Những
lực lượng thiên nhiên không hề mang tính
luân lư: chỉ có loài người sử dụng hoặc lạm
dụng chúng mà thôi. Điện năng th́ hữu ích
thật đấy - miễn là mỗi chỗ ta ngồi đều không
được biến thành ghế điện. Lửa dùng để nấu
chín thức ăn th́ tốt, nhưng để đốt phá nhà
cửa th́ quả là xấu xa. Thuốc men dùng để
giúp ta bớt đi những cơn bệnh đau đớn, nhưng
nếu rơi vào tay kẻ tội phạm th́ tai hại vô
cùng. Cũng thế, bom nguyên tử chẳng đe dọa
ai cả. Chính con người mới làm ta phập phồng
bất an.
Thế
nhưng tại sao loài người lại hao phí công
sức t́m cách hủy diệt nhau? Câu trả lời áp
dụng cho thời đại ngày nay là: chính sự
thoái hóa. Ngày nay người ta quá quen với
khái niệm tiến hóa, loài người nhiệt t́nh đă
có lúc cho rằng nhân loại tiến bộ là chuyện
đương nhiên và chắc chắn. Nhưng ngày nay họ
không c̣n thú vị ǵ khi cho rằng gốc gác con
người là do khỉ vượn tiến hóa mà thành.
Người b́nh dân ít c̣n nghĩ ngợi về sự tiến
hóa, th́ sự thoái hóa lại được nêu ra một
cách thật đáng buồn. Sự thể là con người
càng chế ngự được thiên nhiên chừng nào th́
họ lại không làm chủ được bản thân chừng ấy.
Con người đă trở thành nạn nhân cho chính
những phát minh của ḿnh.
Sự
thoái hóa của con người trải qua 3 giai
đoạn, giống như trường hợp ta thấy được
trong câu chuyện kể về cậu con quay lưng lại
với cha ḿnh, người đă dùng thái độ nhân từ,
thương yêu và tha thứ để khuyên nhủ con ḿnh
phải tuân giữ lề luật đạo đức.
Giai
đoạn đầu tiên là sự dửng dưng: cậu con lảng
tránh người cha, không màng chi đến lời dạy
dỗ. Cậu nghĩ rằng những lời giáo huấn này
chỉ tổ hạn chế tự do của ḿnh, không cho
ḿnh làm theo những ǵ ḿnh thích. Khẩu hiệu
của cậu lúc này là “Ông già lỗi thời rồi”.
Giai
đoạn thứ hai: khi cậu con càng ngày càng dấn
thân vào đời sống vô luân, th́ sự dửng dưng
sẽ biến thành căm ghét. Cậu không c̣n nghĩ
cha ḿnh là người cha nữa, và gọi ông là “đồ
điên”.
Giai
đoạn thứ ba: sự căm ghét cha ḿnh được mở
rộng ra thành sự căm thù cả thế giới. Cậu
thanh niên phàn nàn “chẳng ai hiểu cho ḿnh
cả”. Lương tâm cậu không cho phép cậu sống
an ổn với chính ḿnh và do đó cậu chẳng thể
sống ḥa hoăn với bất kỳ ai.
Con
người xa khỏi ḷng yêu mến Cha trên trời của
ḿnh cũng theo tŕnh tự ba giai đoạn như
vậy. Giai đoạn đầu: y từ chối có Thiên Chúa.
Y cho rằng các điều răn của Chúa chỉ là “kỳ
đà cản mũi” không cho ḿnh sống thoải mái.
Để biện hộ cho các hành vi sai phạm y cho
rằng “Thiên Chúa chỉ là chuyện hoang đường”.
Ở
giai đoạn hai: con người chối bỏ luôn bản
tính của Thiên Chúa: y coi Thiên Chúa như kẻ
thù. Bọn Pharisiêu cho Chúa Giêsu là quỷ sứ;
họ cho Ngài là Chúa của sự ác chứ không phải
là Chúa của sự thiện.
Ở
giai đoạn ba: sự căm ghét Thiên Chúa biến
thành nỗi căm thù đồng loại. Kẻ nào đă ra
công t́m giết Thiên Chúa bao giờ cũng đi xa
hơn nữa: họ t́m cách giết anh em, v́ kẻ nào
đă cắt đứt một sợi dây yêu thương nào đó
rồi, kẻ ấy không thể yên tâm được và phải ra
tay cắt đứt cho bằng hết mới thôi. Tục ngữ
Tây Ban Nha có nói: “Ai phỉ nhổ Trời, kẻ ấy
tự phỉ nhổ vào mặt ḿnh”. Nền văn minh nào
đă xua đuổi Thiên Chúa đi, tất yếu các thành
viên sẽ trở nên độc ác và tàn bạo với nhau.
Ḷng căm thù đồng loại, kết quả của ḷng căm
ghét Thiên Chúa, được biểu lộ hữu h́nh ở bom
nguyên tử: con người đă không thể sống với
Chúa nay lại không thể chia sẻ quả đất này
với anh em ḿnh nữa.
Câu
trả lời không nằm ở việc “kiểm soát nguyên
tử”, mà nằm ở việc kiểm soát con người. Khi
những em học sinh liệng đá làm vỡ kiếng cửa
sổ, hẳn ta không t́m cách kỷ luật ḥn đá mà
là phải kiểm soát các học sinh. Các tổ chức
quốc tế chẳng thể ngăn chặn được ng̣i nổ
chiến tranh nguyên tử bao lâu con người chưa
biết tự kiềm chế và yêu mến phục vụ Thiên
Chúa - đó mới chính là công việc của mỗi cá
nhân mà chẳng có “hội nghị” nào làm thay
được cả. Chỉ có một cách duy nhất để xóa
sạch ḷng hận thù trên thế gian này: con
người chỉ có thể biết yêu thương anh em, và
hơn nữa yêu cả kẻ thù, khi nào họ biết quay
về với chính Đấng Yêu Thương, và nh́n nhận
Ngài là Đấng tác tạo nên mọi người và yêu
thương hết thảy. Chỉ khi đó họ mới yêu
thương nhau được.
Những
người “thực tế” có thể phản đối không chấp
nhận như thế, họ vặn lại rằng nếu thế giới
này chỉ có 50% biết quay về với Thiên Chúa,
và 50% kia vẫn tiếp tục căm ghét Ngài th́
sao? Điều này giống như trường hợp một đứa
bé cứ sợ vấp té khi đi lên cầu thang vậy.
Nhưng bên cạnh chú bé vẫn có người cha hằng
để mắt đến và sẵn sàng ra tay nâng đỡ khi
chú sắp té. Vậy th́ lo ǵ? Nếu có Chúa ở
cùng ta, ta c̣n phải sợ ǵ ai?
G.K
Chesterton có lần đă nói: “Trên thế gian này
có một cái chẳng hề tiến bộ chút nào, đó là
ư tưởng về tiến bộ”. Ư ông muốn nói rằng nếu
ta không xác định rơ thế nào là tiến bộ thực
sự, th́ chẳng khi nào ta biết ta có tiến bộ
hay không. Vô phúc thay vẫn có nhiều người
thay v́ theo đuổi lư tưởng này, họ lại
chuyển qua lư tưởng khác và gọi đó là tiến
bộ. Ta chẳng bao giờ biết được rằng ta có
tiến bộ trên đường từ Chicago đến San
Francisco hay không nếu ta lầm New York là
San Francisco. Chỉ khi nào xác định rơ ràng
được mục tiêu, ta mới bắn trúng được đích.
Mọi sự trên mặt đất và cả dưới ḷng đất đều
nhắm đến tương lai: sông ng̣i rồi sẽ đổ về
biển cả, cậu bé con rồi sẽ lớn lên thành
người lớn, người người suy tư về những điều
tương lai. Hết thảy đều chứa đựng xung lực
hướng về phía trước như ư Chúa sắp đặt sẵn.
Những ai mất phương hướng thường chỉ tập
trung vào những việc đang diễn ra và t́m thú
vui ở đó mà thôi. Họ hào hứng lật từng trang
sách nhưng chẳng bao giờ đọc xong chuyện nào
cả. Họ cầm cọ vẽ nhưng rồi chẳng vẽ được bức
tranh nào, họ đi khắp biển cả nhưng chẳng
biết được bến cảng nào. Họ hăng hái vận động
không v́ mục tiêu nào cả, mà chỉ là như con
quay. Họ quay cuồng chỉ v́ thích quay, thế
thôi.
Sự
hoàn thiện nằm ở chính con người chứ không
phải ở hành động của họ. Nó không nhằm vào
một hành động nào mà là vào việc kiện toàn
nhân cách. Không ǵ làm cuộc đời bất hạnh
hơn là sự vô nghĩa. Và cuộc sống sẽ mất đi ư
nghĩa khi nó chẳng có mục đích. Có cả hàng
vạn hàng ngàn mục đích vụn vặt, nhưng chỉ có
một mục đích vĩ đại là hoàn thiện nhân cách
về mặt đạo đức. Cuộc sống hết sức đa dạng,
bởi vậy kẻ nào không t́m ra cách thế qui tụ
mọi sự để thánh hiến linh hồn ḿnh, kẻ ấy
hẳn đă đánh mất ư nghĩa cuộc đời rồi vậy.
Có
lần con trai Khổng Tử hỏi ngài rằng: “Con đă
chăm lo học hỏi đủ điều, chẳng khi nào quên
lăng những điều giúp con trở nên thông minh
và khôn ngoan, vậy mà con chẳng thấy tiến
tới chút nào cả”. Đức Khổng Tử trả lời: “Con
hăy bỏ bớt một số tham vọng con đang đeo
đuổi th́ con mới khá được”. Đời sống con
người hằng đổi thay, biến động và thiếu nhất
quán, tựa như con trẻ mải mê săn hoa bắt
bướm vậy. Chúng mải mê đến độ quên cả lối về.
Không phải càng xa dần nguồn nước, sông ng̣i
càng phải cạn đi. Gịng sông tâm hồn cũng
thế, nó cũng chảy, chảy măi, càng lúc càng
nở rộng và sâu thêm cho đến lúc gặp được đại
dương Yêu Thương của Thiên Chúa và chan ḥa
với biển cả bao la.
Nhiều
khi, động lực thúc đẩy tiến bộ là ḷng bất
măn. Không hài ḷng với cây bút viết, loài
người sáng chế ra máy in; không thỏa măn với
xe kéo và tàu lửa, con người chế ra phi cơ.
Trong mỗi người đều ẩn tàng một động lực, bó
buộc tinh thần họ phải liên lỉ vỗ cánh như
con chim kia bị nhốt trong lồng trần gian
này, vỗ cho đến khi bật cả máu ra. Chỉ khi
nào tâm hồn con người nhận định được động
lực sâu kín này, họ mới đủ sức từ bỏ những
ǵ có sẵn để hướng về cái chưa có, mới đủ
kiên tŕ đào t́m các gịng suối ngọt ngào
nơi miền sa mạc nóng bỏng, và leo lên núi
cao chót vót để nh́n cho rơ trời xanh cao
thẳm. Bấy giờ họ mới thấy rằng họ được lôi
kéo về với Thiên Chúa, Đấng đă tạo nên họ.
Cảm
thấy hài ḷng với cuộc sống thiêng liêng
đang đạt được th́ giống như cây kia dương
dương tự đắc ḿnh cao hơn bụi cỏ, hoặc như
con sâu róm hả hê với những vằn vện trên
thân và dám cả tiếng chê bai con bướm sặc sỡ
chập chờn trên cao. Chẳng ai sống nhờ vào
lời khen cả, cũng như chẳng ai cho rằng ḿnh
sống nhờ kỷ niệm cả. Phải để các lời chúc
khen ngày xưa qua một bên và dấn bước về
phía ơn gọi siêu nhiên đang vẫy gọi, hăy
quên đi những ǵ đă qua. Chim muông phải
quên tổ đi, bông hoa phải quên chồi nụ đi,
có như thế ta mới đạt tới đích. Lo lắng quá
hoặc năng nổ quá đều không nên, v́ hạnh phúc
cuộc đời nằm ở chỗ chờ mong cho được sự toàn
hảo và thánh thiện.
Đức cha Fulton
Sheen. (Nguyên tác: Way to Happiness)