Bằng giờ này một năm trước, Giáo Hội hoàn vũ nói riêng và thế giới nói chung đang xôn xao về sự kiện bất ngờ tự động xin từ nhiệm của ĐTC Biển Đức XVI hôm Thứ Hai 11/2/2013 và sẽ măn nhiệm chính thức vào ngày 28/2/2013.  

Để tưởng nhớ đến một vị giáo hoàng đặc biệt đă được Thiên Chúa sai đến với Giáo Hội và thế giới trong thời khoảng gần 8 năm (19/4/2005 - 28/2/2013), chúng ta hăy cùng nhau ôn lại những nét chính yếu về một giáo triều trong lịch sử Giáo Hội nhé.

 
Hôm nay với bài: "Đức Thánh Cha Biển Đức XVI - Một Giáo Triều như Kiềng 3 Chân", và ngày mai, với bài: "Đức Thánh Cha Biển Đức XVI - Vị Giáo Hoàng Thần Học Gia về Chân Lư". Chúng ta hăy cùng nhau cầu nguyện cho ngài.
 
 
 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI - Một Giáo Triều như Kiềng 3 Chân

 

Viết để tri ân cảm tạ Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

 

Giáo Hoàng thoái vị - Một động lực sâu xa mănh liệt ... c̣n hơn làm giáo hoàng?

 

Thế giới nói chung và Kitô hữu nói riêng, đặc biệt là tín hữu Công giáo Việt Nam, không ai có thể ngờ được rằng ngay vào Lễ Đức Mẹ Lộ Đức 11/2/2013, ngày mùng 2 Tết Âm Lịch, vị giáo hoàng thứ 265 của Giáo Hội Công Giáo công khai tuyên bố rằng ngài chính thức từ nhiệm vào cuối tháng 2/2013, ngày 28, vào lúc 8 giờ tối.

 

Thật là một tin như sét đánh. Phải chăng chính v́ thế mà chỉ mấy tiếng đồng hồ sau lời tuyên bố này của ngài, tức vào lúc 6 giờ chiều địa phương Rôma, cùng ngày Thứ Hai 11/2/2013, đă xuất hiện một tia chớp lóe lên trên đỉnh Đền Thờ Thánh Phêrô? Hay là một điềm trời báo hiệu ǵ đây... liên quan đến chung Giáo Hội và thế giới, trong đó có vị giáo hoàng từ nhiệm lẫn vị giáo hoàng thừa nhiệm??
 
 

Thật vậy, Thứ Hai, ngày 11/2/2013, Lễ Đức Mẹ Lộ Đức, VIS (Vatican Information Service) của Ṭa Thánh đă thông tin cho biết rằng vào lúc kết thúc đặc nghị về các án phong thánh, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đă chính thức thông báo về việc thoái vị giáo hoàng của ngài, nguyên văn như sau:

 

"Tôi đă triệu tập quí huynh đến Đặc Nghị này chẳng những cho 3 án phong thánh mà c̣n để thông đạt cùng quí huynh một quyết định rất quan trọng đối với đời sống của Giáo Hội. Sau nhiều lần kiểm điểm lương tâm trước nhan Thiên Chúa, tôi đă tiến đến chỗ tin tưởng rằng sức khỏe của tôi, v́ tuổi già, không c̣n thích hợp với việc thi hành đầy đủ thừa tác vụ Thánh Phêrô nữa. Tôi biết rơ là thừa tác vụ này, theo bản chất thiêng liêng thiết yếu của nó, cần phải được thi hành chẳng những bằng lời nói và việc làm mà c̣n bằng không ít nguyện cầu và đau khổ. Tuy nhiên, trong thế giới ngày nay, một thế giới đang bị chi phối bởi quá nhiều thay đổi nhanh chóng và bị giao động bởi những vấn đề liên quan sâu xa đến đời sống đức tin, để lèo lái con thuyền của Thánh Phêrô cũng như để loan truyền Phúc Âm, đều cần đến cả sức khỏe về tâm trí lẫn thể xác, những ǵ mà trong ít tháng gần đây đối với tôi đă suy yếu nơi tôi. V́ lư do này và với ư thức rơ ràng về tính cách hệ trọng của tác động đây, tôi hoàn toàn tự do để tuyên bố rằng tôi xin từ nhiệm thừa tác vụ Giám Mục Rôma, từ nhiệm sứ vụ Thừa Kế Thánh Phêrô, được ủy thác cho tôi bởi các vị Hồng Y vào ngày 19/4/2005, như thế, kể từ ngày 28/2/2013, vào lúc 8 giờ tối, Ṭa Thánh Rôma, Ṭa Thánh Phêrô, sẽ trở thành trống ngôi, và một Mật Nghị Hồng Y sẽ được triệu tập để các vị có thẩm quyền tuyển chọn vị tân Giáo Hoàng.

 

"Quí Huynh thân mến, tôi rất chân thành cám ơn tất cả ḷng yêu thương và hoạt động mà quí huynh đă trợ giúp tôi thi hành thừa tác vụ của tôi và  xin tha thứ cho tất cả những khiếm khuyết thiếu sót của tôi. Giờ đây chúng ta hăy kư thác Hội Thánh cho sự chăm sóc của Vị Mục Tử Tối Cao của chúng ta là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, cùng nài xin cùng Người Mẹ thánh của Người, để Mẹ hỗ trợ các vị Nghị Phụ Hồng Y bằng mối quan tâm từ mẫu của Mẹ, trong việc chọn một vị tân Giáo Hoàng. Riêng về bản thân của ḿnh, tôi cũng muốn thiết tha phục vụ Hội Thánh Chúa trong tương lai bằng một đời sống chuyên tâm nguyện cầu".  

 

Vị linh mục Giám Đốc Văn Pḥng Báo Chí Ṭa Thánh đồng thời cũng cho biết thêm như sau Đức Thánh Cha “sẽ chuyển đến Castel Gandolfo vào ngày 28/2, và một khi ngài hoàn tất các công việc ngài đă làm dở dang th́ ngài sẽ đến ở trong một đan viện kín trước đây tại Vatican. Tiến tŕnh cho việc tuyển bầu một vị tân Giáo Hoàng sẽ được bắt đầu vào ngày 1/3. Chúng tôi chưa biết chính xác ngày mật nghị hồng y, thế nhưng hiển nhiên là không cần phải đợi 8 ngày chính thức thương khóc sau cái chết của một vị Giáo Hoàng… Đức Thánh Cha Biển Đức XVI sẽ không đóng một vai tṛ ǵ trong mật nghị hồng y Tháng 3 tới đây, cũng không quản trị Giáo Hội trong thời gian giữa các vị giáo hoàng, thời gian trống ngôi – Sede Vacante. Tông Hiến ‘Universi domicici gregis’ không trao vai tṛ cho vị giáo hoàng đang cai quản trong trường hợp chuyển tiếp. Cá nhân tôi, tôi đă nhận được thông báo về việc từ nhiệm của Đức Giáo Hoàng bằng tấm ḷng khâm phục sâu xa, về sự dũng cảm cả thể của việc từ nhiệm này, đối với sự tự do trong tinh thần của Đức Thánh Cha cũng như đối với mối quan tâm lớn lao về trách nhiệm thừa tác vụ của ngài. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đă cống hiến cho chúng ta một chứng từ cao cả về sự tự do thiêng liêng, về đức khôn ngoan cao cả liên quan đến việc quản trị của Giáo Hội trong thế giới ngày nay”.

 

Lịch sử Giáo Hội cho thấy, ngoại trừ một số trường hợp không được rơ ràng, chẳng hạn về Đức Marcellinus (296-304), Đức Silverius (536-537), Đức Gioan XVIII (1003-1009), và Đức Benedict IX (1032-1044, 1045, 1047-1048), th́ Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI là vị giáo hoàng tự ư thoái vị thứ 4. Vị đầu tiên là Đức Pontian (230-235) tự ư thoái vị vào ngày 28/9/235, v́ lư do trong thời kỳ bách hại đạo kinh khiếp của Hoàng Đế Maximinus Thrax ngài bị đày ải đến những hầm mỏ ở Sardina và biết chắc ḿnh không thể sống sót trở về, trong khi đó Giáo Hội không thể vắng bóng chủ chăn trong một thời gian dài vô hạn định. Vị thứ hai là Đức Celestine V (1294), vị cảm thấy bị chính quyền Charles II ở Sicily điều khiển nên đă tự ư chính thức thoái vị vào ngày ngày 13/12, với một giáo triều dài 5 tháng. Vị thứ ba là Đức Gregorio XII (1406-1417) tự ư thoái vị v́ lợi ích chung của Giáo Hội thời bấy giờ, để Công Đồng Constance có thể chọn một vị khác chính thức thay thế ngài là Đức Martin V, hầu chấm dứt t́nh trạng Ly Giáo Tây Phương với hai vị giáo hoàng giả.

 

Tuy nhiên, việc Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đột nhiên tự ư tuyên bố từ nhiệm, một tuyên bố làm sững sờ cả quốc tế lẫn thế giới Kitô giáo, khiến cho truyền thông và một số bộ óc ṭ ṃ không khỏi thắc mắc và có những suy đoán khác với những ǵ được chính ngài công khai bày tỏ. Những ǵ ngài nói vào lúc kết thúc buổi mật nghị cho 3 án phong thánh hôm Thứ Hai ngày 11/2/2013 th́ lư do chính yếu khiến ngài cảm thấy lương tâm không thể cho phép ngài tiếp tục lănh đạo Giáo Hội nữa và cần phải thoái vị cho một vị khác xứng đáng hơn đó là v́ ngài thấy một t́nh trạng có thể gọi là một cái "gap - khoảng cách" bất khả lấp giữa nhu cầu khẩn trương quan thiết của Giáo Hội trong một thế giới tân tiến đầy biến động mau chóng ngày nay so với sức khỏe trong ngoài của ngài cần phải có để đáp ứng nhưng lại càng trở nên suy yếu trong mấy tháng vừa qua.

 

Việc ngài tự ư từ nhiệm với một giáo triều mới gần 8 năm trời và hầu như chẳng ai nghe thấy ngài bị bệnh bao giờ từ ngày lên ngôi giáo hoàng, nếu so sánh với vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II bệnh hoạn nhưng tiếp tục phục vụ cho một giáo triều dài 26 năm rưỡi của ngài th́ quả thực quyết định của ngài là một quyết định phải nói là hết sức lạ lùng. Bởi v́ vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II của ngài cương quyết theo đuổi ơn gọi làm vị thừa kế Thánh Phêrô đại diện Chúa Kitô trên trần gian cho tới hơi thở cuối cùng, cho dù được khuyên là từ nhiệm, thậm chí bị chỉ trích là tham quyền cố vị, bị bệnh hoạn triền miên sau khi bị ám sát chết hụt ngày 13/5/1981, nhất là những ngày tháng cuối đời đầu năm 2005. Chính Hồng Y Joseph Ratzinger, vị kế nhiệm tương lai của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, sau lần viếng thăm ngài ở bệnh viện hôm 1/3/2005, đă bày tỏ trên Đài Phát Thanh Vatican ḷng cảm phục của ḿnh trước tấm gương chịu đựng khổ đau của vị tiền nhiệm như sau: 

v     “Mẫu gương của một vị Giáo Hoàng khổ đau là những ǵ rất quan trọng và chúng ta đă chứng kiến thấy nó trong những năm qua: Chịu đựng khổ đau là một đường lối đặc biệt của việc rao giảng. V́ có nhiều bức thư đă gửi đến cho tôi, cũng như có nhiều chứng từ trực tiếp mà tôi đă hiểu được rằng nhiều người đang chịu khổ hiện nay cảm thấy cuối cùng họ đă được chấp nhận. Hiệp hội thành phần bị bệnh lẩy bẩy đă viết cho tôi để cám ơn ĐGH, v́ nó giúp các bệnh nhân phục hồi thực sự h́nh ảnh của họ, khi ĐTC công khai can đảm tỏ ra là một con người chịu đựng khổ đau mà vẫn tiếp tục làm việc. Đức Gioan Phaolô II đă thông đạt cho chúng ta nhiều điều qua việc chịu đựng khổ đau của Người, một thứ đau khổ như là một đoạn đường hành tŕnh của cuộc sống và là một thứ khổ đau ngài thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô. Khi chúng ta chia sẻ khổ đau với Chúa và sống khổ đau với tất cả những ai đau khổ trên thế giới, khổ đau có một giá trị cao cả và có thể là một cái ǵ tích cực. Nếu chúng ta chú ư tới hoạt động và đời sống của vị Giáo Hoàng này, chúng ta hiểu rằng đó là một sứ điệp quan trọng, nhất là trong một thế giới đang có khuynh hướng phủ lấp hay tẩy chay khổ đau là những ǵ không thể loại trừ nổi"

Trước tấm gương hiển nhiên và đáng noi theo như thế của vị tiền nhiệm được chính ngài công nhận, thế mà tại sao Đức Thánh Cha Biển Đức XVI vẫn cương quyết thoái vị? Đâu là động lực chính yếu cho tác động khác biệt này của ngài với vị tiền nhiệm. Căn cứ vào lời của ngài th́ động lực ch́nh yếu đó là v́ lợi ích chung của Giáo Hội trong giai đoạn này. Trước nhan Chúa, cả hai vị giáo hoàng đều sống theo lương tâm của ḿnh, đều nghĩ đến Giáo Hội và hoàn toàn v́ Giáo Hội, nhưng một vị tiếp tục cho tới cùng c̣n vị kia th́ không. Kinh nghiệm và tâm lư cho thấy đời sống con người (bao gồm suy tư, phán đoán, quyết định, tác hành và phản ứng) của con người bị chi phối bởi bản chất tự nhiên của mỗi người nữa. Căn cứ vào những ǵ liên quan đến Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, nhất là trong thời gian ngài làm giáo hoàng, người ta thấy ngài dường như thiên về nội tâm hơn hoạt động.

 

Trước hết, ngài lấy danh hiệu giáo hoàng là Biển Đức tên của vị tổ phụ đan tu ở Tây Phương, hoàn toàn khác với danh xưng giáo hoàng của vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II: “Gioan” - vừa có tính chất nội tâm lẫn Giáo Hội: “Ánh sáng muôn dân – Lumen gentium”, “Phaolô” - vừa bao gồm tính chất hoạt động lẫn truyền giáo: “Vui mừng và hy vọng – Gaudium et spes. Các giáo huấn của ngài, như 3 bức thông điệp, Deus caritas est (2005), Spe salvi (2007) và Caritas in veritate (2009), đều liên quan đến tu đức (nhân đức sống đạo) hơn là thuần tín lư hay luân lư. Hai văn kiện chính thức khác của ngài cũng mang tính chất nội tâm như thế, đó là Tông Huấn về Thánh Thể Sacramentum Caritatis (2007) và Tông Huấn về Lời Chúa Verbum Domini (2010). Trong khi vị tiền nhiệm là một triết gia về nhân bản liên quan đến thế giới loài người (hướng ngoại) th́ ngài là một thần học gia về chân lư liên quan đến Thánh Kinh (hướng nội).

 

Ngài thích sống âm thầm để nghiên cứu thần học hơn là hoạt động, nên ngài đă từng xin Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II từ nhiệm vai tṛ làm Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin mà không được; thậm chí ngài không muốn làm giám mục, không muốn làm giáo hoàng mà chỉ muốn sống theo đặc sủng làm giáo sư thần học của ḿnh (xem Ánh Sáng Thế Gian, Ignatius Press, 2010, ấn bản Anh ngữ, trang 3-5).

 

Tác phẩm Ánh Sáng Thế Gian này, ở trang 69 c̣n bao gồm những chi tiết cho thấy trong mật nghị hồng y bầu tân giáo hoàng, Hồng Y Joseph Ratzinger (có lẽ sau khi thấy chiều hướng bản thân ngài sắp trúng tuyển) đă cầu xin Chúa rằng: "Lạy Chúa, xin đừng làm điều ấy cho con! Chúa c̣n nhiều con người trẻ trung và khá hơn con". Có lẽ trong lời từ nhiệm của ngài liên quan tới vị tân giáo hoàng kế vị được ngài cho rằng sẽ sung sức hơn ngài đă hoàn toàn phản ảnh tâm trạng sắp được bầu làm giáo hoàng của ngài 8 năm trước. Bấy giờ ngài tuy cảm thấy bàng hoàng “tại sao lại là con”, nhưng sau đó ngài đă hoàn toàn phó thác cho Đấng đă chọn ngài.

 

Chính trong mật nghị bầu giáo hoàng sau khi vị tiền nhiệm của ngài qua đời, như ngài đă tiết lộ vào ngày 25/4/2005 cho 100 ngàn người thuộc phái đoàn đồng hương Đức quốc của ngài trong 500 ngàn người về Roma tham dự Lễ Đăng Quang Giáo Hoàng của ngài rằng, trong mật nghị hồng y bầu giáo hoàng ngài đă nhận được mấy chữ của một vị hồng y khác nhắc ngài về bài ngài giảng khai mạc mật nghị, liên quan đến việc Chúa Kitô kêu gọi Thánh Phêrô theo Người cho dù thánh nhân đă tỏ ra lưỡng lự, th́ ngài đă phản ứng như sau:  

v     Có lúc tôi đă cầu cùng Chúa rằng ‘xin đừng làm điều này cho con nghe’. Rơ ràng là lần này Chúa đă không nhận lời tôi”.

Bản chất hướng về nội tâm của ngài được thể hiện qua việc ngài sẽ về hưu tại một đan viện kín ở Vatican, và khuynh hướng thích âm thầm nghiên cứu thần học của ngài có thể được tỏ hiện nơi thời gian ngài ở Dinh Castel Gandolfo trước khi vĩnh viễn về hưu ở đan viện kín ấy chăng?

 

Chắc chắn không thể nào xẩy ra chuyện sau khi từ nhiệm, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI chỉ nghỉ ngơi dưỡng bệnh trong khi không có bệnh, hay chỉ suốt ngày tĩnh tâm suy tư cầu nguyện chẳng làm ǵ khác, hoặc chỉ liên miên tiếp khách để thực hiện các cuộc phỏng vấn như đă xẩy ra với vị kư giả của các tác phẩm “The Ratzinger Report” (1985), “Muối Đất” (1996) và  “Ánh Sáng Thế Gian” (2010), hay chỉ tiếp các đấng bậc chức sắc trong tân giáo triều như là một vị cố vấn tối cao cho Ṭa Thánh v.v.!

 

Là một tư tưởng gia kiêm tác giả rất dồi dào phong phú như ngài, vị đă viết trên 50 tác phẩm trước khi làm giáo hoàng, và ngay cả khi làm giáo hoàng c̣n viết được thêm 3 cuốn nữa, th́ làm sao ngài có thể ngồi yên không lợi dụng những giây phút cuối đời vô cùng hiếm quí của ḿnh để chia sẻ tất cả những ǵ c̣n chất chứa đầy trong tâm trí của ngài chưa được dịp bày tỏ và lại cũng chính là những ǵ rất quan thiết đến nền thần học Kitô giáo cả trong tương lai lẫn trong thời đại văn minh tương đối chủ  nghĩa duy nhân bản và phá sản đức tin hiện nay chứ?

 

Vả lại, không c̣n đóng vai tṛ làm giáo hoàng nữa th́ những ǵ ngài viết được bao rộng hơn, tự do hơn và dễ dàng diễn đạt hơn, cho dù không có thẩm quyền giáo huấn bằng văn kiện chính thức của một vị giáo hoàng.

 

Biết đâu ngài đang có một "ơn gọi trong ơn gọi - call within a call ", (như Mẹ Têrêsa Calcutta mănh liệt cảm nhận thấy nơi bản thân của mẹ vào ngày 10/9/1946 trên chuyến xe lửa từ Calcutta đến Darjeeling, nên đă xin Ṭa Thánh cho phép ra khỏi Ḍng Loreto đang tu để ra lập một ḍng mới là Ḍng Nữ Tử Thừa Sai Bác Ái), đang có một dự án nào đó mà theo ngài rất quan trọng cho tương lai của Giáo Hội về phương diện thần học, (nh kinh nghiệm làm giáo hoàng mà ngài đă thấy được), hơn là việc ngài chỉ cai trị Giáo Hội bề ngoài, trong khi đó nếu ngài tiếp tục chèo lái Giáo Hội càng ngày càng gay go th́ ngài sẽ không c̣n đủ sức để kiêm cả hai việc một lúc, trái lại, có thể ngài sẽ chết trước khi hoàn thành dự án âm thầm nhưng rất hệ trọng ấy.

 

Ba tác phẩm về 3 đoạn đời của "Chúa Giêsu Nazarét" (xuất bản năm 2007, 2011, 2012), để chứng minh một sự thật là “nhân vật Giêsu lịch sử“ và “Đức Kitô của đức tin” chỉ là một, nhưng muốn hoàn thành chúng, như chính ngài tự thú (trong lời mở đầu của tập đầu tiên xuất bản năm 2007, trang xxiv, ấn bản Anh ngữ), ngài đă phải giành dụm từng phút (“since my election to the episcopal see of Rome I have used every free moment to make progress on the book”) trong thời gian phục vụ giáo triều của ngài để viết, và viết làm sao cho kịp phổ biến kẻo chết bất ngờ ở tuổi càng già càng yếu của ngài (“I do not know how much more time or strength I am still to be given”), đủ cho thấy cái ưu tiên về thần học nơi ngài cũng không phải là tầm thường và không quan trọng bằng việc quản trị Giáo Hội của Chúa Kitô.

 

Giáo Hoàng thoái vị - Một Giáo Triều như kiềng 3 chân

 

Nh́n lại gần 8 năm làm giáo hoàng của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, nếu để ư, chúng ta sẽ thấy giáo triều của ngài không hẹn mà họ lại có một liên hệ đặc biệt với con số 3 như thế này: 3 ưu tiên, 3 thông điệp, 3 tác phẩm, 3 thượng nghị, 3 biệt niên, 3 vị thánh và 3 biến cố.

 

Trước hết là 3 ưu tiên được ngài lưu tâm nhất trong giáo triều của ngài đă được ngài minh nhiên xác nhận ngay từ khi mở màn cho giáo triều của ngài, như ngài đă nói với Hồng Y Đoàn ngày 20/4/2005, đó là Truyền Thống Giáo Hội, Đại Kết Kitô Giáo và Đối Thoại Văn Hóa.

 

1- Truyền Thống Giáo Hội: "Để bắt đầu việc phục vụ xứng hợp với Vị Thừa Kế Thánh Phêrô, tôi cũng muốn mạnh mẽ xác định ư muốn cương quyết của tôi trong việc theo đuổi cuộc dấn thân thực hiện Công Đồng Chung Vaticanô II, theo các vị tiền nhiệm của tôi và trung thành tiếp nối truyền thống hai ngàn năm của Giáo Hội". (đoạn 3)

 

Thực tế ngài quả thực đă thực hiện các buổi triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần, từ ngày 13/5/2006 đến ngày 13/4/2011, trong gần 5 năm, một loạt 138 bài giáo lư có tính cách tông truyền, liên quan đến từng vị thánh đă góp phần vào việc xây dựng niềm tin của Giáo Hội, nhất là bằng văn tự, từ thời các tông đồ cho tới vị tiến sĩ cuối cùng của Giáo Hội là Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Về Công Đồng Chung Vaticanô II, vị giáo hoàng cuối cùng của biến cố quan trọng nhất của lịch sử Giáo Hội trong thế kỷ 20 này, vị giáo hoàng khi c̣n là thần học gia ở độ tuổi trung tuần tam thập nhi lập đă có công trong việc soạn thảo hai Hiến Chế về Mạc Khải và Phụng Vụ của Công Đồng Chung Vaticanô II, (như vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II của ngài với Hiến Chế về Giáo Hội và Mục Vụ của công đồng này), luôn nhấn mạnh đến, nhất là trong bài giảng của ngài ngày 11/10/2012 khai mạc cho Năm Đức Tin kỷ niệm 50 năm khai mạc công đồng thứ 21 này của Giáo Hội, tính chất liên tục của truyền thống Giáo Hội chứ truyền thống ấy không bị ngắt quăng hay đứt đoạn giữa hai thời điểm trước và sau công đồng này, như nhiều người chủ trương sai lầm và áp dụng Công Đồng một cách lệch lạc.

 

2- Đại Kết Kitô Giáo: "Bằng tất cả ư thức và vào lúc mở đầu cho thừa tác vụ của ḿnh ở Giáo Hội Rôma là nơi Thánh Phêrô đă tắm máu, vị Thừa Kế này lănh nhận, như là quyết tâm chính yếu của ḿnh, quyết tâm không ngừng hoạt động hướng đến việc tái thiết mối hiệp nhất trọn vẹn và hữu h́nh của tất cả mọi thành phần môn đệ của Chúa Kitô".

 

Nơi sứ điệp ngỏ cùng Hồng Y đoàn ngày 20/4/2005 này, ngài đă sử dụng 2 trong 7 đoạn để nói về Thánh Thể (đoạn 4) và từ đó tiến sang vấn đề hiệp nhất Kitô giáo (đoạn 5), bao gồm tâm nguyện thiết tha của ngài như được bày tỏ trên đây. Trong nhiều nỗ lực đại kết, có thể kể đến một số hành động tiêu biểu sau đây: thứ nhất, khi cử hành Lễ Thánh Anrê là quan thày của Giáo Hội Chính Thống Đông phương, trong chuyến tông du Thổ Nhĩ Kỳ của ḿnh (28/11-1/12/2006), vào ngày 30/11/2006, ngài đă kư vào một bản tuyên ngôn chung với Đức Thượng Phụ Toàn Cầu Bartholomew I về vấn đề tái liên hệ giao hữu và ḥa giải giữa hai Giáo Hội Công Giáo Rôma và Chính Thống Đông Phương. Thứ hai, vào ngày 21/9/2009, ngài đă ban sắc lệnh tha vạ tuyệt thông cho 4 vị giám mục thuộc Huynh Đoàn Thánh Piô X của Tổng Giám Mục Lefebre đă được vị tổng giám mục này tấn phong vào năm 1988 mà không có phép của Ṭa Thánh. Thứ ba, vào ngày 4/11/2009, ngài đă ban hành Tông Huấn "Anglicanorum coetibus - Cộng Đồng Anh Giáo" để thiết lập các giáo phận thể nhân hay riêng tư (personal ordinariates) cho những tín hữu Anh giáo muốn trở lại Công giáo ở khắp nơi trên thế giới, sau khi có trào lưu trở lại của họ v́ những thay đổi quá trớn của Giáo Hội Anh giáo (như cho phụ nữ làm linh mục và giám mục, hay tấn phong giám mục đồng tính v.v.)

  

3- Đối Thoại Văn Hóa: "Tôi sẽ làm hết sức ḿnh và dấn thân theo đuổi việc đối thoại đầy hứa hẹn được những vị tiền nhiệm của tôi khởi sự với những nền văn minh khác nhau, v́ nếu có hiểu biết nhau mới tạo điều kiện cho một tương lai tốt đẹp hơn cho hết mọi người”. (đoạn 6)

 

Thực tế ngài đă đối thoại liên tôn với các tôn giáo, nhất là Do Thái giáo và Hồi giáo. Về Do Thái giáo, vào ngày 5/2/2008, ngài đă thay đổi cách sử dụng từ ngữ "cầu cho Người Do Thái" trong Thứ Sáu Tuần Thánh để tránh đụng chạm và hợp với thần học hơn. Về Hồi giáo, ngài là vị giáo hoàng đầu tiên vào ngày 12/5/2009 tiến vào thăm Cái Ṿm Đá Hồi Giáo trên Núi Đền Thờ (Muslim Dome of the Rock on the Temple Mount) trong chuyến tông du Thánh Địa (8-15/5/2009). Ngoài ra, riêng về Hồi giáo, qua biến cố ngày 12/9/2006 ở Đại Học Regensburg Đức quốc, liên quan đến tính chất bạo động của tôn giáo này trong bài nói của ngài, ngài c̣n phải tiếp tục đối thoại với họ cả hai năm sau, đặc biệt qua hai văn thư chính thức của thành phần trí thức và thẩm quyền của tôn giáo này, lần nhất vào ngày 12/10/2006, 100 học giả và giáo sĩ Hồi giáo đă gửi một Bức Thư Ngỏ cùng Giáo Hoàng, và lần hai vào ngày 11/10/2007, 138 học giả Hồi giáo đă gửi ngài một Bức Thư Ngỏ khác, nhan đề "Một Lời Chung giữa Chúng Tôi và Quí Vị - A Common Word Between Us and You".

 

Thứ hai là 3 Thông Điệp có tính chất đặc biệt về tu đức, liên quan đến mối liên hệ mật thiết giữa Thiên Chúa và loài người (Thông Điệp 1) cũng như giữa loài người với Thiên Chúa (Thông Điệp 2) và tha nhân (Thông Điệp 3):

 

1- Thông Điệp "Thiên Chúa là t́nh yêu - Deus caritas est" được ban hành vào chính Lễ Giáng Sinh ngày 25/12/2005;

 

2- Thông Điệp "Niềm hy vọng cứu độ - Spe salvi" được ban hành ngày 30/11/2007, Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng, có ư nghĩa liên quan đến đức tin và đồng nghĩa với đức tin cứu độ;

 

3- Thông Điệp "Yêu thương trong Chân lư - Caritas in veritate" được ban hành ngày 29/6/2009, Lễ Trọng Kính Hai Thánh Tông Đồ Cả Phêrô và Phaolô, liên quan đức bác ái là yếu tố bất khả thiếu trong tất cả mọi sinh hoạt trần thế nhưng đă bị thiếu hụt nên đă gây ra t́nh trạng khủng hoảng kinh tế toàn cầu chưa từng thấy trong lịch sử loài người từ cuối năm 2007 và đầu năm 2008.

 

Thứ ba là 3 Tác Phẩm, đúng hơn là một tác phẩm duy nhất, tựa đề "Giêsu Nazarét", nhưng được chia làm 3 tập khác nhau:

 

Tập nhất về một "Giêsu Nazarét" trong giai đoạn từ khi lănh nhận Phép Rửa ở Sông Dược Đăng (Jordan) đến Biến H́nh trên núi Tabor, ấn bản Anh ngữ xuất bản năm 2007;

 

Tập hai về một "Giêsu Nazarét" trong giai đoạn từ lúc vào Thành Giêrusalem đến Phục Sinh, xuất bản năm 2011; và

 

Tập ba về một "Giêsu Nazarét" trong thời thơ ấu của ngài, xuất bản vào tháng 11 năm 2012.

 

Thứ bốn là 3 Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới thường lệ lần thứ XI, XII và XIII:

 

1- Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới Thường Lệ lần thứ XI, từ ngày mùng 2 tới 23/10/2005, về chủ đề "Thánh Thể là nguồn mạch và là tột đỉnh của đời sống và sứ vụ của Giáo Hội", một chủ đề đă trở thành Tông Huấn được ban hành ngày 22/7/2007;

 

2- Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới Thường Lệ lần thứ XII, từ ngày mùng 5 đến 26/10/2008, về chủ đề "Lời Chúa trong đời sống và sứ vụ của Giáo Hội", một chủ đề đă trở thành Tông Huấn được ban hành ngày 30/9/2010;

 

3- Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới lần thứ XIII, từ ngày 7 đến 28/10/2012, mở màn cho Năm Đức Tin (11/10/2012-24/11/2013), về chủ đề "Tân Truyền Bá Phúc Âm hóa để Truyền Đạt Đức Tin Kitô giáo".

 

Thứ Năm là 3 Biệt Niên, tức 3 năm đặc biệt được mở ra cho Giáo Hội hoàn vũ, (không kể Năm Thánh Thể được Đức Gioan Phaolô II mở kéo dài sang giáo triều của vị thừa kế): Năm Thánh Phaolô, Năm Linh Mục và Năm Đức Tin:

 

1- Năm Thánh Phaolô, từ ngày 29/6/2008 đến 29/6/2009, kỷ niệm 2000 năm sinh nhật của Thánh Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, một năm đặc biệt chú trọng tới chiều kích Đại Kết Kitô Giáo, do đó ngày khai mạc đă có cả Đức Thượng Phụ Toàn Cầu Bartolomew I của Chính Thống giáo;

 

2- Năm Linh Mục, từ Lễ Thánh Tâm Chúa 19/6/2009 đến Lễ Thánh Tâm 2010, một ngày theo truyền thống giành để đặc biệt cầu cho việc thánh hóa các linh mục, nhân dịp kỷ niệm 150 năm qua đời của Thánh Gioan Vianney, quan thày của các linh mục chính x, vị thường nói: "Chức linh mục là mối t́nh yêu thương của Thánh Tâm Chúa Giêsu", một năm nhằm nhấn mạnh đến việc dấn thân của tất cả mọi linh mục cho vấn đề canh tân nội tâm để trở thành chứng từ cho Phúc Âm trong thế giới ngày nay, nhất là trong giai đoạn xẩy ra hiện tượng linh mục lạm dụng t́nh dục trẻ em ở Tây phương được công khai hóa từ đầu năm 2002 ở TGP Boston Massachussetts Hoa Kỳ; và

 

3- Năm Đức Tin, từ ngày 11/10/2012, kỷ niệm đúng 50 năm khai mạc Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962) và 20 năm ban hành cuốn Sách Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo (11/10/1992), đến ngày 24/11/2013, Lễ Chúa Kitô Vua cũng là lễ kính Các Thánh Tử Đạo v́ Đức Tin trên Đất Việt, "để tái nhận thức nội dung của đức tin được tuyên xưng, cử hành, thực hành và cầu nguyện cũng như để phản ảnh nơi tác động của đức tin" (Tông Thư Cửa Đức Tin, đoạn 9).

 

Thứ Sáu là 3 Vị Thánh ảnh hưởng đến đời sống và tâm tưởng của ngài, đó là Thánh Biển Đức, Thánh Âu Quốc Tinh và Thánh Bonaventura.

 

Thứ nhất là Thánh Biển Đức, vị thánh được ngài chọn làm danh xưng giáo hoàng của ngài. Tại sao? Trước hết, tự bản chất, là v́ ngài thích sống đời nội tâm, đời sống theo tinh thần của các vị đan sĩ mà Thánh Biển Đức là tổ phụ đan tu Tây phương. Sau nữa, v́ ngài cảm thấy Âu Châu đang xuống dốc, như được vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II cảm nhận và kêu gọi, trong tác phẩm cuối đời "Hồi Niệm và Căn Tính" xuất bản vào đầu năm 2005, Châu Lục này hăy "hồi niệm" mà trở về với "căn tính" của ḿnh, nên cần phải được can thiệp bởi vị Thánh Đệ Nhất Quan Thày của Âu Châu là Thánh Biển Đức, vị thánh đă gây một tác dụng mạnh mẽ đến văn hóa Âu Châu, một văn hóa giờ đây đă trở thành, như vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II của ngài nhận định, một thứ "văn hóa chết chóc", và đối với ngài là một thứ văn hóa bị đàn áp bởi tương đối chủ nghĩa độc đoán (dictatorship of relativism). Đúng thế, danh hiệu Giáo Hoàng Biển Đức XVI của vị tân giáo hoàng 265 của Giáo Hội đă cho thấy ngài hướng về vị thánh tổ phụ của đan viện khổ tu, và kêu gọi sống nội tâm, như chính ngài đă kêu gọi cũng trong bài huấn dụ cho buổi triều kiến chung hôm Thứ Tư 27/4/2005. Sau khi nói về Ḍng Biển Đức ảnh hưởng đến việc truyền bá Kitô giáo khắp Âu Châu và riêng Thánh Biển Đức hết sức được tôn kính ở Đức quốc, nhất là ở Bavaria là quê hương của ḿnh, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đă nói:  

v     “Chúng ta biết lời huấn dụ được Vị Tổ Phụ của đan viện tu Tây Phương này để lại cho thành phần đan sĩ của ḿnh đó là ‘Tuyêt đối không coi ǵ hơn Chúa Kitô’ (Luật Ḍng 72:11; xem 4:21). Vào lúc mở đầu cho việc tôi phục vụ như vị Thừa Kế Thánh Phêrô, tôi xin Thánh Biển Đức hăy giúp chúng ta biết cương quyết lấy Chúa Kitô làm tâm điểm của đời sống chúng ta. Chớ ǵ Người bao giờ cũng là những ǵ trên hết trong tâm tưởng cũng như trong tất cả mọi hoạt động của chúng ta!”   

Thứ hai là Thánh Âu Quốc Tinh, vị thánh được ngài trích dẫn rất nhiều trong các bài nói hay văn kiện của ngài và là vị thánh được ngài nói tới 5 bài trong tổng số 138 bài giáo lư về đức tin tông truyền của giáo hội, hơn cả Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại chỉ có 4 bài. Trong buổi triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần ngày 26/2/2008, bài cuối cùng trong 5 bài nói về Thánh Âu Quốc Tinh, ngài đă xác nhận tầm ảnh hưởng của thánh nhân nơi ngài như sau:

v     "Hôm nay tôi muốn trở lại với tiến tŕnh hoán cải nội tâm của ngài, một trong những cuộc hoán cải trọng đại nhất trong lịch sử Kitô giáo. Chính v́ cuộc hành tŕnh đặc biệt này mà tôi đă cống hiến những chia sẻ của tôi trong cuộc viếng thăm Pavia năm ngoái, để kính viếng hài cốt của vị Giáo Phụ Giáo Hội này. Làm như vậy là tôi muốn biểu lộ việc ca ngợi và ḷng trọng kính của toàn thể Giáo Hội Công Giáo đối với Thánh Âu Quốc Tinh, cũng như ḷng mộ mến và việc biết ơn của riêng tôi đối với một nhân vật tôi cảm thấy rất gần gũi v́ ngài đă đóng một vai tṛ trong đời sống thần học của tôi, trong đời sống làm linh mục và mục tử của tôi... Thánh Âu Quốc Tinh đă có một ảnh hưởng sâu xa nơi cuộc đời và thừa tác vụ của tôi. Tôi hy vọng rằng tất cả chúng ta có thể học được từ con người hoán cải cao cả và khiêm tốn này, vị đă thấy được rơ ràng Chúa Kitô là chân lư và là t́nh yêu!"

Thứ ba là Thánh Bonaventura, vị thánh ảnh hưởng đến khoa cử của ngài, một thứ khoa cử dầu sao cũng gián tiếp liên quan đến và sửa soạn cho vai tṛ làm giáo hoàng tương lai của ngài. Ngài đă xong luận án tiến sĩ thần học vào năm 1953, tựa đề là "Dân Chúa và Nhà Chúa theo Giáo Huấn của Thánh Âu Quốc Tinh về Giáo Hội". Thế nhưng, để có thể trở thành một giáo sư dạy trong đại học, ngài c̣n phải tŕnh một luận án nữa. Tuy nhiên lần này ngài lại bị gặp trục trặc. Trong luận án của ḿnh, theo chủ trương của Thánh Bonaventura, một thần học gia nổi tiếng Thời Trung Cổ của Ḍng Thánh Phanxicô, ngài lập luận rằng mạc khải là chính "tác động Thiên Chúa tỏ chính ḿnh ra", chứ không phải chỉ là thành quả của việc Thiên Chúa tỏ ḿnh ra. Tuy nhiên, v́ ảnh hưởng chính trị giữa hai vị giáo sư chính duyệt xét luận án của ngài, (Gottlieb Sohngen chấp nhận nhưng Michael Schmaus phủ nhận), ngài đă phải khéo léo điều chỉnh luận án của ḿnh trong 2 ṿng tuần lễ để được chấp nhận vào tháng 2/1957, nhờ đó ngài được bổ nhiệm làm giáo sư thần học vào đầu tháng 1/1958 (xem God's Choice, by George Weigel, Harper  Perennial, 2005, trang 167).

 

Thứ Bảy là 3 Biến Cố tiêu cực đặc biệt bất thường xẩy ra trong và cho giáo triều của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI và liên quan trực tiếp đến cá nhân bản thân của ngài: Ngài bị phản kháng, bị lầm lẫn và bị phản bội.

 

1- Ngài bị phản kháng mănh liệt bởi thế giới Hồi giáo về những lời ngài phát biểu tại Đại Học Đường Regensburg Đức quốc ngày 12/9/2006 trong chuyến tông du quê hương đất nước của ngài, khi ngài đă trích lại trong bài diễn từ của ḿnh lời nói về Hồi giáo là tôn giáo có tính chất vơ lực  bạo động của Manuel II Palaiologos, một trong những vị hoàng đế Kitô hữu cuối cùng của Đế Quốc Byzantine ở vào cuối thế kỷ 14, trước khi thành Constantinople rơi vào tay Đế Quốc Ottoman Hồi giáo; và hậu quả đáng tiếc của vụ việc này là 2 án mạng: 1 xẩy ra cho nữ tu 65 tuổi Leonella Scogbati, bị 2 tên sát thủ Samali giết chết ngày 17/9/2006, và 1 xẩy ra cho vị linh mục Ameer Iskander ở Iraq đă bị bắt cóc vào ngày 9/10/2006 và sát hại sau đó. Thậm chí chính bản thân ngài cũng đă bị tổ chức khủng bố quốc tế Al Qaeda đe dọa sát hại trước chuyến tông du sang Thổ Nhĩ Kỳ của ngài (28/11-1/12/2006).

 

2- Ngài bị lầm lẫn về một trong 4 vị giám mục của Hội Thánh Piô X (SSPX – Society of Saint Pius X) là t chức được Đức Tổng Giám Mục Marcel Lefebvre người Pháp khởi xướng để phản đối canh tân hóa phụng vụ của Công Đồng Chung Vaticanô II, và đă trở thành một ly giáo từ năm 1991 gây ra bởi biến cố vị Tổng Giám Mục này tấn phong 4 tân giám mục bất chấp can thiệp của Ṭa Thánh, thế nhưng 4 vị giám mục này được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI tha vạ tuyệt thông cho ngày 25/1/2009, trong đó có giám mục Richard Williamson là vị giám mục, vào thời gian mới trước đó một chút, khoảng 1 tuần lễ, đă công khai chối bỏ vụ diệt chủng Do Thái của Đức Quốc Xă trong Thế Chiến II, một chối bỏ đă xúc phạm trầm trọng đến Dân Do Thái, thế mà Đức Thánh Cha lại tha vạ tuyệt thông, cho dù ngài hoàn toàn sơ ư không hề biết đến việc chối bỏ này của vị giám mục ấy vừa mới xẩy ra trước tác động tha vạ của ngài;

 

3- Ngài bị phản bội bởi Paolo Gabriele là quản gia thân tín của ngài từ năm 2006, nhân vật đă bị tố cáo và điều tra thấy quả thực đă lấy trộm một số tài liệu mật của Ṭa Thánh để chuyển cho giới truyền thông Ư quốc, khiến cho thế giới bên ngoài biết được những khiếm khuyết bí mật của một số thành phần làm việc trong Ṭa Thánh.  

 

Vụ việc bất hạnh bắt đầu bùng ra vào cuối Tháng Giêng 2012 khi chương tŕnh Truyền H́nh mang tên “Gli intoccabili /  The untouchable  / Cái bất khả đụng tới” (ám chỉ các thứ trong mật hàm của Ṭa Thánh Vatican) tŕnh chiếu ở Ư quốc. Rồi sau đó một kư giả người Ư là Gianluigi Nuzzi lại tung ra lá thư của Đức Tổng Giám Mục Carlo Maria Vigaṇ, vị nguyên giữ vai tṛ quản trị đứng hàng thứ hai của Ṭa Thánh và hiện đang là Sứ Thần của Ṭa Thánh ở Hoa Kỳ, một bức thư mà đức tổng này xin đừng để lộ ra một chi tiết liên quan đến tiền bạc của Ṭa Thánh.

 

Cũng vào đầu năm 2012, một bức thư nặc danh dọa lấy mạng Đức Thánh Cha Biển Đức XVI. Thậm chí vào Tháng 5/2012, tác phẩm tựa đề “Ngài Giáo Hoàng: Những Giấy Tờ Bí Mật của Biển Đức XVI” của tác giả Gianluigi Nuzzi c̣n tung ra những bức thư (letters) và ghi chú dặn ḍ (memos) của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI với vị bí thư riêng của ngài, để rồi căn cứ vào đó tác giả này đă bôi nhọ chung Ṭa Thánh Vatican và riêng Đức Giáo Hoàng.

 

Có thể so sánh thế này là nếu Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă bị ám sát mạng sống vào ngày 13/5/1981 ở Quảng Trường Thánh Phêrô thế nào, th́ Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, ở một nghĩa nào đó, qua vụ bị phản bội này, cũng bị ám sát về thế giá cùng danh dự của ngài là Giáo Hoàng lănh đạo thế giới Công giáo ngay trong nội cung của Vatican như vậy.