Đình Viễn Sơn (xã
Tiên Lục, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang)
là một trong những đình cổ quý giá, được Bộ
Văn hóa - Thông tin xếp hạng là Di tích Kiến
trúc - Nghệ thuật ngày 21/1/1989.
Đình Viễn Sơn
được xây dựng vào thế kỷ XVIII (1752) trên
một dải đất đẹp, rộng, thoáng ở đầu xóm Giữa
(hay còn gọi là thôn Viễn Sơn), quay mặt về
hướng Đông - Bắc nhìn sang đồi xóm Ngoẹn và
chùa Tiên Lục.
Bao quanh phía
trước đình là một thung lũng nhỏ bốn mùa
xanh tốt; phía trái sau đình là cây dã hương
cổ thụ ngàn năm tuổi, phía phải và phía sau
đình là khu dân cư xóm Giữa quần tụ xung
quanh.
Đình Viễn Sơn có
kiến trúc kiểu chữ Công, bao gồm: Tiền đường
nối với hậu cung bằng một dải ống muống; hai
bên có hai dãy với 5 gian tả vu và hữu vu.
Kết cấu các vì kèo theo lối tiền kẻ, hậu
bẩy, chồng rường, kê đấu. Xung quanh đình là
hệ thống tường vây kiên cố và cổng tam quan
vững chắc.
Toà tiền đường
đình Viễn Sơn gồm 5 gian, hai chái, dải ống
muống 5 gian và hậu cung 3 gian; kết cấu
khung mái kiểu tiền kẻ, hậu bẩy, chồng
rường, trụ giá chiêng; kết cấu khung cột hai
hàng chân cột gỗ lim lớn; điêu khắc khung
mái ở đình Viễn Sơn rất lộng lẫy và đẹp với
kiểu "thiếu nữ cưỡi rồng ca múa", "Rồng ổ",
"Lân mã chồng rường", "Vũ sĩ đội đình"... và
nhiều mảng điêu khắc thông, trúc, cúc, mai ở
hậu cung mang tính dân gian đậm nét thể hiện
tài khéo léo của các nghệ nhân dân gian xưa.
Ngoài giá trị về
nghệ thuật, đình Viễn Sơn còn lưu giữ được
nhiều đồ thờ thời Lê, thời Nguyễn rất quý
giá, đó là: ngai thờ, trang phục Thánh, bằng
sắc, khám thờ, khung tàn, lọng, giá trống,
bình hương, bát biểu, hoành phi, câu đối,
đại tự, cờ quạt, đao kiếm...
Đình Viễn Sơn thờ
nhị vị thánh Cao Sơn - Quý Minh là hai vị
tướng có công giúp Vua Hùng thứ 18 dẹp loạn
cho đất nước được thái bình, nhân dân được
ấm no, hạnh phúc.
Để tưởng nhớ hai
vị thánh Cao Sơn - Quý Minh, nhân dân địa
phương tổ chức hội vào các ngày mùng 9 tháng
Giêng, 20-3 và 20-8 âm lịch.
Vào các ngày này
trong năm (nhất là ngày mùng 9 tháng Giêng
âm lịch) nhân dân mở hội lớn. Phần lễ là
rước kiệu lên đền Thông, phần hội diễn ra
nhiều trò chơi truyền thống như: cướp cầu
cạn, đu, vật, chọi gà, kéo chữ... đáng chú ý
nhất ở hội đình Viễn Sơn là trò chơi cướp
cầu.
Phía trái sau
đình là cây dã hương ngàn năm tuổi. Cây có
dáng bề thế, uy nghi. Chu vi thân cây chỗ to
nhất là 17,4 m, khoảng tám người dang tay ôm
mới hết. Chiều cao của cây là 36m, tán thân
cây che phủ gần 2 sào đất. Trên ngọn cây có
những cành đã khô nhưng vẫn rất vững vàng.
Lớp vỏ cây dày trung bình khoảng 15cm.
Người dân xã Tiên
Lục, huyện Lạng Giang, đều gọi cây dạ hương
cổ này là “cụ”. Các cụ bô lão trong thôn kể
lại rằng, từ nhiều đời trước các cụ đã thấy
cây to và đẹp lắm rồi.
Trước kia trong
ngọc phả của thôn còn có ghi lại câu chuyện
Vua Lê Cảnh Hưng (1740-1786) khi đi ngang
qua thôn, thấy cây dã hương to, đẹp đã sắc
phong cho cây là “Quốc chúa đô mộc Dã Đại
vương” (nghĩa là cây dã hương lớn nhất
nước).
Cây không chỉ là
nét đẹp của cảnh quan môi trường, cảnh quan
thiên nhiên mà còn là nét đẹp văn hóa, biểu
tượng rất đỗi mộc mạc, thân thiết, linh
thiêng trong không gian văn hóa Việt.
Người dân trong
xã cho biết, nhờ có mùi hương của cây dã
hương mà nhân dân ở đây có sức khỏe tốt, các
bệnh dịch truyền nhiễm ít có cơ hội lây lan.
Cây được coi như
một linh vật của người dân quanh vùng với
nhiều giai thoại và cũng là chỗ dựa tinh
thần vững chắc cho người dân nơi đây.
Cho đến nay chưa
có tài liệu nào xác định chính xác tuổi đời
của cây dã hương này, nhưng theo người dân ở
nơi đây thì vẫn gọi là cây dã ngàn năm tuổi.
Trong cuộc hội
thảo về cây dã hương của Trung tâm Nghiên
cứu và phát triển đa dạng sinh học tổ chức
năm 2011, các nhà khoa học trong và ngoài
nước khẳng định cây dã hương này đã tồn tại
khoảng 1.000 năm và trên thế giới chỉ có hai
cây dã hương quý như thế. Một cây ở châu Phi
đã chết nên cây dã hương này được xem là cây
“độc nhất vô nhị của thế giới”.
Hiện nay cây dã
hương đã được nhà nước coi là di sản quốc
gia, hàng ngày có rất nhiều đoàn khách về
đây không chỉ để chiêm ngưỡng, cảm nhận vẻ
đẹp của cây “dã đại vương” nghìn năm tuổi,
để hít sâu vào lồng ngực hương thơm của dã
hương - thứ hương tinh khiết mà không có ở
một giống cây nào, mà còn để nghe những câu
chuyện ly kỳ, được người dân nơi đây lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo
nên những thông điệp có ý nghĩa nhân văn sâu
sắc về một cây cổ thụ như một biểu tượng,
tượng trưng cho một sức sống trường tồn của
dân tộc.
Theo Lâm Anh
Tiền phong