cây mang
hạt lép kẹp, chẳng giá trị bao nhiêu, c̣n
những cây oằn xuống, cúi đầu mới là những
cây mẩy hạt”. Trong đời sống cũng vậy, dân
tộc nào biết cúi đầu khiêm nhu trước Thiên
Chúa, dân tộc đó sẽ trở nên vĩ đại.
Những
ngày tháng vĩ đại đang chờ đợi ta phía trước,
mặc dù có những lúc thanh luyện xen kẽ, hầu
biết được là nếu không có mặt trời th́ không
có nắng ấm, và dân tộc ta không thể thịnh
vượng nếu không có Thiên Chúa. Niềm hy vọng
này sẽ chuyển thành chiến thắng nhờ một
trong hai cách sau đây: hoặc tự thức tỉnh
tâm hồn bằng việc cầu nguyện, hoặc bị sa lầy
vào cùng khốn cho tới khi biết ngẩng mặt lên
kêu cầu Chúa từ t́nh trạng thiếu thốn của
ḿnh. Thế giới nói chung và đất nước chúng
ta nói riêng, vẫn đầy dẫy hàng ức triệu
người lành. Đời sống tâm linh ngày càng phát
triển, đời sống cầu nguyện ngày càng gia
tăng, giới trẻ ngày càng khát khao hy sinh
về mặt tinh thần. Chúng ta không thất bại
đâu! Chúng ta chỉ mất đi tính kiêu ngạo thôi!
Thiên Chúa không bao giờ đội vương miện
chiến thắng lên đầu kẻ ngạo mạn. Mặt trời
càng xuống thấp, bóng càng dài, cũng vậy ta
càng khiêm tốn bao nhiêu th́ càng thành vĩ
đại bấy nhiêu. Kiêu ngạo chỉ giết chết ḷng
biết ơn nơi người khác. Quốc gia chúng ta
rồi đây sẽ có ngày long trọng tổ chức lễ tạ
ơn Thiên Chúa v́ đă thắng lợi trong việc mưu
t́m ḥa b́nh. C̣n bao lâu nữa mới tới ngày
đó?
Đức cha Fulton Sheen. (Nguyên
tác: Way to Happiness)