Thời trước, người ta ít nói
đến “sống trên đời” cho bằng
việc rỗi linh hồn. Họ không
lưu tâm nhiều đến những vấn
đề kinh tế, chính trị như
chúng ta ngày nay. Họ chú
tâm nhiều về những vấn đề
luân lư, đạo giáo. Ngày nay,
sức lôi cuốn của Trời Cao đă
giảm bớt đối với nhiều người,
và người ta quan tâm gắn bó
với trần thế nhiều hơn. Khát
vọng t́m kiếm Thiên Chúa đă
và đang nhường chỗ cho khát
vọng săn đuổi giàu sang,
quyền lực. Thần tượng của
thế kỷ này không phải là các
thánh, mà là những kẻ đạt
tới “đỉnh cao”.
Xoay quanh việc xác định tầm
mức quan trọng cho các tiêu
chuẩn thành công trên đời
này, người ta có hai thái độ
trái ngược nhau. Liệu có nên
tôn sùng và t́m kiếm sự
thành công, cho đó là điều
thiện hảo nhất trong cuộc
đời hay không? Hay ngược lại,
phải kết án chuyện đó bởi v́
nó xấu xa? Những kẻ đầy tham
vọng chấp nhận thái độ cực
đoan đầu. Thái độ sau là của
hai nhóm phản kháng: nhóm vô
chính phủ - lên án mọi thứ
quyền bính, và nhóm Cộng sản
– phỉ báng mọi người giàu có.
Chỉ có một tiêu chuẩn đúng
đắn và đầy đủ lư lẽ để đánh
giá các quan điểm trên đây.
Đó chính là cuộc đời của
Chúa chúng ta. Những chuyện
thuật lại trong Tin Mừng cho
thấy rằng quyền lực và giàu
sang đều là những lư tưởng
và tham vọng chính đáng,
nhưng chúng phải tuân theo
một số qui định mà thế gian
này thường không đếm xỉa ǵ
đến. Những qui định này được
mặc khải cho ta qua cuộc đời
ẩn dật của Chúa Giêsu tại
Nazareth. Đó là hai điều này:
không ai có thể cầm giữ
quyền bính nếu kẻ ấy không
học biết vâng phục, như Đức
Kitô hằng vâng phục cha mẹ
ḿnh vậy. Và không ai có thể
toạ hưởng giàu sang được nếu
kẻ ấy không học biết cách từ
bỏ nó, như Chúa đă làm, Ngài
đă chọn cho ḿnh một nghề
khởi đầu là nghề thợ mộc
nghèo nàn.
Vậy th́, ở đây là Uy Quyền
đă trở thành Hèn Kém, Chủ
trở nên nô lệ, vị Chúa Tể
trở nên kẻ phục vụ. Qui phục
Chúa Cha là khúc dạo đầu cho
các phép lạ và quyền lực kế
tiếp. Và chúng ta cũng phải
bắt chước như thế. Hết thảy
mọi thứ quyền lực… chính
trị, công nghệ, xă hội, kinh
tế… đều phải qui phục Quyền
Năng trên cao và phải khép
ḿnh vào kế hoạch của Thiên
Chúa trước đă, sau đó mới có
thể chính đáng qui phục kẻ
khác được. Quyền lực không
phải được kiểm tra từ phía
dưới, kiểu như thái độ thách
thức vô chính phủ hoặc đảo
chánh, mà chính nó phải biết
tự giới hạn từ trên xuống.
Quyền lực trần thế có quyền
yêu cầu mọi người tuân phục
chỉ khi nào biết vâng phục
Đấng Toàn Năng trên cao.
Quyền bính trần thế được tôn
trọng khi phù hợp với ư muốn
của Đấng Tạo Hoá. Kẻ cầm
quyền chỉ được tôn phục khi
họ biết tôn kính Thiên Chúa.
Với giàu sang cũng vậy: Chúa
đă dạy ta rằng không ai trở
nên giàu sang nếu họ không
học biết từ bỏ nó. Những năm
ẩn dật ở Nazareth không phải
có ư nhắn nhủ ta phải tôn
vinh sự nghèo khổ, cam chịu
những điều kiện sống tồi tệ
nhếch nhác, hoặc sống gian
khổ trong cảnh đói rách bần
hàn. Chúa chúng ta nghèo khó
thật sự. Ngài lao động cật
lực mới kiếm đủ ăn đủ mặc.
Ngài là một thợ mộc nghèo
nàn, nhưng Ngài cũng là một
Thiên Chúa giàu sang, làm
chủ cả thế giới. Ngài c̣n là
vị Thiên Chúa quyền uy nhưng
lại tự ḿnh trở nên hèn kém.
Giàu sang và quyền uy tự bản
thân của chúng đều không có
ǵ xấu xa, bởi v́ chúng
thuộc về Thiên Chúa.
Bởi thế người Cộng sản căm
thù kẻ giàu có chỉ v́ họ
giàu. Người Cộng sản không
hề t́m thấy sự tán đồng của
Kitô giáo trong việc đó.
Không ai có quyền khinh miệt
người giàu có, nếu cũng như
Chúa, họ đă chứng tỏ rằng
ḿnh không bị đam mê chiếm
hữu ràng buộc… và như thế,
họ cũng không muốn miệt thị
ai cả. Cuộc sống đạm bạc ở
Nazareth không phải là để
lên án sự phú quư hoặc tôn
vinh sự nghèo hèn: mà là
minh hoạ cho học thuyết
tuyệt diệu về việc từ bỏ.
Các môn đệ theo Chúa Kitô,
họ cũng dứt bỏ được của cải
để t́m kiếm vinh quang Thiên
Chúa, dù rằng sản nghiệp của
họ chỉ vỏn vẹn một ít ngư
thuyền và lưới đánh cá, và
quí báu nhất là ư chí của
họ.
Thiên Chúa không hề xúi kẻ
nghèo chấp nhận sự nghèo
đói, hay bảo ta phải đi t́m
kiếm bần cùng. Ngài không
tôn vinh người nghèo cũng
như kẻ giàu. Nhưng Ngài đă
khen ngợi người nghèo khó
kia, kẻ đă một thời gian
giàu sang, nay vui ḷng sống
nghèo khổ… chính người
nghèo, do sẵn sàng từ bỏ mọi
sự, mà trở thành có mọi sự -
kẻ nào không muốn ǵ cả, lại
có tất cả. Bởi v́ Thiên Chúa
không hề khuyên răn phải “từ
bỏ” sự phú quư để được sự
“hư không”; đúng hơn, Ngài
thừa nhận việc đánh đổi sự
phú quư để được giàu có lớn
lao hơn trên Nước Trời. Ngài
không bảo “Phúc cho kẻ
nghèo” hay “Phúc cho kẻ
giàu”. Ngài bảo “Phúc cho ai
có tinh thần nghèo khó”.
Cuộc đời ẩn dật ở Nazareth
không chỉ nói lên lư lẽ đơn
giản về “thanh bần” hoặc
“yếu hèn trong sự thánh
thiện”; bản thân những điều
này không phải là nhân đức
theo nghĩa của đạo Công
giáo. Bài học Nazareth dạy
ta biết về sự giàu sang của
những ai đạt tới tinh thần
khó nghèo bằng sự từ bỏ và
về quyền lực của những ai
biết trở nên hèn kém để phục
vụ anh em. Chúa của chúng ta
là Đấng duy nhất từ xưa tới
nay đă đồng hành với thế
giới mà hết thảy những
người, giàu hoặc nghèo, chủ
hoặc tớ, mạnh mẽ hay yếu
đuối đều được quyền gọi Ngài
là Chúa, đều có quyền thành
tâm gọi Ngài là đồng loại
với ḿnh, Ngài là Người như
ta.
Nếu đứng về phía Thiên Chúa,
ta sẽ không ngă ḷng v́ phía
mà ta đă chọn sẽ luôn luôn
chiến thắng, không bao giờ
bị chê cười. Thiên Chúa là
Đấng chiến thắng, và sự dữ
là kẻ chiến bại. Thực tại
luôn luôn đứng về phía Thiên
Chúa.
Sự dữ nhất thiết là bất ổn,
bởi lẽ nó đi ngược lại bản
chất của mọi vật. Mọi định
luật về bản tính con người
của ta thúc đẩy ta hướng về
phía thánh thiện, tương tự
như việc giữ ǵn sức khoẻ
vậy. Nếu ta chăm sóc thân
xác đúng cách, hợp vệ sinh,
ắt chúng ta khoẻ mạnh. Nếu
ta không tuân thủ, ắt sẽ đau
ốm bệnh hoạn… và hẳn ít
người sẽ chịu khó săn sóc
thân thể nếu chưa từng bị
trừng phạt và nhắc nhở do
việc vi phạm cố ư các quy
tắc vệ sinh gây nên.
Ta hoàn toàn tự do, có thể
phá vỡ lề luật Thiên Chúa đă
thiết lập, ở lănh vực này
hoặc lănh vực khác. Nhưng ta
sẽ không tránh né được sự
trừng phạt do việc phá luật
đó. Nhảy từ cửa sổ xuống đất
không hề phá được luật hấp
dẫn, nhưng liệu đấy, coi
chừng mất mạng đó! Nên nhớ
là bao giờ thiên nhiên cũng
đứng về phía Thiên Chúa; nó
có thể cưỡng lại ư muốn của
ta, nhưng không khi nào
chống lại Thiên Chúa. Và
điều này cũng đúng như thế
trong lănh vực luân lư lẫn
vật lư.
Khi người ta phạm tội, Thiên
Chúa không cần can dự ra tay
trừng phạt, bởi lẽ ta không
thể nào chống lại Thiên Chúa
mà không tự chống lại ḿnh.
Đó là bản chất con người
được Thiên Chúa tạo ra như
thế. Nếu ta phá vỡ qui luật
tiết độ, ta sẽ bị nhức đầu.
Thiên Chúa không phái cơn
nhức đầu đó đến cho ta bằng
một chiếu chỉ đặc biệt nào
cả, Ngài đă thiết lập sẵn
trong ta qui luật này: hễ
làm điều xấu, sẽ nhận được
hậu quả xấu xa. Thi sĩ
Francis Thompson diễn tả
rằng ngay cả các đồ vật cũng
chống lại ta khi ta không
dùng chúng đúng với mục đích
của Chúa. Ông ta đă gọi các
đồ vật đó là các “đầy tớ”:
“Tôi đă cám dỗ các đầy tới
của Ngài,
Để rồi chỉ thấy tính kiên
định của chúng phản lại tôi.
Bởi chúng trung thành với
Ngài
Chúng hờ hững với tôi.
Ra chúng chân thật mà lại
phản bội,
Chúng lừa dối mà lại chân
thành”.
Khi thánh Phêrô chối Chúa,
gà gáy làm ông đau khổ. Cả
đến con gà cũng chống lại
Phêrô. Thiên nhiên đứng về
phe Thiên Chúa mà!
Khi ta chối bỏ lề luật luân
lư, ta sẽ chịu đau khổ…
Không hẳn v́ ta cố ư làm xấu
cho bằng v́ ta đă thách thức
một sức mạnh dũng lực hơn
ta: đó là thực tại. Khi phạm
tội, ta gây nên một hậu quả
mà ta không định trước được;
đối với các hành động thiện
hảo th́ lại không gây ra các
hậu quả đó. Ví dụ, nếu tôi
dùng cây viết ch́ để viết,
nó vô hại. Nhưng nếu tôi
dùng nó để đục lon sữa ḅ,
nó sẽ găy ngay thôi. Tôi đă
dùng cây viết ch́ ngược với
mục đích của nó, thế là tôi
phá huỷ nó.
Nếu tôi sống với mục đích
cao thượng hơn… phù hợp với
chân lư và t́nh yêu… tôi sẽ
hoàn thiện cuộc đời tôi. Nếu
tôi chỉ biết sống theo bản
năng thú vật, ắt tôi sẽ ê
chề tựa như thể tôi dùng dao
lam để gọt đá tảng vậy.
Sự dữ hằng tàn phá chính bản
ngă ta. Nếu tôi sống đúng
như tôi phải sống, tôi sống
thành nhân. Nếu tôi sống tuỳ
hứng, tôi trở thành thú vật,
một con vật bất hạnh. Đây
chẳng phải là kết quả do tôi
xếp đặt, thế mà tôi vẫn
không thể nào thoát khỏi
được. Người ăn nhậu triền
miên không hề có chủ tâm tàn
huỷ sức khoẻ ḿnh; nhưng
thực sự kẻ ấy đang cố huỷ
diệt ḿnh. Kẻ tham mê ăn
uống không kể ǵ đến bệnh
tật về tiêu hoá, nhưng thực
sự kẻ ấy sẽ mắc loại bệnh ấy.
Tên ăn trộm không muốn bị
bắt bỏ tù, nhưng rồi hắn sẽ
vô tù.
Khi người lữ khách chối từ
tuân theo các bảng chỉ dẫn
đường đi, dĩ nhiên anh ta
vẫn có thể tiếp tục dấn bước
nhưng cuối cùng rồi sẽ thất
vọng v́ không đến được đích.
Sự vô trật tự là một ông
thầy nghiêm khắc, chậm răi
nhưng chắc chắn. Dân Tây Ban
Nha có một câu tục ngữ “Ai
phỉ nhổ Thiên Chúa là phỉ
nhổ chính ḿnh”. Sự dữ có
thể chiến thắng trong chốc
lát. Trận đầu nó thắng đấy,
nhưng kết cục nó sẽ thua.
Caesar đă xây dựng đường xá
hầu đánh thắng, chinh phục
toàn thế giới bằng quân sự,
nhưng trên những con đường
này, thánh Phêrô và Phaolô
đă đi rao giảng Tin mừng.
Bởi vậy, cuối thế kỷ này ta
sẽ chứng kiến các nhà khoa
học và triết gia sẽ lục lọi
các giỏ rác trong các đại
học hầu nhặt nhạnh những
Chân lư thánh thiện mà thế
kỷ 18 và 19 đă loại bỏ.
Bởi lẽ sự thiện th́ trường
tồn, c̣n sự dữ th́ tiêu vong.
Đức cha Fulton Sheen. (Nguyên
tác: Way to Happiness)