Thể Nhân Môn – Cửa
Ngăn (mặt phía trong
kinh thành)
Vậy th́ chúng ta
hăy cùng nhau đi
thăm tất cả các
cổng của Kinh
thành Huế
nhé. Bắt đầu từ
cửa Thể Nhân, là
cửa thành c̣n
giữa nguyên được
h́nh dáng và
kiến trúc ban
đầu cho đến hết
13 cửa lớn nhỏ
của Kinh
Thành Huế.
Của Ngăn năm 1926
(mặt phía ngoài kinh
thành)
Thể Nhân Môn có
tên thường gọi
là cửa Ngăn, nằm
phía Nam, bên
trái Kỳ Đài của
Kinh Thành. Phần
ṿm cửa được xây
dựng năm 1809
dưới thời vua
Gia Long, vọng
lâu bên trên
được xây dựng
vào năm 1829
dưới thời vua
Minh Mạng. Lúc
đầu có tên là
Thể Nguyên, sau
khi xây vọng lâu
th́ cải thành
Thể Nhân. Nhân
dân quen gọi là
cửa Ngăn Dưới để
phân biệt với
cửa thành Quảng
Đức là cửa Ngăn
Trên.
Cửa Quảng Đức – Cửa
Sập
Phía bên phải di
tích Kỳ Đài là
Cửa Quảng Đức
nằm ở mặt Nam
của Kinh Thành.
Phần cửa ṿm
được xây dựng
vào năm 1809,
dưới thời vua
Gia Long, vọng
lâu được xây
dựng vào năm
1829, thời Minh
Mạng. Trận lụt
năm 1953, đă
quét sập đổ hoàn
toàn bộ phận ṿm
cửa và vọng lâu,
v́ thế dân chúng
vẫn quen gọi là
cửa Sập. Trong
chiến sự năm
1968, cửa bị phá
hoại nặng nề, và
cấm không cho ra
vào. Năm 1998,
cửa được phục
chế lại.
Hai cửa này dành
cho vua và hoàng
gia ra vào. Mỗi
lần vua và hoàng
gia ra thành,
triều đ́nh cho
lính ra đóng
lại, ngăn không
cho dân chúng đi
qua. Sau khi vua
và hoàng gia trở
vào trong Nội
rồi th́ hai cửa
bị ngăn ấy mới
được mở ra lại
để cho dân chúng
đi như thường.
Trận lụt năm
1953 làm sập cửa
Ngăn Trên nên từ
đó dân chúng gọi
là cửa Sập. Và
cửa Ngăn Dưới
th́ được gọi là
cửa Ngăn cho gọn
như ngày nay.
Chánh Nam Môn – Cửa
Nhà Đồ (hiện đang
được trùng tu)
Nh́n ảnh chắc hẳn
bạn có thể h́nh dung
được chiều dày của
ṿng thành
Bên trái cửa
Quảng Đức là cửa
Chánh Nam Môn
nằm ở phía Nam
Kinh Thành, cuối
đường Nguyễn
Trăi, dân gian
vẫn gọi là cửa
Nhà Đồ. Cửa này
nay chỉ cho phép
lưu thông một
chiều từ đường
Nguyễn Trăi ra
đường Lê Duẩn.
Phần cửa ṿm
được xây dựng
năm 1809, dưới
thời vua Gia
Long, vọng lầu
bên trên được
xây dựng vào năm
Minh Mạng thứ
10, tức năm
1829. Lúc đầu,
phía bên ngoài
cửa có cục Tượng
Ty, hay c̣n gọi
là Đồ Gia, là
kho chứa vật
dụng, binh khí,
dịch nôm na hai
chữ Đồ Gia là
Nhà Đồ, v́ thế
cửa Chánh Nam
c̣n có tên gọi
là cửa Nhà Đồ.
Trận lũ năm
1953, đă làm sập
phần ṿm và vọng
lâu bên trên cửa
Nhà Đồ.
Đông Nam Môn – Cửa
Thượng Tứ (phía bên
trong thành)
Bên phải cửa
Ngăn là cửa Cửa
Thượng Tứ có tên
chữ là Đông Nam
Môn, nằm ở góc
Đông Nam Kinh
Thành, nay chỉ
lưu thông một
chiều từ đường
Trần Hưng Đạo đi
vào đường Đinh
Tiên Hoàng, bên
ngoài là phường
Phú Hoà, bên
trong là phường
Thuận Thành.
Phần cửa ṿm
được xây dựng
vào năm 1809
dưới thời vua
Gia Long, vọng
lầu được xây
dựng vào năm
1829, thời vua
Minh Mạng. Sở dĩ
cửa có tên gọi
là Thượng Tứ
ngày xưa, ở gần
bên trong cửa
thành này
(khoảng vị trí
trường Trần Quốc
Toản hiện nay),
triều đ́nh đă
thiết lập một cơ
quan tên là Viện
Thượng Tứ,
chuyên trông coi
việc nuôi ngựa
để kéo xe cho
vua.
Tây Nam Môn – Cửa
Hữu (vọng lâu và ṿm
cửa bị sập)
Cửa Hữu, có tên
chữ là Tây Nam
Môn, nằm ở phía
Tây Nam của Kinh
Thành, ở đầu
đường Yết Kiêu.
Phần cửa ṿm
được xây dựng
vào năm 1809,
dưới thời vua
Gia Long; vọng
lâu được xây
dựng năm 1829,
thời Minh Mạng.
Đêm mồng
5/7/1885, vua
Hàm Nghi đă xuất
bôn từ cửa này
ra khỏi Kinh
Thành, để ban
hịch Cần Vương.
Chiến sự năm
1968, đă làm sập
vọng lâu và ṿm
cửa.
Cửa Chánh Tây
Cửa Chánh Tây
nằm ở phía Tây
Kinh Thành, trên
đường Thái
Phiên, TP Huế.
Phần cửa ṿm
được xây dựng
vào năm 1809,
dưới thời vua
Gia Long, vọng
lầu bên trên
được xây dựng
năm 1829, dưới
thời vua Minh
Mạng. Trong
chiến sự năm
1968, nơi đây
từng là cửa ngơ
giao tranh ác
liệt, cửa bị tàn
phá hoàn toàn
phần vọng lầu
phía trên, sau
đó bị cấm đi
lại. Nay cửa đă
được tu sửa.
Chánh Đông Môn – Cửa
Đông Ba (hiện đang
được tu sửa)
Cửa Đông Ba có
tên chữ là Chánh
Đông Môn, tức
cửa nằm ở phía
Đông Kinh Thành,
cuối đường Mai
Thúc Loan, thành
phố Huế. Địa
danh này phát
xuất từ tên của
pháo đài Đông
Hoa có từ thời
Gia Long. Đến
đầu thời Thiệu
Trị, v́ triều
đ́nh kiêng dùng
tên húy của mẹ
nhà vua là bà Hồ
Thị Hoa, cho nên
đổi tên thành
Đông Gia. Nhưng
nhân dân quen
gọi là Đông Ba.
Phần cửa ṿm
được xây dựng từ
năm 1809, dưới
thời vua Gia
Long, vọng lầu
được xây dựng
năm 1824 dưới
thời Minh Mạng.
Ngày 5/7/1885,
nơi đây đă diễn
ra trận giao
tranh ác liệt
giữa quân Pháp
và quân triều
đ́nh do Tôn Thất
Thuyết chỉ huy.
Trong chiến sự
năm 1968, bom
đạn đă đánh sập
phần vọng lầu
làm hư hại nặng
nề cửa chính
Đông Ba.
Tây Bắc Môn – Cửa An
Ḥa
Cửa An Hoà có
tên khác là Tây
Bắc Môn, cửa nằm
ở góc Tây Bắc
của Kinh Thành,
nối từ đường
Nguyễn Trăi ra
thẳng đường Tăng
Bạt Hổ. Phần ṿm
cửa được xây
dựng năm 1809,
dưới thời vua
Gia Long, vọng
lâu được xây
dựng vào năm
1831, thời vua
Minh Mạng. Người
dân Huế gọi là
cửa An Ḥa v́
trước mặt cửa
thành này là
làng An Ḥa và
chợ An Ḥa.
Đông Bắc Môn – Cửa
kẻ Trài
Đông Bắc Môn có
tên gọi dân gian
là cửa Kẻ Trài,
nằm ở góc Đông
Bắc của Kinh
Thành, bên bờ
Tây của sông
Đông Ba. Phần
ṿm cửa được xây
dựng vào năm
1809, dưới thời
Gia Long, vọng
lầu được xây
dựng vào năm
1824, dưới thời
vua Minh Mạng.
Ngày xưa, Kẻ
Trài là tên một
xóm ở phía trước
cửa thành, nơi
đây có chợ Mới,
có Hàng Bè, có
phố Đông Hội,
thương nhân Bắc
kỳ đưa hàng hoá
vào buôn bán, họ
làm lều quán lúp
súp, thành những
dăy nhà trài hai
bên bờ sông, dân
bản địa thường
gọi là Kẻ Trài,
từ đó cửa Đông
Bắc cũng có tên
là Kẻ Trài.
Chánh Bắc Môn – Cửa
Hậu
Chánh Bắc Môn
tục gọi là Cửa
Hậu, v́ nó tọa
lạc tại mặt sau
của Kinh Thành.
Cửa Hậu nằm cuối
đường Đinh Tiên
Hoàng, nh́n ra
đường Tăng Bạt
Hổ. Phần cửa ṿm
được xây dựng
năm 1809 dưới
thời Gia Long.
Vọng lầu được
xây dựng vào năm
1831 dưới thời
vua Minh Mạng.
Sau khi thực dân
Pháp chiếm
kinh thành Huế
(1885), cửa
Chánh Bắc (Mang
Cá lớn) và cửa
Trài (Mang Cá
nhỏ) bị đóng kín
để lập đồn Mang
Cá. Do hậu quả
của chiến tranh
và thiên tai cửa
đă bị hư hại,
nên suốt 116 năm
hai cửa này vẫn
chưa được khai
thông. Hiện nay,
cửa Chánh Bắc đă
khai thông trở
lại.
Ngoài 10 cửa nêu
trên c̣n có 1
cửa nhỏ khác
không thông ra
ngoài là Trấn
B́nh Môn.
Trấn B́nh Môn thông
đến Trấn B́nh Đài (
đồn Mang Cá)
Trấn B́nh môn
thuộc ṿng tường
thành của Kinh
thành không phải
là cửa thông ra
ngoài thành mà
là thông đến
Trấn B́nh đài là
pháo đài pḥng
thủ của Kinh
thành. Cửa này
đươc trổ ra ở
giữa đoạn thành
nối hai pháo đài
Bắc Định và Đông
B́nh (của Kinh
thành) lại với
nhau. Ngay trước
mặt cửa là một
chiếc cầu xây
bằng đá và gạch
bắc qua hào,
dùng để nối liền
mạch giao thông
giữa hai địa
phận của thành
chính và thành
phụ.
Và 2 cửa đường
thủy : Tây Thành
Thủy Quan và
Đông Thành Thủy
Quan.
Tây Thành Thủy
Quan (c̣n gọi là
cống Thủy Quan)
Tây thành
Thủy Quan là
cửa đường
thủy thông
giữa sông
Ngự Hà trong
kinh thành
với sông đào
Kẻ Vạn khu
vực Kim
Long. Phía
bên ngoài
thành là cầu
Thủy Quan
(QL1A đoạn
đi qua Thành
phố).
Đông Thành Thủy
Quan (vẫn thường
gọi là Cống
Lương Y)
Đông Thành Thủy
Quan cũng là một
cửa thủy thông
giữa sông Ngự Hà
với sông đào
Đông Ba, phía
Đông kinh thành.
Sông Ngự Hà, ban
đầu mang tên
Thanh Câu dài
khoảng 3.600m,
chảy vắt ngang
qua mặt hậu
trong ḷng Kinh
Thành theo h́nh
thước thợ. Năm
Minh Mạng nguyên
niên (1820),
sông được cải
tạo và đổi tên
thành Ngự Hà,
nối liền Tây
Thành Thủy Quan
với Đông Thành
Thủy Quan, thông
nước từ sông
Hương qua sông
đào Kẻ Vạn với
sông đào Đông Ba
rồi chảy về ngă
Bao Vinh hợp lưu
cùng sông cái đổ
nước ra cửa
Thuận An.
Cửa này thông ra
phía bên ngoài
thành qua cầu
Thanh Long (đường
Huỳnh Thúc Kháng),
cây cầu này là
nơi mà trong
cuộc binh biến
1885 Tôn Thất
Thuyết đă bố trí
mai phục để chặn
quân Pháp từ Ṭa
Khâm sứ bên kia
sông Hương qua
ứng ứng cho đồn
Mang Cá. Hồi ấy,
khi đọc xong
tiểu thuyết lịch
sử “Huế 1885″
của Thái Vũ, mỗi
lần qua đây tôi
đều ngoái nh́n
cửa thủy thành,
cố h́nh dung ra
cảnh chiến đấu
hào hùng của hơn
100 năm về trước.