Chữ viết của
tổ tiên
người Việt
Phạm Ngọc
Dương
(Cám ơn bạn
Lê Văn Anh
Dũng đă t́m
và chuyển
đến TSYS bài
này)
1- 50 năm tự
t́m ṭi,
nghiên cứu
Ông Xuyền
nói: “Đây là
chữ Khoa đẩu,
chữ của
người Việt
cổ, của tổ
tiên chúng
ta. Từng chữ
bốc lên như
ngọn lửa,
nên gọi là
Hỏa tự”.
Trong tôi
trào dâng
niềm xúc
động, mặc dù,
nh́n vào
những ḍng
chữ đó, tôi
chả hiểu
được điều ǵ.
Tôi nhớ măi
cái buổi tại
Trung tâm
Văn hóa
người cao
tuổi ở phố
Đặng Văn Ngữ
(Đống Đa, Hà
Nội), vào
cuối năm
2007, ông
giáo già
người Phú
Thọ, đă
thuyết tŕnh
cả buổi
trước 40 nhà
khoa học,
toàn các
giáo sư,
tiến sĩ, các
nhà sử học,
ngôn ngữ học,
văn học nước
nhà. Lúc th́
trên máy
chiếu, lúc
trên bảng
đen, ông như
thầy giáo
của thời xưa
cũ, và các
nhà khoa học
lớn của nước
nhà, như
những học
tṛ, ngồi
nghe ông
thuyết giảng
về một loại
kư tự lạ.
Loại kư tự
lạ ấy không
phải của
người ngoài
hành tinh,
mà chính là
của tổ tiên
chúng ta!
Ông giáo già
Đỗ Văn Xuyền
giảng giải
về chữ Việt
cổ
Tôi cũng
từng được
nghe đâu đó,
trong sử
sách, truyền
thuyết, rằng
tổ tiên ta
cũng có chữ
cổ, rằng thứ
chữ ấy có
tên Khoa đẩu.
Quả thực,
tôi rất ṭ
ṃ về loại
chữ này. Tôi
đă nhiều lần
đến băi đá
cổ Sapa,đôi
ba lần đến
băi đá cổ Pá
Màng (Liệp
Tè, Thuận
Châu, Sơn
La, hiện các
ḥn đá đă
được khai
quật, giải
phóng cho
ḷng hồ thủy
điện Sơn
La), băi đá
cổ ở Xín Mần
(Hà Giang)
và vinh dự
là người đầu
tiên được
“người rừng”
Trần Ngọc
Lâm dẫn vào
đại ngàn
Hoàng Liên
Sơn tận mắt
băi đá có
h́nh khắc
chưa từng
được biết
đến. Tuy
nhiên, với
khả năng hạn
hẹp (gần như
bằng không
về cổ tự),
tôi chỉ quan
sát cho thỏa
trí ṭ ṃ.
Những h́nh
vẽ loằng
ngoằng đó
liệu có phải
cổ tự không,
thú thật,
tôi c̣n
chẳng biết.
Hôm nghe ông
thầy giáo về
hưu Đỗ Văn
Xuyền nói
như lên đồng
trước đông
đảo các nhà
khoa học,
trong hội
trường chật
hẹp, về một
thứ chữ cổ
của người
Việt, đă
thất truyền,
giờ được ông
giải mă,
không riêng
ǵ tôi,
nhiều nhà
khoa học vô
cùng xúc
động. Dù thứ
ngôn ngữ và
cách giải mă
của ông giáo
già Đỗ Văn
Xuyền chưa
được thừa
nhận chính
thức, song
nó đă khẳng
định một
điều, rằng
đất nước ta,
rằng người
Việt chúng
ta, từ măi
thời Vua
Hùng, từ tận
thời Đông
Sơn mấy ngàn
năm trước,
đă từng có
chữ. Chữ là
văn minh,
chữ là thịnh
vượng. Rằng
chúng ta
không phải
những người
“ăn nhờ” văn
hóa, “đi
mượn” chữ
viết của các
dân tộc khác.
Điều này
quan trọng
biết bao, ư
nghĩa biết
bao và bớt
đi tủi nhục
biết bao.
Bẵng đi mấy
năm, câu
chuyện giải
mă chữ Việt
cổ, cách đọc
chữ Việt cổ
của ông giáo
già Đỗ Văn
Xuyền cũng
ch́m vào
quên lăng.
Không thấy
người ta hội
thảo, không
thấy bàn tán,
chẳng thấy
khen chê,
ủng hộ, cũng
chả thấy ai
phản bác cái
công tŕnh
50 năm trời
lặn lội của
ông giáo giá
kia. Chẳng
lẽ công
tŕnh tưởng
như không có
ǵ lớn bằng,
không có ǵ
ư nghĩa bằng
kia, là thứ
vô tác dụng,
là thứ nói
ra cho biết
rồi tống vào
tủ cho mối
mọt gặm?
Ngày giỗ Tổ
đến, cả
triệu người
dân nước
Việt nô nức
trẩy về đền
Hùng, nơi
thờ đức tổ
Hùng Vương,
với 18 chi,
không biết
bao nhiêu
đời vua đă
dựng xây,
bảo vệ đất
Việt suốt
2622 năm
ṛng (Từ
thời
Kinh Dương
Vương 2879
TCN đến thời
Thục Phán
thôn tính
nước Văn
Lang 258
TCN). Tôi
cũng ḥa vào
ḍng người
mang nỗi
niềm xúc
động t́m về
tổ tiên.
Trong ḷng
trào dâng
bao ư nghĩ,
bao thắc mắc
về một thời
khắc lịch sử
rất dài mà
có nhiều lộn
xộn, khó
hiểu. Thời
đại Hùng
Vương như
một đám mây
mênh mang,
linh thiêng,
bí ẩn và
chưa được
giải mă.
Lang bang
với những ư
nghĩ ấy, tôi
chợt nhớ đến
cái buổi hội
thảo năm
kia, ông
giáo già
tỉnh lẻ Đỗ
Văn Xuyền,
bằng công
tŕnh tâm
huyết với tổ
tiên, đă
dựng lại cả
một thời đại
hùng tráng,
thịnh vượng
chả kém ǵ
các nền văn
minh rực rỡ
của thế giới
cổ đại. Thế
là, rồi rời
ḍng người
hối hả lên
đền Hùng,
t́m gặp ông
giáo già Đỗ
Văn Xuyền.
Ngôi nhà
khang ở con
phố nhỏ
phường Tân
Dân (Việt
Tŕ), ngay
cạnh Công an
tỉnh Phú Thọ
lúc nào cũng
im ỉm khóa,
khóa cả cửa
kính lẫn cửa
sắt. Cạnh đó,
có quán nhậu
thịt trâu 7
món và cá
song Hồng
nổi tiếng
của Việt Tŕ,
khách rất
đông, ồn ào,
náo nhiệt.
Tôi bấm
chuông mấy
lần, người
đàn bà mới ́
ạch ra mở
cửa. Bà nh́n
tôi với ánh
mắt không
được thiện
cảm. Tôi
giới thiệu
là nhà báo,
bà bảo tôi
vào ghế ngồi,
rồi bà ngúng
nguẩy lên
gác.
Một lát sau,
ông giáo già
Đỗ Văn Xuyền
từ gác đi
xuống. Câu
đầu tiên ông
nói: “Cậu
thông cảm.
Bà vợ coi
tôi là kẻ vô
tích sự,
toàn ăn cơm
nhà vác tù
và hàng
tổng. Bà ấy
sợ các cậu
đến, các nhà
khoa học
đến, lại
thổi bùng
lên nhiệt
huyết trong
tôi, rồi tôi
lại bỏ nhà,
bỏ mặc bà ấy
lên đường
t́m chữ cổ.
Đấy là bà ấy
nghĩ thế
thôi, chứ
niềm đam mê
nghiên cứu
chữ cổ đă
ngấm vào máu
của tôi hơn
50 năm nay
rồi, cậu có
động viên
hay không
th́ tôi cũng
vẫn say mê
nghiên cứu.
Suốt 50 năm
trời, tôi tự
mày ṃ,
nghiên cứu,
có cần ai
động viên,
ai cho tiền
bạc ǵ đâu”.
Lúc này, tôi
mới hiểu rơ
tâm tư bà vợ
của ông giáo
già Đỗ Văn
Xuyền. Cũng
chả trách bà
được. Công
sức, tiền
bạc, ông
không dành
cho gia
đ́nh, mà
phục vụ
thiên hạ,
làm sao
khiến phụ nữ
vui cho
được.
Tôi ngồi tṛ
chuyện với
ông Xuyền,
vợ ông mang
đên cốc nước
rồi “lên án”
chồng: “Ngày
nào ông ấy
cũng thức
đến 12 giờ
đêm nghiên
với chả cứu.
3 giờ sáng
ông ấy đă
thức dậy rồi
không ngủ
nữa, cứ h́
hục nghiên
cứu chữ
nghĩa. Mà
cái thứ chữ
ông ấy
nghiên cứu
có bán được
đâu, có ăn
được đâu.
Tôi ở cùng
nhà ông ấy,
nhưng mấy
chục năm
nay, có mấy
khi thấy mặt
ông ấy đâu.
Tiền lương
hưu của ông
ấy có hơn 2
triệu bạc,
chả đủ để
phô tô tài
liệu, chứ
đừng nói đến
chuyện đi
khắp trong
Nam ngoài
Bắc, lên
rừng xuống
biển. Có
tiền ông ấy
cũng đi,
không có
tiền ông ấy
cũng đi, tôi
ốm ông ấy
cũng không
thèm về, chả
quan tâm ǵ
đến cái gia
đ́nh này
cả”.
Những lời
trách cứ của
bà vợ, đă
nói rơ nhiệt
huyết của
ông giáo già
Đỗ Văn Xuyền.
Không bỏ nửa
thế kỷ tâm
huyết, không
hy sinh tất
thảy, làm
sao ông
Xuyền có thể
hoàn thành
một công
tŕnh lớn
như vậy,
công tŕnh
mà hàng trăm
nhà khoa học
đầu ngành về
ngôn ngữ,
lịch sử, đă
ôm hận xuống
suối vàng
khi việc
nghiên cứu
c̣n dang dở.
Nói điều này,
không có
nghĩa tôi
công nhận
công tŕnh
giải mă,
phục hồi chữ
Việt cổ của
ông thầy
giáo Đỗ Văn
Xuyền là
thành công
tuyệt đối (việc
này phải ở
tầm cỡ quốc
gia, quốc tế
công nhận đă),
nhưng tôi
phải công
nhận rằng,
tâm huyết,
trí tuệ của
ông với văn
hóa quốc gia
là đáng trân
trọng.
Để bắt đầu
câu chuyện
hành tŕnh
đi t́m chữ
cổ kéo dài
hơn 50 năm
trời, ông Đỗ
Văn Xuyền
chọn lọc
trong đống
tài liệu
ngập tủ tủ
kính pḥng
khách và
pḥng làm
việc trên
tầng 2 của
ông cho tôi
xem.
Tôi lật từng
trang tài
liệu mà hoa
cả mắt, rặt
là một thứ
chữ lạ,
chẳng giống
chữ Hán,
chẳng giống
chữ Nôm,
cũng chẳng
ra chữ Lào,
chữ Thái.
Ông Xuyền
nói: “Đây là
chữ Khoa
đẩu, chữ của
người Việt
cổ, của tổ
tiên chúng
ta đấy. Từng
chữ bốc lên
như ngọn
lửa, nên gọi
là Hỏa tự”.
Trong tôi tự
dưng trào
dâng niềm
xúc động,
mặc dù, nh́n
vào những
ḍng chữ đó,
tôi chả hiểu
được điều ǵ.
2- Người đọc
thông viết
thạo chữ
Việt cổ!
Sau 50 năm
nghiên cứu
chữ Việt cổ,
thời đại
Hùng Vương,
ông giáo già
Đỗ Văn Xuyền
giờ đă đọc
thông, viết
thạo chữ
Việt cổ. Ông
có thể nói
luôn cả
tiếng của
người Việt
cổ xưa. Ông
Xuyền nói
vui
rằng, nếu có
phép thần
thông quảng
đại, hoặc cỗ
máy vượt
thời gian,
đưa ông về
thời Đông
Sơn, ông có
thể dễ dàng
giao tiếp
với người
Việt thời kỳ
đó.
Giờ đây,
thầy giáo Đỗ
Văn Xuyền,
với bút danh
Khánh Hoài,
vẫn sáng tác
thường
xuyên. Bản
thảo truyện
ngắn, công
tŕnh nghiên
cứu lịch sử,
văn hóa của
ông xếp
thành chồng.
Tuy nhiên,
không ai đọc
được những
bản thảo đó
ngoài ông,
v́ chúng
được viết
bằng chữ…
Việt cổ.
Tôi đưa cuốn
sổ cho ông
Xuyền, nhờ
ông viết mấy
chữ tặng
tôi. Chẳng
cần suy
nghĩ, ông
cầm bút viết
nhanh như
viết chữ
Quốc ngữ.
Cho đến lúc
này, một số
người vẫn
coi việc làm
của ông là
điên rồ, rỗi
hơi, bởi dù
thứ chữ Việt
cổ đó có
được khôi
phục lại,
cũng chẳng
ai dùng nữa,
v́ đă có chữ
Quốc ngữ
rồi. Ông
Xuyền th́
không nghĩ
như vậy. Với
ông, chỉ cần
trả lời được
câu hỏi:
Thời kỳ Hùng
Vương tổ
tiên chúng
ta có chữ
hay không,
đă là một
thành công
ngoài sức
tưởng tượng
của ông rồi.
Với việc
chứng minh
thời kỳ đó
có chữ viết,
ông Xuyền
càng tự hào
về tổ tiên
ḿnh, là
những người
có tŕnh độ,
tri thức
cao, chứ
không phải
là những
người tiền
sử, đóng
khố, ở trần
như sử sách
vẫn nói.
Các nhà khoa
học phương
Tây đă làm
được một
việc vĩ đại,
đó là giải
mă được chữ
viết đă thất
truyền của
người Ai Cập
cổ đại. Dù
xă hội hiện
đại không
dùng thứ chữ
đó phục vụ
cuộc sống,
nhưng nó là
phương tiện
cực kỳ thuận
lợi để các
nhà khoa học
nghiên cứu
lịch sử. Có
vô vàn những
tài liệu bí
ẩn thời Ai
Cập, mà nếu
không giải
mă được chữ
viết, sẽ bế
tắc trong
việc nghiên
cứu. Nghĩ
vậy, nên ông
Xuyền đă dày
công t́m
cách giải mă
loại chữ
Việt cổ thất
truyền này.
Ông giáo già
Đỗ Văn Xuyền
bảo rằng,
tài năng
khảo cổ,
lịch sử,
nhất là chữ
Việt cổ của
ông, không
thể so với
những “núi
Thái Sơn”
như Hà Văn
Tấn, Lê
Trọng Khánh,
Phạm Thận
Duật, Vương
Duy Trinh…
Thế nhưng,
ông lại có
may mắn hơn
các vị tiền
bối, là được
tiếp thu
những công
tŕnh nghiên
cứu vĩ đại
của người đi
trước, vô
t́nh có được
nhiều tài
liệu quư và
may mắn khi
t́m ra được
phương pháp
giải mă loại
chữ cổ này.
Sau khi sưu
tầm đầy đủ
kư tự chữ
Việt cổ, nắm
được giọng
nói, ngôn
ngữ của
người cổ,
ông Xuyền
nghiên cứu
ngôn ngữ,
chữ viết
tuần tự theo
thời gian từ
thời hiện
đại trở về
trước. Ông
đă vô cùng
ngạc nhiên
khi đọc được
một tài liệu
cổ, mà nhà
truyền giáo
Alexandre de
Rodes đă
viết: “Đối
với tôi,
người dạy
tài t́nh
nhất là một
thiếu niên
bản xứ.
Trong ṿng 3
tuần, anh ta
đă hướng dẫn
cho tôi tất
cả các thanh
của ngôn ngữ
ấy và cách
đọc các từ”.
Như vậy, rơ
ràng một
thiếu niên
bản xứ đă
dạy cho nhà
truyền giáo
người Bồ Đào
Nha này một
loại ngôn
ngữ tượng
thanh. Ông
ta chỉ học
có 3 tuần là
biết cách
đọc các từ,
thay v́ phải
học ít nhất
10 năm như
chữ Hán. Ông
Xuyền tin
rằng, thứ
chữ mà người
thanh niên
đó dạy nhà
truyền giáo
Bồ Đào Nha
là chữ Việt
cổ! Điều đó
có nghĩa,
những nhà
truyền giáo
người Bồ Đào
Nha đă tiếp
thu bộ chữ
cổ của người
Việt, và có
công Latin
hóa nó, để
ra được chữ
Quốc ngữ.
Ngoài ra, có
một tài liệu
lưu ở Ṭa
thánh La Mă.
Sau khi chép
lại nhiều
trang giấy
tập viết chữ
Quốc ngữ,
đoạn cuối,
chủ nhân của
tập tài liệu
viết thế này:
“Đây là tài
liệu tập
chuyển thể
từ chữ Việt
cổ sang chữ
Quốc ngữ (năm
1625 – tài
liệu)”. Nghĩ
theo hướng
đó, ông
Xuyền lục
t́m những
tài liệu
liên quan
đến các nhà
truyền giáo,
đến chữ Quốc
ngữ vào thế
kỷ 17, 18.
Ông Xuyền
giở một đống
tài liệu
phôtô các
văn bản chữ
Quốc ngữ từ
cách nay vài
chục năm,
cho đến 350
năm trước
cho tôi xem.
Những văn
bản này c̣n
lưu lại rất
nhiều trong
các thư viện
ở Lisbon,
Pari,
Roma... Tôi
quả thực hết
sức ngạc
nhiên về
những văn
bản này.
Những văn
bản từ đầu
thế kỷ 20
c̣n đọc được
khá trôi
trảy, nhưng
ngược đến
thế kỷ 19,
tương đối
khó đọc, và
nhiều chữ
không đọc
nổi.
Lần giở các
văn bản chữ
Quốc ngữ của
thế kỷ 17
th́ gần như
không đọc
được. Tôi
chỉ có thể
đọc được một
vài chữ
trong một
văn bản cả
ngàn chữ vào
thời kỳ mà
chữ Quốc ngữ
mới ra đời.
Theo ông
Xuyền, v́
ông đă
nghiên cứu
chữ Việt cổ
rất lâu rồi,
50 năm nay
rồi, và đă
hiểu được
tương đối,
nên khi cầm
những văn
bản chữ Quốc
ngữ thời kỳ
đầu, trong
khi các nhà
khoa học
chưa chắc đă
đọc được,
th́ ông đọc
vanh vách,
không bị vấp
bất cứ một
chữ nào.
Điều ngạc
nhiên mà ông
Xuyền nhận
thấy, đó là
nhiều kư tự
mà các nhà
truyền giáo
người Bồ Đào
Nha sử dụng
trong những
buổi đầu
tương đối
giống với
chữ Việt cổ.
Càng về sau
này, qua cả
trăm lần cải
tiến, thay
đổi, những
chữ tương
đối giống
chữ Việt cổ
đă dần biến
mất và mất
hẳn bóng
dáng trong
các văn bản
Quốc ngữ
ngày nay.
Mặc dù, về
h́nh dáng,
chữ Việt cổ
không c̣n
nét nào
giống chữ
Quốc ngữ,
nhưng lại
cùng có cấu
trúc ghép
vần.
Theo ông
Xuyền, bí
quyết để
giải mă được
chữ Việt cổ,
là phải hiểu
được ngôn
ngữ thời xưa
và nắm được
quy luật
thay đổi vị
trí nguyên
âm theo đạo
lư người
Việt (ví dụ
từ “trời”
nguyên âm
đặt phía
trên, từ
“đất” nguyên
âm đặt phía
dưới. Tương
tự các từ
“cha, con”
nguyên âm
đặt phía
trước hoặc
sau…).
Khi đă nắm
được quy
luật ghép
vần, hiểu
được ngôn
ngữ Việt cổ,
th́ chỉ cần
học chưa đầy
10 ngày, có
thể đọc,
viết được
loại chữ
này!
Khi đă giải
mă được chữ
Việt cổ, ông
Xuyền có thể
dễ dàng
phiên dịch
từ chữ Việt
cổ sang chữ
Quốc ngữ và
ngược lại.
Chữ Việt cổ
không ghi âm
được phần
lớn ngôn ngữ
hiện đại,
nhưng khi
chuyển ngôn
ngữ hiện đại
về ngôn ngữ
Việt cổ, th́
việc dịch
diễn ra dễ
dàng.
Từ ngày giải
mă được loại
chữ mà ông
Xuyền khẳng
định là chữ
Việt cổ,
chính quyền,
nhân dân
Việt Tŕ đă
góp công
sức, tiền
bạc xây dựng
lại ngôi
miếu Hai Cô.
Các hoành
phi, câu đối
đều được
viết bằng
thứ chữ Việt
cổ do ông
Xuyền thực
hiện.
Mới đây,
Trung tâm
Văn hóa
người cao
tuổi Việt
Nam đă dâng
tặng ngôi
miếu một
“quy thần”
bằng đá,
lưng khắc
chữ Việt cổ.
Rùa đá này
biểu thượng
cho quy thần
mà Hùng Quốc
Vương dâng
tặng cho Vua
Nghiêu vào
năm 2357
trước công
nguyên.
Có thể nói,
sự tồn tại
của chữ Việt
cổ là một sự
thật, đă
được các học
giả trong và
ngoài nước
thừa nhận.
Đó là niềm
tự hào dân
tộc. Việc
giải mă được
chữ Việt cổ,
giúp chúng
ta và thế hệ
sau sẽ có
điềukiện tốt
hơn trong
việc nghiên
cứu lịch sử
nước nhà.
Công tŕnh
giải mă chữ
Việt cổ của
nhà giáo già
Đỗ Văn Xuyền
đă đúng
hướng hay
chưa, đă
thành công
được mức độ
nào, cần có
rất nhiều sự
đầu tư của
các nhà khoa
học và các
cuộc hội
thảo mang
tầm quốc
gia, thậm
chí là quốc
tế.
3- Bí ẩn chữ
viết thời
Hùng Vương
Ông Vương
Duy Trinh,
Tổng đốc
Thanh Hóa,
phát hiện ra
một văn bản
là một bài
thơ viết
bằng thứ chữ
lạ, vờn lên
như ngọn
lửa, gọi là
hỏa tự. Văn
bản chữ lạ
này được
phiên dịch
ra chữ Hán
và tựa đề
bài thơ đó
là “Mời
trầu”, có
nội dung ca
ngợi t́nh
yêu.
Để chứng
minh thời kỳ
Hùng Vương
đất nước ta
có chữ Viết,
thầy giáo Đỗ
Văn Xuyền đă
đến hàng
trăm đền,
đ́nh, miếu
để khảo cứu.
Càng t́m
hiểu, ông
càng ngạc
nhiên khi
thấy khắp
đất nước ta,
có cả trăm
đền, miếu
thờ thầy
giáo, học
tṛ. Ông đă
đi khắp các
tỉnh, từ
Đông Bắc
sang Tây
Bắc, đi hết
miền Trung
để mục sở
thị các di
tích, ghi
chép lại,
lập bản đồ
mạng lưới
dạy học thời
Vua Hùng,
trước khi
người Hán
sang xâm
lược.
Trong quá
tŕnh khảo
cứu, t́m tư
liệu, ông
Xuyền may
mắn tiếp cận
được những
tài liệu mà
người Pháp
thu thập
trong cuộc
tổng kiểm kê
các di tích,
làng xă vào
năm 1938.
Rồi các công
tŕnh như:
Thần linh
đất Việt,
Các nữ thần
Việt Nam,
Các nữ tướng
của Hai Bà
Trưng… Ông
Xuyền đă t́m
thấy cả trăm
di tích nói
về thầy,
tṛ, lớp
học. Theo
đó, mở đầu
của nền giáo
dục trước
khi Hán xâm
lược, là
thời Hùng
Vương thứ 6
và kết thúc
là thời Hai
Bà Trưng với
thầy Đỗ Nam
Tế, cô Tạ
Cẩn Nương,
thầy Lê Đạo,
sư bà chùa
Phúc Khánh…
Có điều lạ
là, vào thời
kỳ đó, có
rất nhiều cô
giáo và học
tṛ nữ,
chứng tỏ,
thời Hùng
Vương, nam
nữ rất b́nh
quyền.
Tại đền thờ
Lỗ Công ở
thôn Bồng
Lai (Từ
Liêm), c̣n
một tấm bia
cổ ghi rơ:
Thầy giáo Lỗ
Công dạy học
ở Kinh Thành
(Văn Lang).
Học tṛ của
thầy Lỗ Công
là Hoàng
Trụ, con của
công chúa Mỵ
Châu Hoa
(con gái
Hùng Đinh
Vương, Vua
Hùng 16).
Hoàng Trụ
biết chữ, về
thôn Bồng
Lai mở lớp,
dạy học. Do
có công với
dân làng,
nên dân làng
lập đền thờ
phụng.
Sau khi phát
hiện hàng
trăm thầy,
cô, học tṛ
thời Hùng
Vương (với
ghi chép cụ
thể, đầy
đủ), thầy
giáo Đỗ Văn
Xuyền khẳng
định rằng,
thời Hùng
Vương, đất
nước ta đă
có chữ viết.
Nếu không có
chữ, chẳng
lẽ hệ thống
giáo dục của
thời kỳ này
lại dạy
chay? Có tài
liệu của
người Hán
viết rằng,
năm 178, Sĩ
Nhiếp làm
Thái thú đất
Giao Châu,
thấy vùng
Giao Châu
không có chữ
viết, nên
đưa chữ Hán
vào dạy.
Tuy nhiên,
lịch sử từ
nước ta
khẳng định
rằng, Sĩ
Nhiếp đă đốt
sạch tài
liệu, sách
vở, cấm
người dân
học chữ
Việt, bắt
buộc phải
học chữ Hán.
Hàng ngàn
năm Bắc
thuộc, chữ
Việt mai một
rồi biến mất
cũng là điều
dễ hiểu.
Chữ cổ trên
trống đồng
trưng bày ở
Đền Hùng.
Chữ cổ trên
băi đá Sapa
Càng t́m
hiểu, thầy
giáo Đỗ Văn
Xuyền càng
tin rằng
người Việt
từng có chữ
viết riêng.
Người Lào,
người
Campuchia,
thậm chí các
dân tộc
thiểu số
quanh vùng
c̣n có ngôn
ngữ, chữ
viết riêng,
th́ không lẽ
ǵ người
Việt lại
không có chữ.
Mang công
tŕnh ghi
chép hành
tŕnh đi t́m
các lớp học
thời Hùng
Vương gặp
GS. Hà Văn
Tấn để tŕnh
bày khát
vọng muốn đi
t́m chữ Việt
cổ, ông
Xuyền đă bị
ấn tượng
mạnh. Khi
đó, GS. Hà
Văn Tấn đă
nằm liệt,
không cử
động được
nữa. GS. Tấn
cứ nắm tay
ông Xuyền
khóc không
ngừng. GS.
Tấn đă dành
cả đời để
nghiên cứu
chữ Việt cổ,
song công
tŕnh nghiên
cứu c̣n dang
dở th́ ông
đă nằm liệt,
không tiếp
tục được
nữa. Sau
này, ông
Xuyền tiếp
tục gặp GS.
Lê Trọng
Khánh, người
cũng dành
gần như cả
cuộc đời để
nghiên cứu
chữ Việt cổ.
Khi đó, GS
Khánh đă 86
tuổi, mắt
mờ, chân
yếu. Ông
Khánh khóc
to lắm, rồi
cứ nắm tay
ông Xuyền
dặn ḍ, động
viên tiếp
tục công
việc nghiên
cứu c̣n dang
dở của ông.
Sau khi gặp
hai vị giáo
sư hàng đầu
về chữ cổ,
niềm khao
khát giải mă
chữ Việt cổ
của thầy
giáo Đỗ Văn
Xuyền lại
càng mănh
liệt. Nhưng
trước hết,
để giải mă
được chữ
Việt cổ, th́
phải có
trong tay
nhiều chữ
cổ.
Trong một
bản Ngọc phả
từ thời vua
Trần Thái
tông ghi:
“Nghiêu thế,
Việt Thường
thị kiến
thiên tuế
thần quy,
bối hữu Khoa
đẩu”. Nghĩa
là, thời vua
Nghiêu nước
Việt Thường
tặng rùa
thần ngh́n
tuổi, lưng
có chữ Khoa
đẩu. Theo cổ
sử Trung
Quốc, thời
vua Nghiêu
(năm 2357
TCN), sứ giả
Việt Thường
đến kinh đô
tại B́nh
Dương (phía
bắc sông
Hoàng Hà -
tỉnh Sơn Tây
ngày nay)
dâng thần
quy, vuông
hơn ba
thước, trên
lưng có khắc
chữ Khoa đẩu
ghi việc từ
khi trời đất
mới mở trở
về sau. Vua
Nghiêu sai
chép lấy gọi
là Quy lịch.
Trong tài
liệu “Sự
h́nh thành
và phát
triển chữ
Việt cổ”, do
Viện Văn hóa
in năm 1986,
GS. Lê Trọng
Khánh đă dẫn
chứng: Nhiều
dân tộc
trong Bách
Việt đă dùng
chữ Khoa đẩu
thời Phục Hy
- Thần Nông
để ghi tiếng
dân tộc ḿnh.
Riêng ở Việt
Nam, chữ
Khoa đẩu
được dùng
lâu hơn. Măi
đến đời Sĩ
Nhiếp vẫn
c̣n, tuy Sĩ
Nhiếp cấm
đoán nhưng
nhân dân ta
vẫn dùng.
Nhiều nhà
nghiên cứu,
từ Hà Văn
Tấn, Lê
Trọng Khánh,
Bùi Văn
Nguyên, Trần
Ngọc Thêm...
trước đó là
Vương Duy
Trinh,
Trương Vĩnh
Kư, cả những
nhà nghiên
cứu nước
ngoài như
Anh, Tiệp
Khắc, Mỹ,
Pháp, nhất
là Trung
Quốc: Lục
Lưu, Hứa
Thân, Trịnh
Tiểu... đều
khẳng định
Việt Nam xưa
đă có chữ
viết riêng.
Chữ Việt cổ
được phát
hiện ngày
một nhiều
trên nhiều
hiện vật
khảo cổ,
được khắc
trên đá,
trên xương
thú, trên đồ
đồng như vũ
khí, trống
đồng cổ và
phân bố rộng
khắp lưu vực
có người
Việt sinh
sống.
Tiêu biểu là
28 kư tự cổ
được phát
hiện trên 4
chiếc qua
đồng Đông
Sơn. Các nhà
khoa học cho
rằng, những
kư tự này là
chữ Việt cổ,
nhưng chưa
giải mă
được.
Hễ nghe
thông tin ở
đâu phát
hiện kư tự
lạ, cổ, ông
Xuyền lập
tức lên
đường t́m
hiểu, bất kể
ở trên rừng
hay dưới
biển, ở
ngoài Bắc
hay trong
Nam và dù
trời mưa
nắng hay băo
giông.
Bản thảo chữ
cổ do ông
Vương Duy
Trinh phát
hiện.
Do các
chuyến đi
đều dài ngày,
đi xa, mà
tiền lương
hưu ít ỏi,
nên ông giáo
già Đỗ Văn
Xuyền đă
thực hiện
tiết kiệm
tối đa. Mỗi
chuyến đi,
ông đều
chuẩn bị
vơng, bạt,
bi đông đựng
nước, ḿ tôm,
bánh ḿ.
Tối ông
không vào
nhà nghỉ mà
mắc vơng,
dựng bạt ngủ
ven rừng,
bên đường,
rồi nhai
bánh ḿ, ḿ
tôm sống cầm
hơi. Hàng
chục chuyến
hành tŕnh
vất vả, kéo
dài có khi
đến cả
tháng, nhưng
thứ chữ ông
thu thập
phần lớn chỉ
là chữ Chăm,
chữ Lào, chữ
Thái cổ.
Đọc tài liệu
về ông Phạm
Thận Duật,
ông Xuyền
như bắt được
vàng. Phạm
Thận Duật là
quan triều
Nguyễn, từng
làm Tri châu
ở Tây Bắc,
là một nhà
văn hóa lớn
của dân tộc.
Cuối thế kỷ
19, ông t́m
thấy chữ
Việt cổ.
Theo mô tả,
thứ chữ này
được viết
theo chiều
ngang, bộ
chữ gồm 18
thể chữ cái
theo vần
bằng, 18 thể
chữ cái theo
vần trắc.
Thứ chữ này
khác với chữ
Thái cổ,
khác chữ
Hán. Tuy
nhiên, công
tŕnh nghiên
cứu, giải mă
chữ Việt cổ
của ông Duật
c̣n dang dở,
th́ bị thực
dân Pháp
bắt. Ông bị
đày đến
Tahiti. Ông
bị chết trên
đường đi và
thực dân
Pháp ném xác
ông xuống
biển.
Cùng thời
gian đó, ông
Xuyền tiếp
cận được các
tài liệu
liên quan
đến ông
Vương Duy
Trinh, Tổng
đốc Thanh
Hóa. Năm
1903, ông
này đă phát
hiện ra một
văn bản là
một bài thơ
viết bằng
thứ chữ lạ,
vờn lên như
ngọn lửa,
gọi là hỏa
tự. Văn bản
chữ lạ này
được phiên
dịch ra chữ
Hán và tựa
đề bài thơ
đó là “Mời
trầu”, có
nội dung ca
ngợi t́nh
yêu. Ông
Vương Duy
Trinh khẳng
định đây là
chữ của tổ
tiên thời
Vua Hùng,
vẫn c̣n được
lưu truyền
cho hậu thế,
nhưng chỉ ở
một bộ phận
xă hội nhỏ.
Ông viết:
“Thập châu
là vùng biên
viễn, nhân
dân ta c̣n
lưu giữ được
thứ chữ này.
Các nơi
khác, Sĩ
Nhiếp bắt bỏ
hết để học
chữ Hán».
Nắm được
điều đó, ông
Xuyền đă
chuyển hướng
t́m kiếm chữ
cổ lên vùng
sâu, vùng
xa, vùng
đồng bào dân
tộc. Cứ ở
đâu có chữ
lạ, chữ cổ,
chữ không ai
biết, không
ai đọc được,
là ông
nghiên cứu,
sưu tầm, so
sánh.
4- Chữ Việt
cổ - chữ của
nền văn minh
rực rỡ?
Thứ chữ Việt
cổ mà ông
Xuyền giải
mă, thực sự
là một thứ
chữ của một
nền văn minh
rực rỡ, loại
chữ của một
dân tộc mà
trí tuệ đă
đạt đến một
đỉnh cao
nhất định.
Tôi phải
công nhận
rằng, ông
giáo già Đỗ
Văn Xuyền là
người quá
yêu dân tộc,
ông yêu lịch
sử đất nước
với một kiểu
cách có thể
nói là… điên
rồ. Mấy chục
năm trời
công sức và
không biết
bao nhiêu
tiền của,
ông đă đổ cả
vào những
chuyến đi,
chỉ với khát
vọng chứng
minh tổ tiên
chúng ta
từng có chữ
viết. Có
những lúc,
không t́m
đâu ra tiền
để đi, ông
đă cầm cố cả
sổ lương hưu
của ḿnh.
Vậy nên,
chẳng có ǵ
lạ, khi có
lần, đọc tài
liệu của một
nhà nghiên
cứu nói
rằng, thời
kỳ Vua Hùng,
người Việt
chẳng qua là
một bộ lạc
ăn hang ở
lỗ, ông đă
giận đến rơi
nước mắt.
Ông Xuyền
tin rằng,
một bộ lạc
sống trong
hang, cởi
trần, đóng
khố, đàn ông
đi săn bắn,
đàn bà hái
lượm, không
thể làm ra
được những
chiếc trống
đồng tinh
xảo đến độ
con người
ngày nay
không giải
thích nổi.
Đó phải là
sản phẩm của
một nền văn
minh rực rỡ,
có chữ viết
và có một
nền tảng
khoa học
tương đối
vững chắc.
Quá tŕnh
t́m hiểu
lịch sử tổ
tiên, ông
Xuyền nhận
thấy rằng,
thời kỳ Hùng
Vương là
thời kỳ phát
triển rực
rỡ, đỉnh cao
của người
Việt cổ.
Trước đó rất
xa là nền
văn hóa Ḥa
B́nh, nền
văn hóa mà
học giả
Colani
(người Pháp)
đă phát
hiện, tuyên
bố là “cái
nôi của văn
minh nhân
loại”. Nền
văn hóa này
xuất hiện
trước Lưỡng
Hà, Trung
Quốc, Ấn Độ
tới cả ngàn
năm!
Qua quá
tŕnh thu
thập, nghiên
cứu chữ cổ
của người
Việt, ông
Xuyền nhận
thấy, từ
thời kỳ xa
xưa, cho đến
khi người
Hán sang xâm
lược, người
Việt sử dụng
nhiều loại
chữ, các
loại chữ
liên tục
phát triển,
từ h́nh vẽ
sơ khai, đến
tượng h́nh
đơn giản,
tượng h́nh
phức tạp và
cuối cùng là
một loại chữ
Việt cổ
tượng thanh.
Sau khi sàng
lọc, ông
Xuyền tập
trung vào
loại chữ
Việt cổ
tượng thanh.
Theo ông,
đây là loại
chữ cuối
cùng của
người Việt
cổ. Mặc dù
Sĩ Nhiếp ra
sức tiêu
diệt loại
chữ này,
song nó vẫn
âm ỉ lưu giữ
trong dân,
đặc biệt là
vùng sâu,
vùng xa.
Hồi nghe tin
tỉnh Sơn La
t́m được
hàng ngàn
cuốn sách cổ
có kư tự lạ,
ông đă t́m
lên và ăn
dầm ở dề tại
Sơn La để
t́m hiểu.
Mấy nhà
nghiên cứu ở
Trung tâm
Văn hóa
người cao
tuổi Việt
Nam kể rằng,
ông Xuyền
đă khóc rất
to khi thông
báo với các
nhà nghiên
cứu ở đây
rằng, những
tài liệu t́m
được ở Sơn
La là một
kho chữ Việt
cổ.
Ông Xuyền đă
“nhặt” được
rất nhiều kư
tự rải rác
trong những
cuốn sách cổ
này, mà ông
tin chắc đó
là chữ cổ
của người
Việt. Những
chữ là này
nh́n qua
tưởng chữ
tượng h́nh,
nhưng thực
tế, lại là
chữ tượng
thanh. Nhiều
kư tự trong
các cuốn
sách dùng để
ghi âm tiếng
nói của
người Việt
cổ. Nhiều
dân tộc vùng
Tây Bắc đă
sử dụng, lưu
giữ, bảo tồn
loại chữ này
suốt hàng
ngàn năm Bắc
thuộc và kéo
dài đến khi
xuất hiện
chữ quốc
ngữ, thậm
chí đến nay
vẫn sử dụng.
Nghiên cứu,
tổng hợp các
con chữ được
ông Xuyền
cho là sử
dụng ở thời
kỳ Hùng
Vương, ông
thấy rằng,
bộ chữ này
không có
dấu, gồm 47
chữ cái. Bộ
chữ thỏa măn
được 3 tiêu
chuẩn kiểm
tra kư tự
của một dân
tộc, được
các nhà khoa
học quốc tế
đề ra. Thứ
nhất, bộ chữ
ghi lại được
đầy đủ tiếng
nói của dân
tộc. Thứ
hai, những
đặc điểm của
ngôn ngữ dân
tộc thể hiện
qua các đặc
điểm của kư
tự đó.
Bảng so sánh
chữ Việt cổ
với một số
chữ của các
dân tộc khác.
Thứ ba, giải
quyết được
các «nghi án»
về ngôn ngữ,
kư tự của
dân tộc đó
trong quá
khứ.
Có một thực
tế, loại kư
tự đó chỉ
ghi âm được
một phần nhỏ
ngôn ngữ
người Việt
hiện đang sử
dụng.
Nó không ghi
được âm vực,
v́ không có
dấu (sắc,
hỏi, huyền,
ngă…). Nếu
loại ngôn
ngữ tượng
thanh này mà
không “ghi
âm” được âm
thanh, th́
sẽ không
được thừa
nhận hoặc
việc giải mă
thất bại.
Để chứng
minh được
khả năng
“ghi âm” của
những kư tự
này, ông
Xuyền phải
đi khắp Việt
Nam để thực
hiện các
cuộc ghi âm,
phỏng vấn.
Ngay khi
nghe tin
trong Tây
Ninh có tộc
người Tà Mun
từ Tây
Nguyên
chuyển về,
họ tự nhận
là dân tộc
Việt, ông đă
vào Tây Ninh
t́m hiểu.
Ông Xuyền
tin rằng,
tộc người
này đúng là
người Việt
cổ, v́ họ
nói bằng thứ
tiếng Việt
cổ hoàn toàn
không có dấu.
Rồi ông vào
Quảng B́nh,
t́m đến dân
tộc Chứt.
Ông thấy dân
tộc này
nhuộm răng
đen, xăm
trán. Họ ăn
thịt gà
nướng, canh
cua đồng nấu
măng, phụ nữ
đẻ “nằm bếp”
như người
Kinh thời
xưa. Họ tự
xưng là
người Alak (người
Lạc) và
tiếng của họ
hoàn toàn
không có dấu.
A cho (chó),
A ka (cá),
kuan gôi
(Con gái),
Mơ (mẹ)… Ông
Xuyền sử
dụng các kư
tự Việt cổ
có thể ghi
lại được
toàn bộ ngôn
ngữ của dân
tộc này.
Theo một tài
liệu của
Trung Quốc,
th́ người
gốc Ngô Việt
ở Thượng Hải
hiện cũng
chỉ nói có
hai thanh là
thanh cao và
thanh trầm,
tương đối
giống với
ngôn ngữ
người Việt
cổ xưa.
Chẳng nói
đâu xa, ngay
vùng Ba V́,
Phúc Thọ,
Thạch Thất
của Hà Nội,
người dân
vẫn nói
không có dấu.
Ông Xuyền đă
t́m đến
nhiều ngôi
làng cổ ở Hà
Nội, Phú Thọ,
Bắc Ninh,
Thái B́nh…
và phát hiện
tại những
ngôi làng cổ,
ít giao lưu
với bên
ngoài, người
dân vẫn nói
bằng thứ
ngôn ngữ rất
nhẹ, không
có thanh.
Ông Xuyền
cũng đọc
được nhiều
tài liệu của
các nhà ngôn
ngữ nước
ngoài, nhận
xét rằng,
thế kỷ 16,
17, người
Việt Nam nói
cứ líu ríu
như tiếng
chim, chẳng
có thanh sắc
ǵ.
Từ những
phát hiện
này, thầy
giáo già Đỗ
Văn Xuyền
tin rằng,
ngôn ngữ của
người Việt
thời Hùng
Vương không
có thanh,
như vậy, phù
hợp với các
kư tự, chữ
viết không
có thanh (không
có dấu) của
người Việt
cổ.
Theo ông
Xuyền, chữ
tượng thanh
là chữ của
thời hiện
đại, của văn
minh, của
trí tuệ và
nó vượt xa
thứ ngôn ngữ
tượng h́nh
của Trung
Quốc.
Theo quan
điểm của ông,
thứ chữ
tượng h́nh
của Trung
Quốc là loại
chữ lạc hậu,
cổ hủ nhất
thế giới.
Bởi v́,
người học
phải mất
mười năm dùi
mài kinh sử,
mới nhớ được
một lượng
chữ nhất
định và tất
nhiên học cả
đời cũng
không nhớ
hết được mặt
chữ. Trong
khi đó, với
loại chữ
tượng thanh
của người
Việt cổ thời
Hùng Vương,
chỉ cần chú
tâm học 7
đến 10 ngày
là có thể
viết thành
thạo, ghi
lại được
ngôn ngữ nói.
Một ông
thầy cúng
đang dạy chữ
Dao cổ ở Bảo
Thắng, Lào
Cai.
Theo ông
Xuyền, chữ
Việt cổ
không ghi âm
được phần
lớn ngôn ngữ
thời hiện
tại, v́
trong hàng
ngàn năm bị
triệt hạ,
thứ chữ này
phải tồn tại
một cách lén
lút trong
các tộc
người Việt
gốc sống ở
vùng sâu,
vùng xa. Do
không được
sử dụng rộng
răi, không
được cải
tiến cho phù
hợp với sự
phát triển
của ngôn ngữ
nói chung,
đặc biệt sự
phát triển
ngôn ngữ ở
các vùng đô
thị rất mạnh
mẽ, do giao
lưu văn hóa
với bên
ngoài, nên
thứ chữ này
đă trở nên
lạc hậu,
không sử
dụng được
nữa. Bất cứ
thứ chữ nào
cũng vậy,
đều được cải
tiến liên
tục cho phù
hợp với ngôn
ngữ, cuộc
sống thay
đổi từng
ngày, từng
giờ. Một thứ
chữ nằm im
cả ngàn năm,
tự dưng lôi
ra, ghi âm
tiếng nói
hiện tại,
tất nhiên là
khập khiễng.
Tuy nhiên,
ông Xuyền
khẳng định
rằng, nếu
đặt thứ chữ
này vào ngôn
ngữ thời xưa,
hoặc ở các
vùng miền mà
người dân
vẫn nói
giọng cổ,
không có dấu,
th́ nó sẽ
phát huy tác
dụng một
cách gần như
tuyệt đối.
Thứ chữ Việt
cổ mà ông
Xuyền giải
mă, thực sự
là một thứ
chữ của một
nền văn minh
rực rỡ, loại
chữ của một
dân tộc mà
trí tuệ đă
đạt đến một
đỉnh cao
nhất định.
Đó là trí
tuệ của một
thời đại có
hàng ngàn
năm độc lập,
xây dựng và
phát triển –
thời đại các
Vua Hùng.
Phạm Ngọc
Dương