Triết lư về việc tự biểu
lộ ngày nay đă quá quen
thuộc nên ít c̣n được
người ta cất công t́m
cách giải thích nữa. Tự
lư giải chỉ đúng khi có
nghĩa là hành động phù
hợp theo lư trí và bản
tính cao thượng; và sai
khi hành động theo bản
năng và bản tính thấp
hèn. Người thợ săn tự
giải đúng lư khi ông đi
săn vào mùa săn bắn,
nhưng thật là sai quấy
nếu ông ta quay qua săn
t́m gái đẹp. Những kẻ
nào cho rằng ḿnh bao
giờ cũng đúng và có
quyền làm bất cứ điều ǵ
ḿnh thích hẳn cho rằng
tự chế đồng nghĩa với tự
hủy. Thực ra, tự chế
nghĩa là uốn nắn lại bản
tính thấp hèn để vươn
tới bản tính cao cả.
Người nhạc sĩ vĩ cầm
không phải là cố kéo đứt
dây đàn khi ông ḥa một
nốt nhạc cao vút, người
thợ điêu khắc không hề
phá hủy khối đá khi ông
tạc tượng.
Khi cái tôi bị kẻ ngoài
uốn nắn, đó là sự áp chế.
Nhưng nếu nó được uốn
nắn do ư chí bên trong
đó là tự chế. Cả hai
trường hợp đều nhằm trau
dồi một nhân cách hoàn
toàn hơn. Thiên Chúa
không bao giờ cho phép
gây đau khổ trừ khi có
mục đích thanh luyện.
Thánh Kinh c̣n đi xa hơn
thế nữa cơ: “Thiên Chúa
ra tay uốn nắn những ai
Ngài yêu mến nhất”.
Chàng yêu nàng, và chàng
muốn nàng phải diện bộ
cánh đẹp nhất; và nàng
cũng vậy, nàng chọn lựa
màu sắc và thời trang
nào hợp gu với chàng
nhất. Mọi mộng ước ích
kỷ này đều xuất phát v́
muốn làm đẹp ḷng người
ḿnh yêu. Thiên Chúa
cũng thế, đôi lần Ngài
mốn tước hết những ǵ
trong cuộc sống ngăn cản
ta hướng về trời cao.
Có khi cái chết của con
cái là ư Chúa muốn bậc
cha mẹ phải nh́n xa hơn
cơi thế này. Khi người
mục tử thấy rằng đồng cỏ
dưới chân đồi đă cạn
sạch và bầy cừu chẳng
chịu leo lên đồng cỏ ở
trên xanh tốt hơn, anh
ta liền vác một con
chiên đi lên triền núi
và lập tức cả bầy liền
theo chân anh. Chim ưng
mẹ ép chim con phải bay
bằng cách mổ dần tổ đi
cho đến khi nào chim con
rốt cuộc phải ĺa bỏ tổ
ấm tạm thời mà bay đi.
Thiên Chúa thỉnh thoảng
cũng phải “quậy” kẻo con
người cứ măi cho rằng
thế gian này là nơi an
toàn nhất.
Nhưng kỷ luật tiêu cực
từ bên ngoài gây ra
không cao cả bằng thứ kỷ
luật tích cực từ bên
trong. Không có một
khuynh hướng xấu xa nào
trong tâm hồn mà lại
không bị kỷ luật rèn dũa.
Có thể ví con người ta
với một củ hành. Cái tôi
bề ngoài có nhiều tầng
lớp che chở, nhưng cái
lơi khuất đàng sau đó
chính là cái tôi thực sự.
Khi con người biết từ
khước, anh ta tước bỏ
hết những ǵ giả tạo bề
ngoài hầu đạt cho được
nhân cách thực sự của
ḿnh. Một trong những lư
do khiến ít người biết
Chúa là bởi họ không
biết chính ḿnh. Họ sống
trong một thế giới giả
dối và không nhận ra
được Nền Tảng Chân Lư.
Thế giới Tây phương bắt
đầu tin tưởng sai lầm
rằng nhân cách được xác
định bởi những công
tŕnh bên ngoài, và
những ǵ con người suy
tư và ước muốn bên trong
chẳng quan trọng ǵ.
Nhưng điều này có thể
lại là một lối tránh né,
v́ con người có thể lao
vào công việc là để quên
ḿnh đi, giống như kẻ
nghiện ngập quên ḿnh
trong cuộc say bí tỉ.
Khi gặp rắc rối, kẻ vô
kỷ luật đổ tội cho sự
vật – như cầu thủ đá
hỏng banh lại đổ thừa v́
đôi giày, người thợ vụng
về làm hư bức tượng đổ
tội cho cái đục cái búa.
Thực ra cái lơi nằm ở
chính trong cái tôi vị
kỷ và lộn xộn.
Nếu có ai từ bỏ giàu
sang, th́ giờ và sức lực
cho kẻ khác nhưng lại
không từ bỏ chính bản
thân, kẻ đó thực sự
chẳng từ bỏ ǵ cả. Nhưng
ai đó có đạt được chút
ít danh vọng phú quư và
từ bỏ chính bản thân, kẻ
ấy được tự do hơn cả.
Khi Chúa phán bảo ta
phải ghét bỏ ḿnh đi,
không phải Ngài cho rằng
ta có những đức tính
Chúa không thích; mà là
Ngài muốn chỉ đến tính
ích kỷ đă ngăn cản không
cho ta yêu mến Chúa.
Không ǵ rơ ràng hơn lời
của Gioan Tẩy giả áp
dụng cho sự b́nh an nội
tâm này: khi thấy Chúa
Giêsu đang tiến đến,
Gioan đă nói: “Ngài phải
lớn lên, c̣n tôi phải
nhỏ đi”.
Nhiều người sống rất đôn
hậu trong gia đ́nh và sở
làm, nhưng khi cầm tay
lái ô tô lại trở nên cực
kỳ thô lỗ và ích kỷ. Có
lẽ là do ở trong nhà họ
đă quá quen thuộc, c̣n
trên xe hơi họ lại trở
nên vô danh không sợ bị
nhận mặt, tha hồ mà lộng
hành. Sống tử tế đàng
hoàng bởi v́ e ngại kẻ
khác cho ḿnh thiếu tử
tế th́ hẳn là chẳng tử
tế đích thực. Đúng hơn,
đó là một lối sống ích
kỷ trá h́nh.
Từ ngữ kindness (sự tử
tế, ḷng tốt) do chữ
kindred, (bà con, họ
hàng) mà ra. Và như thế
nó bao hàm một thứ t́nh
cảm đối với những người
cùng máu mủ ruột thịt.
Thoạt đầu, kindness được
dùng để gọi t́nh cảm cha
mẹ con cái và ngược lại.
(Ta nên nhớ trong tiếng
Đức, kind có nghĩa là
đứa trẻ, con cái) Dần dà
nó được mở rộng ra để
chỉ t́nh cảm đối với bất
cứ ai giống như thân
thuộc máu mủ. Do đó sự
lỗ măng nghĩa là trái tự
nhiên.
Bởi v́ tử tế có liên
quan đến yêu thương nên
một người tử tế yêu mến
kẻ khác không phải là v́
người này cho ḿnh cái
ǵ cả, cũng không phải
là để cầu mong kẻ khác
tử tế lại với ḿnh, mà
bởi v́ chính kẻ ấy đầy
ḷng nhân hậu, thế thôi.
Mà tại sao người ta khả
ái? V́ Chúa đă tạo dựng
như thế. Nếu ta là thú
vật th́ chẳng ai đáng
yêu cả.
Thiên Chúa đă dựng nên
ta đáng yêu bởi v́ Ngài
đă ban cho chúng ta T́nh
Yêu của Ngài. Ta nhận ra
kẻ khác đáng yêu bởi v́
ta có ḷng yêu thích họ.
Nhưng để thực thi được
như vậy ta phải tử tế đủ
để có thể hài ḷng về
anh em. Nếu thoạt đầu ta
cho rằng phần lớn nhân
loại đều là đểu cáng th́
hẳn ta sẽ t́m gặp vô vàn
kẻ đểu cáng. Tuy nhiên
nếu ta cho rằng mọi
người đều dễ thương, dĩ
nhiên ta sẽ gặp được
nhiều người dễ thương. Ở
một mức độ nào đó th́
thế giới này hiện hữu
như ta nghĩ. Ta cho đi
cái ǵ th́ sẽ nhận lại
được điều ấy. Gieo gió
th́ gặt băo, làm lành
th́ được thiện, được yêu
thương và hạnh phúc. Tha
nhân là gương soi phản
ánh h́nh ảnh nhân hậu
của ta. Người đôn hậu
chịu đựng sự khiếm
khuyết của tha nhân,
không hề phóng đại chấp
nhất những điều vụn vặt
và không soi mói vạch lá
t́m sâu. Họ biết rằng
con người ta không ai
muốn rắc rối cả. Một
trong những niềm vui vĩ
đại nhất trên cơi đời
này là yêu được kẻ không
ai yêu cả. Do đó ta hăy
bắt chước Cha trên trời
hằng nh́n nhận hết thảy
tạo vật đều đáng yêu.
Điều kỳ lạ là hầu hết
chúng ta tỏ ra có cảm
t́nh với người mù hơn là
với kẻ điếc. Aristote đă
có lần nhận xét như thế.
Ông cho rằng thị giác có
tính tâm linh nhất, và
thính giác vật chất hơn
cả. Chính v́ vậy mà
chúng ta cảm thấy xúc
động khi thấy những kẻ
bị tổn thương về mặt
tinh thần. Lối lư giải
tâm lư này dĩ nhiên
không nhằm biện minh cho
nhu cầu phải tử tế với
loại người này hơn loại
người kia.
Ḷng tử tế đối với kẻ có
tật nguyền sẽ trở thành
sự cảm thông trắc ẩn
muốn chia sớt nỗi đau
với họ. Nó làm ta càng
lúc chú ư đến kẻ tật
nguyền và thôi thúc ta
đi đến hành động gọi là
bố thí, hoặc dấn thân
phục vụ, chia sẻ thời
giờ với họ. Người tử tế
và trắc ẩn sẽ thu xếp
được thời gian để đến
với tha nhân.
Ngày nay nhiều nhà tâm
lư đều biết rơ rằng
những ǵ họ có thể làm
được để giúp đỡ các kẻ
hoạn nạn, ưu phiền là
lắng tai nghe họ. Nếu
bạn đoan chắc rằng bạn
biết được nỗi khắc khoải
của họ, ấy là bạn đă
chữa lành cho họ được
một nửa rồi. Ngay cả đối
với kẻ thù, nếu ta thực
ḷng không gay gắt với
y, chắc chắn y cũng sẽ
không nuôi thù hận với
ta hoài. Mọi bất thường
tâm linh đều có cội
nguồn là sự ích kỷ, mọi
hạnh phúc đều bám rễ
trong ḷng nhân hậu.
Nhưng để nhân hậu thực
sự, ta phải nhận ra
trong mỗi tha nhân đều
có linh hồn bất diệt,
đáng được Chúa yêu. Và
ai nấy đều quư giá đáng
trọng cả.
Đức cha Fulton Sheen.
(Nguyên tác: Way to
Happiness)