Kỵ Binh Thiết Giáp
|
|
“ Chí làm trai dặm ngh́n
da ngựa,
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa
hồng mao
Gĩa nhà đeo bức chiến
bào
Thét roi cầu Vị ào ào
gío thu ”
(Chinh Phụ Ngâm)
|
Vừa diêt giặc, vừa bảo
vệ dân...
|
NGUYỄN Đ̀NH PHÚC
au tạp bút về Không Quân lần này
người viết xin tiếp qua Thiết
Giáp. Cũng thưa ngay tạp bút chỉ
là những mảnh vụn tâm t́nh, suy
tư riêng về người lính Mũ Đen
anh hùng.
Hồi c̣n nhỏ ở Hà Nội một thời
tôi từng say mê mấy “quan tàu
bay”, ít năm sau cha mẹ về khu
phố cổ Mă Mây-Hàng Bạc gần nhà
cụ thân sinh một “quan tàu ḅ”
tôi thêm một thần tượng mới. May
sao được gần toàn thần tượng tàu
bay, tàu ḅ nếu như gần khu “chị
em ta” hay “các tay anh chị”
chắc đời tôi xuống dốc từ khuya
khác nào chuyện bà Mạnh Mẫu bên
Tàu mấy ngàn năm trước. Chuyện
kể khi Bà ở gần nhà một đồ tể,
từ tinh mơ đă nghe tiếng súc vật
bị giết thịt kêu eng éc, c̣n cậu
con tập ngay “mài dao, thọc
huyết…”. Sau dọn đến bên một
thầy pháp, đêm ngày lại bị trống
phách ầm ĩ, con Bà cũng đổi
“job”, ra sức tập luyện “phù
phép, sai âm binh…”. Mạnh Mẫu sợ
hăi “moving” gấp đến bên nhà một
thầy đồ (thầy giáo), con Bà từ
đó bắt chước khuya sớm sách đèn.
Một ngày nghỉ, thần tượng “tàu
ḅ” mặc quân phục, vai mang
“lon” một vạch trắng lấp lánh
đến thăm cha tôi nhưng không gặp.
Khi cha về, tôi nói vừa có một
Thượng Sĩ ghé chơi. Ông cười nói
khách là Sous-Lieutenant Blindé
(Thiếu Úy Thiết Giáp), v́ tôi
thấy vạch trắng (ngân tuyến)
tưởng lầm là Adjudant (Thượng Sĩ),
nhưng các Adjudant, Aspirant (Thượng
Sĩ, Chuẩn Úy) thời đó đều có một
sợi chỉ rất nhỏ chạy dọc theo
hay hai sợi chỉ vắt ngang vạch
ngân tuyến. Tôi càng thêm ngưỡng
mộ v́ thần tượng là Quan Một
“tàu ḅ” (1) chứ
không phải “Ông Ách”. Nhờ đó
được biết Hải Quân, Không Quân
và Thiết Giáp măi sau này, nhiều
nước vẫn giữ truyền thống quốc
tế mang cấp bậc vạch vàng (kim
tuyến) trên vai, riêng Thiết
Giáp oai hơn độc quyền mang toàn
vạch trắng.
Từ đó mỗi khi thoáng thấy thần
tượng tôi đều dơi mắt ngắm nét
oai hùng. Vắng một thời gian,
lần kia ông trở về chống nạng,
chân bó bột. Nh́n bước ông khập
khễnh đi bên bà vợ cao dong dỏng
càng thêm kính mến. Chắc chẳng
khi nào ông biết có một cậu trai
cứ âm thầm theo dơi đời chiến
đấu oai hùng của ông cho đến giờ
đây, 50 năm đă qua vẫn c̣n ngồi
ghi lại. Tôi sẽ trở lại Lữ Đoàn
Thiết Kỵ của ông, nay viết đến
một thần tượng khác cùng thời
cũng liên hệ đến Thiết Giáp.
Hà Nội vào những năm 50, thanh
thiếu niên hay những người yêu
thể thao không ai không ái mộ
các ông Long, Quí, Vinh... Đây
là lớp huấn luyện viên người
Việt đầu tiên thay người Pháp.
Hàng ngày mấy ông chạy Vespa, áo
quần bó sát phô diễn thân h́nh
cao khỏe đẹp, đến huấn luyện học
sinh các trường lớn trước bao
nhiêu cặp mắt thán phục. Ông
Vinh khi động viên lớp Sĩ Quan
cũng được tuyển sang Thiết Giáp,
cùng đơn vị với Thiếu Úy Lư Ṭng
Bá sau này lên Tướng. Mười năm
trước tôi được gặp ông ở Canada
mới hay v́ gia đ́nh kẹt ngoài
Bắc nay đă 76 nhưng vẫn tráng
kiện, vẫn ra sân tennis. Sau năm
75 ông vào Nam, ra Vũng Tàu chơi
để t́m lại kỷ niệm những ngày
phép Thủ Đức xưa. Ông vào cửa
hàng mua ít món đồ cùng hỏi thăm
về người bạn đồng ngũ trước 54
là Lê Đức Đạt. Người bán cho
biết có thời ông Đạt làm Tỉnh
Trưởng ở đây rồi làm Tư Lệnh
nhưng đă tử trận. Người này nói
dù chẳng hề quen ông Đạt, nhưng
nếu khách có mối thân t́nh, th́
để tỏ ḷng với người đă hy sinh
chủ tiệm xin thay người đă khuất
tặng không làm kỷ niệm. Ông ngạc
nhiên trước t́nh người dân đối
với người lính ở miền Nam dù đă
đổi đời khác hẳn sự tuyên truyền,
xuyên tạc của CS. Nhớ lại 1954,
55 trong chiến dịch tiếp thu
vùng B́nh Định Phú Yên, là vùng
Việt Minh, dân chúng kéo nhau
tới rờ mó, gơ vào chiến xa rồi
lấy làm lạ nói với nhau: “bằng
sắt cả, sao Việt Minh (CS) bảo
xe tăng Pháp chỉ bằng b́a lấy mă
tấu chém cũng đứt?”.
Trong lịch sử, hầu hết các danh
tướng đông tây, cổ kim nên đại
nghiệp, tạo chiến công lừng lẫy
đều có những tuấn mă (Hạng Vơ
với Ô Trùy, Lă Bố, Quan Vũ với
Xích Thố, Lưu Bị với Địch Lư…),
hay Mông Cổ với những đoàn kỵ
binh mà cả đời người kỵ mă chinh
chiến, ăn ngủ trên lưng ngựa.
Sau này Napoléon, Patton cũng
thành bất tử với thiết kỵ, những
danh tướng Pháp tại Đông Dương
như De Lattre, Leclerc, De
Castries đều thuộc Thiết Giáp.
Âu Châu xưa hàng quư tộc có
truyền thống cho con cháu vào Kỵ
Binh (Cavalier). Tôi nhớ được
xem cuốn phim quay cảnh một
trang thanh niên oai phong phi
ngựa nước đại giữa đoàn kỵ mă
tùy tùng, đàn chó săn mấy chục
con sủa inh ỏi chạy quanh, tiến
vào một doanh trại. Binh sĩ
hoảng hốt xếp hàng súng gươm
chào kính tưởng chừng vị Công
Hầu, Tướng Lănh nào bất thần đến
thanh tra. Viên chỉ huy vội chạy
đến trước ngựa kính cẩn chào đợi
lệnh. Lúc đó “chàng tuổi trẻ vốn
ḍng hào kiệt” mới uy nghi hạ mă
cho biết chỉ là con một … Công
Tước đến xin nhập học trường Kỵ
Binh. Chuyện nàng Công Chúa Anh
từng yêu một sĩ quan kỵ binh,
chắc hẳn cũng v́ phong thái mă
thượng. Chữ Hán viết về người
con gái lên xe hoa là vu quy,
nhưng với Công Chúa có riêng từ
“hạ giá” hay “hạ mă” và chàng
trai được diễm phúc sẽ là Pḥ Mă
(phải chăng nguyên nghĩa là kẻ
giữ ngựa?).
“Măi mă cốt” kể chuyện một Vương
gia mưu dựng nghiệp hễ nghe đâu
có ngựa quí liền mua bất kể giá
cả. Lần nọ, viên quan lănh mệnh
ra đi nhưng đến nơi, ngựa vừa
chết. Ông vẫn cho đào bộ xương
c̣n trả gía gấp đôi mang về
triều. Vương ngỡ ngàng hỏi:
“ngựa ngàn vàng đă đắt, sao bộ
xương c̣n trả gấp đôi?”. Viên
quan tâu: “mỗi khi nghe đâu có
tuấn mă, giá nào vương gia cũng
thuận nhưng vẫn chưa mua đủ số.
Nay nếu thiên hạ đồn nhau rằng
bộ xương ngựa quí vương gia c̣n
trả gía hậu như vậy hỏi sao
thiên hạ không mang hết đến bán
cho Ngài”. Quả nhiên, sau đó tất
cả ngựa quí trong thiên hạ đều
về tay Vương gia.
Trong quân lực Pháp cấp bậc tột
cùng là Thống Chế (Maréchal 5,6
sao như Maréchal Juin, Maréchal
De Latttre) và Pháp ngữ để chỉ
người đóng móng ngựa là Maréchal…ferrant
(blacksmith) không rơ có liên hệ
ǵ hay người xưa cũng muốn cho
anh thợ đóng móng ngựa dự phần
vinh quang với vị thống soái
chăng?
Thiết Giáp Binh Việt Nam ra đời
vào năm 1950, tiếp nhận một số
chiến xa Sherman M4 A1 (2) là
chiến xa chủ lực của Mỹ, thiết
giáp xa M8, Scout Car M3 (thuộc
SĐ 2 TG Pháp trong thế chiến 2),
các xe “Cua Bể”, “Cá Sấu” “ Nồi
Đồng”… từ đơn vị thiết giáp Pháp
nhưng nh́n chung đều cũ kỹ,
thiếu cơ phận... Thiết Giáp là
nơi xuất thân của nhiều tướng
lănh sau này như Vĩnh Lộc, Hoàng
Xuân Lăm, Nguyễn Văn Toàn… các
tướng Lư Ṭng Bá, Trần Quang
Khôi được ngoại quốc xưng tụng
“Patton Việt Nam”.
Trong phạm vi hành chánh, chúng
tôi thường chỉ quen thuộc với
Chi Đội Cơ Giới thuộc tỉnh đoàn
Bảo An gồm Thiết Xa Ford Lynk,
xe GA và các Chi Đội Thám Xa
Commando Car V 100 của các tiểu
khu giúp an ninh lộ tŕnh.
Ra hải ngoại, nhiều lần la cà
các khu vực bán đồ quân đội phế
thải bắt gặp các loại xe này nằm
phơi mưa nắng ḷng thấy bồi hồi.
Từ những năm 54, 55 các Tiểu
Đoàn, Trung Đoàn thiết giáp ra
đời, với những chiến xa M-24 rồi
theo cường độ chiến tranh vào
đầu những năm 60 chúng ta tiếp
nhận thêm những Chiến Xa M-41,
Thiết Quân Vận M 113 từ Hoa Kỳ.
Nhớ lại chuyện vui xin coi là
“Thiết Giáp Binh ngoại truyện”.
Lúc quân đội Pháp sắp hồi hương,
một số đơn vị tập trung tại
Barịa-Vũng Tàu tôi được biết
chuyện Th/Tá Đỗ Hữu Độ TgĐT/TgĐ
12 năm đó đồn trú tại đây (sau
này là TT/HLQG Vạn Kiếp) thấy
Pháp xếp súng đạn từng đống như
củi, trong lúc ta thiếu thốn nên
ông cho thuộc cấp phục rượu (thêm
thuốc ngủ) để lấy súng máy, súng
lục, Garant M1 (thời đó phần
đông bộ binh ta chỉ mới có Mas
36) nhất là tính lấy luôn cả 5,
7 chiếc chiến xa (rủ lính TG
Pháp đào ngũ) lái chạy vào tạm
dấu trong rừng. Kế hoạch bại lộ
v́ có anh Pháp báo an ninh, nên
chỉ mới lấy được một số súng.
Việc này lên đến Đại Sứ Pháp,
rồi qua Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm,
tạo hậu quả lôi thôi vuợt phạm
vi quốc gia. Thiếu Tá Độ phải
tŕnh diện SĐ nhưng may được
thượng cấp che chở, bỏ qua cho
rằng cũng chỉ do ḷng yêu nước.
Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ lúc đó chỉ
huy THD/SĐ 4 biết chuyện này,
sau được chính Th/Tá Độ kể lại
nên đă viết ra. Mới đây tôi cũng
có dịp điện thoại thăm Đại Tá
Duệ và hỏi thêm chi tiết.
Năm 1966 tôi vào trường Bộ Binh
Thủ Đức thời gian này chỉ c̣n
lại trường Vơ Thuật và Thiết
Giáp. Chiều chiều SVSQ thường
kéo nhau xuống khu gia binh
Thiết Giáp kiếm chè cháo hay
những bữa cơm canh chua, cá thịt
kho hoặc anh nào muốn “dù” sẽ
chui qua ”khe sanh” nhẩy xe Lam
về Sài G̣n lỡ “dù không bọc” lộn
trở lại cũng “an toàn” coi như
dạo mát.
Phía trước bộ chỉ huy trường,
chiếc thiết giáp đặt trên bệ
xi-măng nằm nghiêng dăi dầu mưa
nắng ngày đêm như thân phận
người lính chiến. Điều lạ mắt là
chiếc béret đen trên đầu Thiết
Giáp xếp ngược lại so với Bộ
Binh.
Rời trường Bộ Binh, trở về nhiệm
sở Long Khánh, tôi có anh Đào
Văn Định, gốc Thiết Giáp giải
ngũ vừa đắc cử Xă Truởng B́nh
Lộc. Anh là một cán bộ xă ấp ưu
tú, nhất là tinh thần chống
cộng, “máu Thiết Giáp” trong anh
vẫn sôi sục như xưa. Nếu chọn
đời sống an nhàn, hạnh phúc khi
được giải ngũ chỉ cần chiếc xe
Lam đưa khách gia đ́nh cũng đủ
yên vui. Trái lại cứ nghe đến
hai chữ VC là anh đứng ngồi
không yên. V́ thương tích anh
phải xa chiếc Thiết Giáp lại
tiếp tục chiến đấu, quần thảo
với VC bên những Nghĩa Quân,
NDTV người Thượng lưng chỉ có
chiếc gùi nhưng ḷng căm thù CS
cao sâu như dăy Trường Sơn. Anh
nhờ cơ xưởng đồn điền chế súng
cối, ḿn bẫy… săn nhặt từng viên
đạn tích trữ. Từ các ấp hạng C
lần lần đưa hết lên A hay B, đưa
được dân trở về ấp cũ đă mất.
Sau mấy năm công việc b́nh định
gần hoàn tất, anh phải ra đi v́
tṛ chơi dân chủ: thất cử trước
một đối thủ kém khả năng nhưng
nhiều mánh lới.
Một khuôn mặt khác, tiêu biểu
cho sự phấn đấu tôi rất ngưỡng
phục, cũng t́nh nguyện đứng
trong hàng Kỵ Binh: Bác sĩ Trần
Công Luyện. Tôi được biết xưa
kia ông chỉ là một sĩ quan Bảo
Chính Đoàn (địa phương quân), tự
trau dồi văn hóa chuyển sang
chính qui, di cư vào Nam, được
giải ngũ lần lượt học và tốt
nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm, Cử Nhân
Luật, học Nha ít năm rồi vào Y
Khoa, tốt nghiệp chọn về làm Y
Sĩ Trưởng Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh,
cũng xông pha, lặn lội ngoài
chiến trường. Sau về Quân Y Viện
đến 30-4, tù cải tạo như các
chiến hữu, ra tù đưa gia đ́nh
vượt biên, tiếp tục học để trở
lại hành nghề cùng lúc nuôi gần
mười con đều thành đạt. Ngày
thành hôn con tôi, nhắc lại tấm
gương, ông cười chúc đôi tân
hôn: “điều ǵ cũng nên hơn ông
bà, riêng việc sinh con chỉ nên
theo bằng nửa.”
Trở lại thần tượng “tàu ḅ” lúc
thiếu thời của tôi, khi tôi về
tỉnh Long Khánh Ông đă trở thành
Tư Lệnh Lữ Đoàn Kỵ Binh (tôi
viết chữ Ông hoa để tỏ ḷng kính
phục). Dù không đội béret đen
của người lính thiết giáp nhưng
tôi cũng biết từ chiến mă đến
những chiến xa, thiết giáp,
không kỵ ngày nay đều đ̣i hỏi
nhiều yếu tố rất cần để có thể
phát huy khả năng tác chiến. Xưa
kia, nói đến lương thảo là ngoài
lương (lúa gạo) cho sĩ tốt không
thể thiếu thảo (cỏ) cho voi ngựa
như nhiên liệu, cơ phận cho
chiến xa. Tôi chỉ là một khinh
binh, cầm súng cá nhân bắn trên
thao trường đă khó trúng bia,
huống chi một chiến xa, thường
di động, có những vũ khí bắn đạn
đạo cầu vồng, mục tiêu sát bên
quân bạn hay đă “trộn trấu” th́
sao diệt địch, yểm trợ nếu không
có cấp chỉ huy, pháo thủ đủ kiến
thức chuyên môn, kinh nghiệm
chiến trường. Những thân cây
chuối bổ dọc mang bên sườn chiến
xa, thiết giáp giúp giảm thiểu
sức công phá đạn địch chẳng phải
chỉ áp dụng từ khi được lệnh
“đánh giặc theo kiểu nhà nghèo”
mà tổ tiên ta luôn dùng mưu trí
từng đóng cọc ḷng sông chống
Hán, Nguyên, dụ voi giặc Lào vào
vùng sẵn hầm hố ngụy trang, quân
cảm tử núp dưới dùng tre đực (ruột
tre đặc) vạt nhọn đâm kẽ chân để
voi thối lui đạp lên quân giặc.
Thời nay sử dụng chiến xa, thiết
giáp trên mỗi chiến trường, mỗi
chiến lược, chiến thuật… không
phải tướng lănh nào cũng cùng ư
kiến. Tướng Westmoreland cho
rằng địa thế Việt Nam chỉ có thể
dùng chiến xa ở vùng ven biển,
trái lại cao nguyên, núi và rừng
không thể. Phải chờ sau 68,
thiết giáp binh VNCH tạo được
chiến thắng lớn trên nhiều địa
thế tướng Westy mới đổi nhận
định cũ. Nhị thức bộ binh-thiết
giáp được cấp chỉ huy đủ tài ba
vận dụng sẽ chiến thắng, trái
lại không đủ bản lĩnh, chiến
thuật tùng thiết không nhịp
nhàng khó tránh thất bại giống
như tăng CSBV chạy lơ ngơ, làm
mồi cho bộ binh tiêu diệt dễ
dàng. Thêm nữa nếu xé lẻ, hay để
mất di động tính, mất thế tiến
công sẽ như thiết giáp Pháp xưa
kia trong chiến dịch biên giới (miền
Bắc) hay Điện Biên chỉ đưa đến
thảm bại oan uổng. Điều này khác
ǵ trong lịch sử việc dùng voi
xung trận cũng đă không đơn giản:
voi của Hưng Đạo Vương sa lầy
phải bỏ lại bên sông, trong khi
những thớt voi của Vua Quang
Trung thần tốc, dũng mănh dẫn
đầu quân Tây Sơn vào thành Thăng
Long trong mùa xuân Kỷ Dậu.
Kỵ Binh cùng hầu hết quân binh
chủng ta vào trận Hạ Lào khó
khăn, bất hạnh ngay từ tuyến
xuất phát để rồi chịu những đau
thương đâu phải chiến sĩ ta
thiếu ḷng quyết tử, khả năng
chiến đấu. Mùa hè đỏ lửa KonTum
kiêu hùng, phá tan lực lượng mặt
trận B3 của CSBV ngoài tài dụng
binh của “Patton Việt Nam” tướng
Lư Ṭng Bá, ḷng “quyết chiến
quyết thắng” của chiến sĩ SĐ 23,
các quân binh chủng chủ lực, địa
phương nhưng pháo đài bay B52
trải thảm mănh liệt, vận tải cơ
khổng lồ C123, C130 chuyển vận
thần tốc cả trung đoàn 44 không
phải là những yếu tố góp vào
chiến thắng hay sao?
Sau hiệp định Paris, Ngày Quân
Lực 19-6-1973, tướng Bá dẫn đầu
đoàn chiến xa là một trong những
h́nh ảnh oai hùng của quân lực,
nhưng cũng có thể qua đó “đồng
minh” muốn “rửa tay” ngầm cho
thế giới hiểu “Việt Nam hóa
chiến tranh” thành công, Hiệp
Định Paris đă kư, miền Nam c̣n
hay mất không phải tại Mỹ. Chẳng
biết ư nghĩ này đúng hay sai?
Tấn công là cách pḥng thủ hữu
hiệu nhất: Tướng Đỗ Cao Trí Tư
Lệnh QĐ III sinh thời nổi tiếng
xông xáo, chiến trường đụng là
ông đáp ngay tuyến đầu. Ông tung
sáng kiến chiến lược: tổ chức
Lực Lượng Xung Kích hợp đồng
cùng Lữ Đoàn Thiết Kỵ làm trừ bị
Quân Đoàn, như lưỡi khoan thép
sẵn sàng phóng vào mục tiêu. Là
hợp đồng Liên Quân ở tầm vóc cao
nhất, tài năng Tướng Thiết Giáp
Trần Quang Khôi tạo điều kiện
mọi cánh quân phát huy hết sở
trường.
Những năm tháng đó qua truyền
thông, báo chí những ai quan tâm
đến cuộc chiến cũng thấy được
hiệu năng tác chiến của Lực
Lưọng Xung Kích với Lữ Đoàn Kỵ
Binh ṇng cốt. Nó đă quần thảo
với các Công Trường 5,7,9 của
CSBV qua nhiều địa danh Đambe,
Krek, Snoul, tiếp cứu Chiến Đoàn
5 BĐQ, CĐ8/SĐ5BB ở Snoul triệt
thoái… Sau thời gian bị giải thể,
Lực Lượng được tái tổ chức năm
73 với 3 Chiến Đoàn gồm liên
binh những đơn vị hàng đầu của
QLVNCH hiệu năng tác chiến càng
lên cao khác nào sấm sét giáng
xuống quân địch. Người viết muốn
nhắc lại 5,7 ngày cuối tháng
4-1975 của Lực Lượng này khi
t́nh h́nh buộc chuyển sang thế
ngăn chặn, lui binh.
Ngày 25, vùng trách nhiệm của Lữ
Đoàn và Lực Lượng là thành phố
ninh chung khu vực vẫn yên tĩnh.
Tướng Khôi, tư lệnh mặt trận khi
được yêu cầu của tân Tổng Thống
Dương Văn Minh cố giữ đến 8 giờ
sáng ngày 30 để chờ một giải
pháp, Ông xác nhận đủ sức chấp
hành. Quá hạn định, không được
một lệnh nào khác, Tướng Khôi và
bộ tham mưu nhận định Biên Ḥa
không c̣n là mục tiêu của địch
nữa, phải lui binh về bảo vệ thủ
đô Sài G̣n. Cuộc lui binh hoàn
toàn tốt đẹp từ ư niệm điều quân,
kỷ luật và tinh thần chiến đấu.
Ông vẫn cố liên lạc với các cấp
chỉ huy theo hệ thống dọc ngang
(Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp, Quân
Đoàn và TTM), nhưng các cấp chỉ
huy đă ra đi. Sau khi DVM đọc
lệnh đầu hàng, Ông mới để các
đơn vị trực thuộc tùy quyền.
Ai cũng biết lui binh là thế
trận khó khăn hơn hẳn tấn công,
bảo toàn lực lượng khi triệt
thoái nói lên tài năng vị chỉ
huy. Thời Tam Quốc có mấy cuộc
lui binh đáng kể nhưng theo
người viết riêng cuộc rút quân
của Khương Duy từ Kỳ Sơn về lại
thành đô là khó khăn nhất: Quân
Sư Khổng Minh vừa mất trong quân,
tinh thần tướng sĩ giao động,
nội bộ phân hóa (Ngụy Diên mưu
phản), Tư Mă Ư truy kích rất rát,
nhưng Khương Duy vẫn ổn định
được ḷng tướng sĩ, bảo vệ di
hài chủ tướng, thanh toán nội
phản, cầm chân được giặc. Khi Tư
Mă Ư không c̣n đuổi kịp quân
Thục, ngửa mặt lên trời than
tiếc: “Khương Duy đă học hết tài
Khổng Minh rồi!”
Qua ít trang tạp bút về Kỵ Binh
Thiết Giáp, nhân ngày 30 tháng
tư, người viết có vài suy nghĩ
thay phần kết.
Phải chăng cuộc chiến 1945-75 vô
ích chỉ mang lại kết cuộc bi
thảm?
Trước 54 đến 1975 ở những miền
đất thuộc chính quyền Quốc Gia
và Miền Nam Tự Do nhân dân cũng
đă từng bước xây dựng và được
hưởng một nền Dân Chủ, Tự Do,
Tiến Bộ. Nếu Quân Dân không đồng
tâm chung sức chiến đấu chúng ta
có được hạnh phúc đó hay toàn
dân đă phải sống dưới ách độc
tài Cộng Sản từ khi chúng mượn
chiêu bài kháng chiến dành độc
lập năm 1945? Chẳng những thế
mấy trăm triệu dân các nước Đông
Nam Á có cơ hội ḥa b́nh để phát
triển thành những Con Rồng kinh
tế hay tất cả chỉ có một Con
Rồng Đỏ CS ngự trị? Nếu không
nhận chân được giá trị chiến đấu
và món nợ máu xương đối với các
chiến sĩ QLVNCH lư do nào khiến
các nước láng giềng phải mở cửa
cho thuyền nhân tạm cư trước khi
được một quốc gia đệ tam tiếp
nhận?
Dương Văn Minh đầu hàng giúp cho
dân quân cán chính khỏi phải đổ
máu thêm vô ích?
Nguyên vẹn Quân Đoàn IV Miền Tây
và những đơn vị như Lữ Đoàn 3
Thiết Kỵ & Lực Lượng Xung Kích
trên đây nếu tiếp tục được chiến
đấu, kháng cự bằng sự lănh đạo
xứng đáng, có thể góp phần vào
một giải pháp nào đó chẳng hơn
buông súng vô điều kiện? Không
phải hy sinh mạng sống ngày 30-4
nhưng mấy trăm ngàn người chết
trên biển Đông, mấy trăm ngàn
quân cán chính chết dần ṃn
trong các trại tù cải tạo, hàng
chục triệu đồng bào từ 30 năm
nay sống kiệt quệ tinh thần, thể
chất, đất nước xuống hàng nghèo
đói nhất thế giới do chế độ CS…
giá nào mắc hơn?
NGUYỄN Đ̀NH PHÚC