Lời Chúa hôm nay dẫn chúng ta đặc biệt vào ý nghĩa của thời gian, với ý thức
rằng thời
gian không phải là một thực tại xa lạ với Thiên Chúa,
bởi vì Ngài chỉ muốn tỏ Mình ra và cứu độ chúng ta trong lịch sử. Ý
nghĩa của thời gian, của tính chất thời gian, đó là môi trường hiển linh của
Thiên Chúa, tức là, môi trường của việc tỏ mình ra của Thiên Chúa và của tình
yêu cụ thể của Ngài.
Thật vậy, thời
gian là sứ giả của Thiên Chúa,
như Thánh Peter Favre đã nói.
Phụng vụ hôm nay nhắc nhở chúng ta câu nói của Tông Đồ Gioan: "Hỡi các con, đây
là giờ khắc cuối cùng" (1Gioan 2:18), cũng như câu nói của Thánh Phaolô là vị
nói về "thời điểm viên trọn" (Galata 4:4). Bởi thế, ngày hôm nay đây tỏ cho
chúng ta thấy làm thế nào - có thể nói - thời
gian được "chạm tới" bởi Chúa Kitô, Người Con của Thiên Chúa và của Mẹ Maria, và
thời gian được nhận lấy từ Người những ý nghĩa mới mẻ và lạ lùng, ở chỗ,
nó đã trở thành "thời gian cứu độ", tức là thời điểm tối hậu của ơn cứu độ và ân
sủng.
Tất cả những điều ấy khiến chúng ta nghĩ đến tận điểm của cuộc hành
trình đời sống, đến tận cùng nơi cuộc hành trình của chúng ta. Đã có khởi điểm
thì sẽ có tận điểm: "có thời sinh ra cũng có thời chết đi" (Giảng Viên 3:2).
Theo sự thật này, một sự thật rất giản dị và nống cốt nhưng lại rất bị coi
thường và quên lãng, Mẹ Thánh Giáo Hội dạy chúng ta trong việc kết thúc năm nay
cũng như kết thúc ngày sống của chúng ta bằng việc kiểm điểm lương tâm, nhờ đó
chúng ta ôn lại những gì đã xẩy ra, ở chỗ, chúng ta tạ ơn Chúa về mọi thiện hảo
chúng ta đã lãnh nhận và đã có thể thực hiện, đồng thời, chúng ta cũng nghĩ đến
những khuyết điểm thiếu sót của chúng ta và tội lỗi của chúng ta - để tri ân
cảm tạ và xin ơn tha thứ.
Đó là những gì chúng ta cũng làm hôm nay vào lúc kết thúc năm này. Chúng ta ca
ngợi Chúa bằng bài thánh ca Tạ Ơn
Lạy Thiên Chúa Te Deum, đồng thời chúng ta xin Ngài ơn tha thứ. Thái độ
tạ ơn này giúp chúng ta sống khiêm hạ trong việc nhận biết và lãnh nhận các
tặng ân của Chúa.
Trong Bài Đọc của những Giờ Kinh Tối Vọng này, Tông Đồ Phaolô đã tóm lại
cái động lực chính yếu của việc chúng ta dâng lời tạ ơn Thiên Chúa đó là Ngài đã
làm cho chúng ta nên con cái của Ngài, Ngài đã thừa nhận chúng ta như là con cái
của Ngài. Tặng ân không vì công lênh của ai này làm cho chúng ta tràn đầy
niềm tri ân chan chứa lạ lùng! Người nào đó có thể nói rằng: "Thế nhưng chúng
tôi không phải là con cái của Ngài, mà ở chỗ chỉ là con người?" Chúng
ta đúng là như thế, vì Thiên Chúa là Cha của hết mọi con người sinh ra trên trần
gian này. Thế nhưng đừng quên rằng bởi nguyên tội chúng ta đã bị cách xa Ngài,
một thứ tội đã tách chúng ta ra khỏi Cha của chúng ta: mối liên hệ con cái của
chúng ta đã bị thâm đậm tổn thương. Bởi thế, Thiên Chúa đã sai Con của
Ngài đến để giải cứu chúng ta bằng giá máu của Người. Mà nếu có việc giải cứu là
bởi vì có cảnh nô lệ. Chúng ta đã là con cái, nhưng chúng ta đã trở thành các
kẻ nô lệ, nghe theo tiếng nói của Tên Gian Ác.Không
ai có thể giải cứu chúng ta khỏi cảnh nô lệ thực sự này ngoại trừ Chúa
Giêsu, Đấng đã mặc lấy xác thịt của chúng ta nơi Trinh Nữ Maria và đã chết trên
thập tự giá để giải thoát chúng ta khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và phục hồi thân
phận làm con đã bị mất đi của chúng ta cho chúng ta.
Phụng vụ hôm nay cũng nhắc nhở chúng ta rằng "từ ban đầu (trước thời gian) đã có
Lời... và Lời đã hóa thân làm người", bởi thế Thánh Irenaeus đã khẳng định rằng:
"Đó là lý do Lời đã hóa thân làm người, và Con Thiên Chúa đã trở thành Con
người, nhờ đó loài người, vì được hiệp thông với Lời mà từ đó lãnh nhận thân
phận làm con cái thần linh, có thể trở nên con cái của Thiên Chúa" (Adversus
Haereses, 3, 19, 1” PG 7, 939; Cf. Catechism of the Catholic Church,
460).
Hiện tại thì chính tặng ân chúng ta tạ ơn cũng là một lý do để chúng
ta kiểm điểm lương tâm, duyệt xét lại đời sống cá nhân và cộng đồng của chúng
ta, bằng cách tự vấn xem:
chúng ta đang sống ra sao? Chúng
ta đang sống như là những người con hay là những kẻ nô lệ?
Chúng ta có sống như thành phần lãnh nhận phép rửa trong Chúa Kitô, được xức
dầu Thần Linh, được giải cứu và được tự do hay chăng? Hay chúng ta sống theo lý
lẽ băng hoại trần tục, làm những gì mà ma quỉ xui giục chúng ta tin rằng đó là
những gì lợi ích cho chúng ta? Trong
cuộc hành trình đời sống của chúng ta bao giờ cũng có khuynh hướng chống lại
việc giải phóng; chúng ta sợ tự do, và ngược ngạo thay, chúng ta vô tình lại yêu
thích làm nô lệ hơn. Tự
do là những gì làm cho chúng ta sợ hãi vì nó đặt chúng ta trước thời gian và cần
phải đối diện với trách nhiệm của chúng ta trong việc sống trách nhiệm ấy một
cách tốt đẹp. Nô
lệ biến thời gian thành 'khoảnh khắc' và vì thế chúng ta cảm thấy an toàn
hơn, tức là nó làm cho chúng ta sống những khoảng khắc chẳng liên hệ gì tới quá
khứ của chúng và với tương lai của chúng ta. Nói cách khác, nô lệ là những gì
ngăn cản chúng ta trong việc sống hiện tại một cách trọn vẹn và thực sự, vì nô
lệ làm hiện tại trống rỗng quá khứ và bưng bít hiện tại trước tương lai, trước
vĩnh hằng. Nô lệ làm cho chúng ta tin rằng chúng ta không thể nào mơ tưởng, bay
lượn, hy vọng.
Một đại nghệ công Ý quốc đã nói rằng mấy ngày trước Chúa
dễ dàng mang dân Yến Duyên (Israel) ra khỏi Ai Cập hơn là Ai Cập ra khỏi tâm trí
của dân Yến duyên.
"Phải", họ đã được giải phóng khỏi cảnh nô lệ "một cách thể lý", thế
nhưng trong cuộc hành trình băng qua sa mạc đầy những khó khăn khác nhau
cùng đói khổ họ đã bắt đầu cảm thấy nhung nhớ Ai Cập là nơi họ "đã được thưởng
thức... củ hành củ tỏi" (xem Dân Số 11:5); tuy nhiên, họ đã quên rằng họ đã ăn
những thứ này ở mâm bàn nô lệ. Thứ
nhung nhớ nô lệ này đang ẩn náu trong tâm trí của chúng ta, vì nó có vẻ chắc ăn
hơn tự do là thứ đầy những nguy cơ. Chúng
ta hào hứng biết bao khi say mê thấy được nhiều thứ pháo
bông, bề ngoài đẹp đẽ đó nhưng thực sự thì là những gì thoáng qua trong giây
lát! Đó là cái chiếm ngự của khoảnh khắc!
Như thế, việc kiểm điểm lương tâm này, cả đối với Kitô hữu chúng ta nữa, lệ
thuộc vào tính chất tác hành của chúng ta, việc sống động của chúng ta, sự hiện
diện của chúng ta trong thành phố, việc phục vụ của chúng ta cho công ích, việc
tham phần của chúng ta vào các tổ chức quần chúng và Giáo Hội.
Vì thế, là Giám Mục Rôma, tôi muốn chia sẻ về đời sống của chúng ta ở Rôma, một
tặng ân lớn lao, vì được sống ở Thành Đô Vĩnh Cửu; nhất là đối với một Kitô hữu,
thì điều ấy có nghĩa là thuộc về một Giáo Hội được xây dựng trên chứng từ và
cuộc tử đạo của các Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. Bởi vậy mà chúng ta cũng phải
cám ơn Chúa về điều này nữa. Tuy nhiên nó đồng thời cũng là một trách nhiệm lớn
lao. Chúa Giêsu đã phán: "Ai được ban cho nhiều thì cũng sẽ bị đòi hỏi nhiều"
(Luca 12:48). Thế nên, chúng ta cần phải tự vấn xem ở trong thành đô này, trong
cộng đồng giáo hội đây, chúng ta là thành phần tự do hay chúng ta là các kẻ nô
lệ, chúng ta có là muối ướp và là ánh sáng hay chăng? Chúng ta có là men bột
chăng? Hay chúng ta đã sống một cách vô vị buồn tẻ, hận thù, chán chường thất
vọng, tầm thường, mệt mỏi?
Những biến cố băng hoại trầm trọng mới xẩy ra chắc chắn cần đến một cuộc nghiêm
cẩn và ý thức hoán cải tâm hồn cho một cuộc tái sinh về tinh thần và luân lý,
cũng như cho một cuộc dấn thân mới để xây dựng một thành đô công chính và đoàn
kết hơn, nơi mà người nghèo, người yếu kém và người sống bên lề xã hội trở
thành ưu tiên cho những mối quan tâm của chúng ta và các hoạt động hằng ngày của
chúng ta. Thái độ tự do Kitô hữu cao cả hằng ngày cần phải tỏ ra can đảm để loan
truyền ở thành đô đây đó là người
nghèo cần phải được bênh vực chứ không phải bênh vực mình khỏi người nghèo,
chúng ta cần phải phục vụ người yếu kém chứ không phải lạm dụng họ!
Chúng ta có thể học được điều ấy nơi giáo huấn của một vị phó tế Rôma đơn sơ
chất phác. Khi Thánh Lawrence được yêu cầu mang đến cho thấy đâu là các kho tàng
của Giáo Hội thì ngài chỉ dẫn theo một số người nghèo. Khi người nghèo và người
yếu kém được chăm sóc, nâng đỡ và trợ giúp ở một thành phố nào đó để cổ võ họ
trong xã hội thì họ chứng tỏ họ là kho tàng của Giáo Hội và là kho tàng trong xã
hội. Trái lại, khi
xã hội khinh thường người nghèo, bách hại họ, gây tội ác phạm đến họ, và ép buộc
họ <gia nhập băng Mafia> thì xã hội đó trở thành bần cùng đến độ khốn khổ, bị
mất đi cái tự do của nó và yêu thích "củ hành củ tỏi" nô lệ hơn, thứ nô
lệ cho cái vị kỷ của nó, thứ nô lệ cho cái hèn nhát nhu nhược của nó; xã hội ấy
không còn là xã hội Kitô giáo nữa.
Anh chị em thân mến, việc kết thúc năm này đó là việc tái khẳng định rằng "giờ
khắc cuối cùng" đang hiện hữu và "thời điểm viên trọn" đang xẩy ra. Để kết thúc
năm nay, để tạ ơn và xin ơn tha thứ, tốt nhất là chúng ta xin ơn để làm sao có
thể tiến bước trong tự do hầu sửa lại nhiều hư hại và bênh vực mình khỏi những
nhung nhớ nô lệ, không còn nhớ nhung đến những gì là nô lệ nữa.
Xin Đức Thánh Trinh Nữ, vị thực sự ở tâm điểm đền thờ Thiên Chúa, khi Lời
- Đấng có từ ban đầu - biến Mình thành nên một với chúng ta trong thời gian; Mẹ
là vị đã ban Đấng Cứu Thế cho thế giới, giúp chúng ta lãnh nhận Người bằng một
con tim cởi mở để thực sự làm con cái của Thiên Chúa và sống tự do như con cái
của Thiên Chúa.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch (bao gồm cả nhan đề và những chỗ
nhấn mạnh tự ý, trừ những chỗ in nghiêng vẫn giữ nguyên)
http://www.zenit.org/en/
"Thiên Chúa là Cha và lòng trung thành nhẫn nại của Ngài còn mãnh hơn cả tối tăm
và băng hoại. Đó là sứ điệp của đêm Giáng Sinh. Thiên Chúa không tỏ ra bừng giận
và bất nhẫn"
ĐTC Phanxicô - Bài Giảng Lê Đêm Giáng Sinh
2014
"Dân
bước đi trong tăm tối đã thấy ánh sáng rạng ngời; những ai ở miền đấy đen
tối đã được ánh
sáng chiếu soi" (Isaia 9:1). "Một thiên thần Chúa đã hiện ra với các mục tử và
vinh hiển của Chúa đã tỏa chiếu họ" (Luca 2:9). Đó là những gì phụng vụ của đêm
Giáng Sinh thánh này
trình bày cho chúng ta thấy về việc hạ sinh của Đấng Cứu Thế: như ánh
sáng thấu qua và đánh tan bóng tối đen nhất. Sự hiện diện của Chúa giữa dân Ngài
làm tan biến đi nỗi sầu thương của cuộc thua bại và cảnh khốn cùng của tình
trạng nô lệ, mà mang lại niềm vui và hạnh phúc.
Cả chúng ta nữa, trong đêm hồng phúc
này, đã đến với nhà của Thiên Chúa.
Chúng
ta đã băng qua
bóng
tối tăm đang bao
trùm trái đất, được
dẫn đường bởi ngọn lửa đức tin đang soi chiếu bước chân của chúng ta đi, và được
phấn khởi bởi niềm hy vọng tìm thấy "ánh sáng rạng ngời" này. Bằng việc mở lòng
của chúng ta ra, chúng ta cũng có thể chiếm ngưỡng thấy phép lạ của con trẻ thái
dương là Đấng mọc lên từ trên cao đang chiếu rọi chân
trời.
Nguồn
gốc của bóng tối đang bao phủ thế giới đang biến mất trong một đêm
của mọi
thời đại. Chúng
ta hãy nghĩ về giây phút tối tăm khi xẩy ra tội ác đầu tiên của nhân loại, khi
bàn tay của Cain, bì mù quáng bởi ghen hờn, đã giết chết Abel em của mình (xem
Khởi Nguyên 4:8). Bởi thế, việc
diễn tiến của các
thế kỷ đã
bị đánh dấu bằng bạo lực, chiến tranh, ghen ghét và đàn áp. Thế
nhưng Thiên Chúa, Đấng đã đặt để một cảm quan mong đợi nơi con người được dựng
nên theo hình ảnh của Ngài và tương tự như Ngài, vẫn đang chờ đợi.Ngài đã đợi
chờ rất lâu đến độ có lúc dường như Ngài đã phải buông xuôi.
Tuy nhiên, Ngài không thể bỏ cuộc vì Ngài không thể chối bỏ chính mình Ngài (xem
2Timothêu 2:13). Thế nên Ngài đã tiếp
tục nhẫn
nại đợi chờ trước tình trạng băng hoại của con người và của các dân tộc.
Qua dòng lịch sử, ánh
sáng đánh tan bóng tối tỏ ra cho chúng ta thấy rằng Thiên
Chúa là Cha và lòng trung thành nhẫn nại của Ngài còn mãnh hơn cả tối tăm và
băng hoại. Đó là sứ điệp của đêm Giáng Sinh. Thiên Chúa không tỏ ra bừng
giận và bất nhẫn; Ngài
bao giờ cũng có đó, như người cha trong dụ ngôn dứa con hoang đàng, đợi chờ
trông ngóng từ xa bóng dáng người con lạc loại trở về.
Lời tiên báo của Tiên Tri Isaia loan tin về
việc hiện lên một ánh sáng rạng ngời qua màn đêm đen. Ánh sáng này được sinh
hạ ở Bêlem và được đón nhận bởi vòng tay yêu thương của Mẹ Maria, bởi tình yêu
của Thánh Giuse, bởi nỗi ngỡ ngàng của các mục đồng. Khi các thiên thần loan báo
việc hạ sinh của Đấng Cứu Chuộc cho các mục đồng thì các vị làm như thế bằng
những lời lẽ như sau: "Đây sẽ là dấu hiệu cho các người, đó là một thơ nhi được
bọc trong khăn và nằm trong máng cỏ" (Luca 2:12). "Dấu hiệu" này là sự khiêm hạ
quá sức của
Thiên Chúa; chính
tình yêu khiến cho Ngài vào đêm ấy đã mặc lấy tình trạng yếu hèn của chúng ta,
nỗi đau khổ của chúng ta, những lo âu của chúng ta, các ước vọng của chúng ta và
những hạn hữu của chúng ta. Sứ điệp
mà mọi người đang trông mong, mà mọi người đang tìm kiếm nơi thẳm cung của linh
hồn mình, không là gì khác ngoài niềm êm ái dịu dàng của Thiên Chúa: Vị Thiên
Chúa nhìn xuống chúng ta bằng ánh mắt đầy yêu thương, Đấng chấp nhận cảnh bần
cùng nghèo khổ của chúng ta, Vị Thiên Chúa phải lòng với cái
bé mọn của chúng ta.
Vào đêm
thánh này, trong khi chúng ta chiêm ngưỡng Con Trẻ Giêsu vừa được hạ sinh và đặt
nằm trong máng cỏ, chúng ta được mời gọi hãy phản tỉnh.
Chúng ta đã đón
nhận niềm êm ái dịu dàng này của Thiên Chúa ra sao? Chúng ta có để mình được
Thiên Chúa chiếm đoạt hay chăng, để cho Ngài ôm ấp hay chăng, hay tôi tránh né
việc Ngài đến gần tôi? Chúng ta có thể đáp lại rằng "Thế nhưng chúng tôi đang
tìm kiếm Chúa mà". Tuy nhiên, điều quan trọng
nhất không phải là việc đi tìm
kiếm Ngài, mà
là để cho Ngài tìm gặp chúng ta và âu yếm chăm sóc chúng ta.
Vấn đề được đặt ra cho chúng ta trước sự hiện diện của Con Trẻ này chỉ vỏn vẹn
là: tôi
có để cho Thiên Chúa yêu thương tôi hay chăng?
Hơn thế nữa, chúng
ta có can đảm đón nhận một cách dịu
dàng những
khó khăn và trục trặc của những ai gần gũi chúng ta hay chăng, hay chúng ta
thích những giải quyết theo kiểu bất liên cá thể,
có thể là hiệu nghiệm đấy nhưng chẳng có gì là nồng nàn của Phúc Âm hết? Ngày
nay thế
giới cần đến niềm êm ái dịu dàng này biết bao!
Việc đáp ứng
của Kitô hữu không thể nào khác với việc Thiên Chúa đáp ứng trước cái bé mọn của
chúng ta. Đời sống cần phải được đáp ứng bằng
những gì là thiện hảo, hiền lành.Khi
chúng ta nhận thức rằng Thiên Chúa phải lòng với cái bé
mọn của chúng ta, ý
thức rằng Ngài đã biến mình thành nhỏ bé để dễ gặp gỡ chúng ta, thì chúng ta
không thể nào không mở lòng mình ra cho Ngài,
và khẩn nài Ngài rằng: "Lạy Chúa, xin giúp cho con trở nên giống như Chúa, xin
hãy ban cho con ơn biết dịu
dàng trong những
hoàn cảnh khó khăn nhất, xin hãy ban cho con ơn biết gần
gũi
với hết
mọi nhu cầu, ơn biết hiền
lành trong mọi
xung khắc".
Anh chị em thân mến, vào đêm thánh này, chúng ta hãy chiêm ngưỡng cảnh Giáng Sinh: ở đó "dân đã bước đi trong tăm tối đã được thấy ánh sáng rạng ngời" (Isaia 9:1). Dân mà không ngờ, mở lòng đón nhận tặng ân của Thiên Chúa, lại là những người đã thấy được ánh sáng này. Tuy nhiên, ánh sáng này không thấy được bởi thành phần cao ngạo, kiêu hãnh, bởi những ai đã biến luật lệ theo những lượng định riêng của họ, những ai khép mình trước người khác. Chúng ta hãy nhìn vào máng cỏ và cầu nguyện, kêu xin Người Mẹ Phúc Đức rằng: "Ôi Maria, xin tỏ Chúa Giêsu cho chúng con!"
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
(kèm theo nhan đề và các chỗ nhấn mạnh tự ý)
http://www.zenit.org/en/
Khi nghe trong Bài Đọc
Thứ Nhất tiếng của vị Thiên Thần kêu vang vang cho 4 Thiên Thần được ban cho
quyền hủy hoại cả đất liền lẫn
biển khơi
rằng: "Đừng hủy hoại đất đai, biển khơi hay cây cối" (Khải Huyền 7:3), thì chúng
ta nhớ đến một câu nói không phải ở Sách Khải Huyền mà là ở trong lòng của mọi
người: con người có khả năng làm điều ấy hơn là quí vị thiên thần nữa kìa. Chúng
ta có thể tàn phá Trái Đất này còn giỏi hơn
cả các
Thiên Thần. Đó
thực sự là những gì chúng ta đang làm, đó là những gì chúng ta đang thực hiện, ở
chỗ chúng
ta đang hủy hoại thiên nhiên tạo vật, chúng ta đang tàn phá sự sống, chúng
ta đang tàn phá các nền văn hóa, chúng ta đang tàn phá các thứ giá trị, chúng
ta đang tiêu diệt niềm hy vọng. Chúng ta
cần đến sức mạnh của Chúa biết bao để chúng ta được niêm ấn bởi tình yêu của
Ngài và quyền năng của Ngài trong việc ngưng lạicuộc đua
hủy diệt điên
cuồng này!
Việc hủy diệt đi những gì Ngài đã ban cho chúng
ta, những gì tuyệt vời
nhất Ngài đã làm cho chúng ta, để chúng ta canh tác,
duy trì, sinh lợi... Khi tôi ở
trong hậu cung thánh nhìn
thấy các bức tranh vẽ 71 năm trước (vẽ cảnh
dội bom hồi Thế Chiến Thứ II ở miền San Lorenzo là nơi nghĩa trang này tọa lạc),
tôi
nghĩ rằng: "Đó thật là trầm trọng, thật là đau thương. Nhưng vẫn không thể nào
sánh với những gì đang xẩy ra hiện nay. Con
người chiếm hữu hết mọi sự, tin mình là chúa tể, tin rằng mình và vua chúa.
Rồi các cuộc chiến tranh, các cuộc chiến tranh tiếp tục bùng nổ, thật sự không
phải là để giúp gieo vãi hạt giống sự sống mà là hủy hoại. Nó là một
thứ kỹ nghệ hủy diệt. Nó cũng là một guồng máy
của sự sống để rồi không chỉnh sửa được
sự vật thì loại bỏ chúng đi, ở
chỗ chúng
ta đang loại
bỏ trẻ
em, chúng ta đang loại
bỏ người
già, giới trẻ bị loại
bỏ bởi chẳng có công ăn việc làm... Cuộc
tàn phá này là hậu quả của một thứ văn hóa phế thải. Chúng
ta loại bỏ con người. Đó là hình ảnh xuất hiện
trong đầu của tôi khi tôi lắng nghe Bài Đọc Thứ Nhất".
Hình ảnh thứ hai trong cùng Bài Đọc, đó là:
"Một đám thật là đông đảo
không ai đếm xuể, từ mọi dân nước, chi tộc, dân chúng và ngôn ngữ (7:9)... Các
quốc gia, dân tộc... Đang cảm thấy lạnh lẽo: những con người nghèo khổ này,
những con người cần phải
thoát thân vì đời sống
của họ, nhà
cửa của họ, dân tộc của họ, làng xóm của họ, vào sống trong sa mạc..., và họ sống ở trong
các cái lều,
họ
cảm thấy lạnh lẽo, không có thuốc men, bị đói khát..., vì 'con
người lãnh chúa' đã chiếm quyền kiểm
soát Thiên Nhiên Tạo Vật, kiểm soát tất cả những gì là tốt lành thiện hảo Thiên
Chúa đã làm cho chúng ta. Thế nhưng ai
là người phải trả giá cho thành phần này đây?
Thật vậy! Giới
trẻ, người nghèo, những ai bị loại bỏ. Điều này không phải thuộc về lịch sử cổ
xưa mà đang diễn ra ngày nay. 'Thế nhưng thưa
Cha, nó ở mãi đâu đâu...'
- Nó ở
cả ngay đây nữa! Ở hết mọi nơi. Nó đang xẩy ra hôm nay đây. Tôi muốn nói thêm
rằng hình
như những con người này, những trẻ em đang đói khát bệnh nạn ấy
không
là
những gì được
tính đến, như
thể họ thuộc về một một thể
loại nào
khác, thậm
chí như thể họ không phải là con người nữa.
Và đám đông này đang ở trước Thiên Chúa mà van xin: 'Xin thương cứu độ! Xin được
bình an! Xin được lương thực! Xin được việc làm! Trẻ em và thành phần làm ông
làm bà
van xin! Giới trẻ tự
trọng có
thể làm việc van xin!'"
Trong số
những con người ấy
có
cả những con người bị bách hại vì đức tin của mình, những con người "mặc áo
khoác trắng" được đoạn Sách Khải Huyền nhắc tới: "Họ là những người đến từ một cuộc đại
thảm
khốn và những chiếc áo
choàng của họ được
máu của Con Chiên nhuộm trắng".
"Hôm
nay, không phải là quá đáng, hôm
nay, nhân Lễ Các Thánh, tôi muốn chúng ta nghĩ đến tất cả những con người ấy,
những vị thánh khuyết danh.
Những
tội nhân như chúng ta, không được may mắn như chúng ta, bị hủy diệt.
Trong đám đông dân chúng này
ai là
người đang ở trong tình trạng đại thảm khốn: hầu hết thế giới đang bị thảm khốn.
Chúa lại thánh hóa thành phần này, những tội nhân như chúng ta, nhưng Chúa thánh
hóa những con người bị thảm khốn ấy".
Sau hết còn một hình ảnh thứ ba nữa: "Thiên
Chúa. Đầu tiên là tàn
phá; tiếp đến là
nạn nhân; sau hết
là Thiên Chúa. Thiên Chúa: 'Các con yêu dấu, giờ đây chúng ta là con cái của
Thiên Chúa', chúng ta đã nghe thấy trong bài đọc thứ hai, những gì chúng ta sẽ
trở nên nhưng chưa được tỏ hiện. Chúng ta không biết được khi nào được tỏ hiện
việc chúng ta được như Ngài, vì chúng ta sẽ thấy Ngài như Ngài là', tức là hãy
hy vọng. Và hy
vọng là
phúc lành của Chúa mà chúng ta vẫn có. Niềm
hy vọng Ngài sẽ thương đến dân của Ngài, thương đến những ai đang bị đại thảm
khốn và thương đến thành phần hủy diệt để họ biết hoán cải.
Nhờ thế sự thánh thiện của Giáo Hội tiến triển, ở chỗ, với những con người này,
với chúng ta mà chúng ta sẽ được thấy Thiên Chúa như Ngài là. Đâu
là thái độ chúng ta cần có nếu chúng ta muốn thuộc về đám đông đang tiến
bước đến cùng Cha này, trong thế giới bị tàn phá này, trong thế giới chiến tranh
này, trong thế giới thảm khốn này? Thái độ
của chúng ta, như chúng ta đã nghe thấy trong bài Phúc Âm, đó là
thái độ của các mối Phúc Đức.
Chỉ
có đường lối duy nhất ấy mới có thể dẫn chúng ta đến chỗ gặp gỡ Thiên Chúa. Chỉ
có đường lối ấy mới cứu chúng ta khỏi bị hủy
diệt, khỏi
hủy diệt Trái Đất này, hủy diệt tạo vật, hủy diệt luân lý, hủy diệt lịch sử, hủy
diệt gia đình, hủy diệt hết mọi sự. Đó là đường
lối duy nhất. Thế nhưng nó cũng gây cho chúng ta những gì là xấu xa. Nó khiến
chúng ta gặp trục trặc. Đó là bị bách hại. Thế nhưng đường lối duy nhất này sẽ
dẫn chúng ta tiến tới. Vậy những con người đang chịu khổ đau rất nhiều hôm
nay đây, gây ra bởi cái vị kỷ của thánh phần hủy hoại, thành phần hủy hoại anh
chị em chúng ta, những người
anh chị em đang
chống chọi tiến tới bằng các mối Phúc Đức, bằng niềm hy vọng gặp được Thiên
Chúa, được nhãn tiền thấy Chúa trong niềm hy vọng làm thánh ở cuộc
gặp gỡ cuối cùng của chúng ta với Ngài".
"Xin Chúa giúp chúng ta và ban cho chúng ta ơn hy vọng này, cả ơn can đảm để vượt lên trên tất cả mọi thứ hủy diệt, mọi thứ tàn phá, mọi thứ tương đối cuộc đời, mọi cuộc loại trừ người khác, loại bỏ các thứ giá trị, loại bỏ tất cả những gì Chúa đã ban cho chúng ta: loại trừ bình an. Xin cứu chúng con khỏi điều ấy, và ban cho chúng con ơn tiến bước trong niềm hy vọng được nhãn tiến thấy Chúa. Và anh chị em ơi niềm hy vọng này là những gì không gây thất vọng".
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ
(với nhan đề và những chỗ in nghiêng mầu tự ý muốn nhấn mạnh)
http://www.zenit.org/en/
Chúa Nhật Lễ Tôn Vinh Thánh Giá 14/9/2014 ở Đền Thờ Thánh Phêrô
bao gồm cả việc ngài Làm Phép Hôn Phối cho 20 cặp tân hôn thuộc Giáo Phận Rôma
Bài đọc thứ nhất hôm nay nói với chúng ta về cuộc hành trình qua sa mạc của dân Chúa. Chúng ta có thể mường tượng thấy họ như thể đang tiến bước theo ông Moisen; họ là các gia đình, là những người cha, người mẹ, con cái nam nữ, ông bà, thành phần nam nữ ở mọi lứa tuổi, bao gồm nhiều trẻ em và bậc lão thành là hai thành phần khốn khổ với cuộc hành trình này. Dân này nhắc nhở chúng ta về Giáo Hội, vì Giáo Hội đang băng qua vùng sa mạc của thế giới hiện đại, nhắc nhớ chúng ta về thành phần Dân Chúa được bao gồm hầu hết bởi các gia đình.
Sự kiện này khiến chúng ta nghĩ đến các gia đình, các gia đình của chúng ta, đang tiến bước trên những con đường cuộc sống với tất cả mọi kinh nghiệm thường nhật của mình. Không thể nào đo đếm được sức mạnh và chiều sâu của nhân loại nơi gia đình: vấn đề tương trợ nhau, việc hỗ trợ giáo dục, những mối liên hệ phát triển khi các phần tử của gia đình trưởng thành, việc chia sẻ những niềm vui cùng với các khó khăn. Gia đình là nơi đầu tiên chúng ta được hình thành làm người, đồng thời cũng là "những viên gạch" để xây dựng xã hội.
Chúng ta hãy trở lại với câu chuyện thánh kinh. Ở một mức độ nào đó, "dân chúng trên đường đi đã trở nên bất nhẫn" (Dân Số 21:4). Họ cảm thấy mệt mỏi, nước nôi thì cạn kiệt và thức ăn thì toàn là manna, một thứ lương thực cho dù có dồi dào do Chúa ban chăng nữa, cũng dường như đã trở nên quá nhàm chán trong lúc khủng hoảng. Bởi thế mà họ phàn nàn chống lại Chúa và Moisen: "Tại sao ông lại đem chúng tôi đi chứ?..." (Dân Số 21:5). Họ cảm thấy bị cám dỗ quay đầu lại và hủy bỏ cuộc hành trình này.
Đến đây chúng ta nghĩ đến các đôi phối ngẫu, thành phần "trên đường đi đã trở nên bất nhẫn", con đường của cuộc sống hôn nhân và gia đình. Tình trạng khốn khổ của cuộc hành trình đang khiến cho họ cảm thấy nội tâm mệt mỏi; họ đã bị mất đi ân phúc của phép hôn phối và họ thôi kín múc từ cái giếng Bí Tích này. Cuộc sống hằng ngày trở nên nặng nhọc và thậm chí thường còn cảm thấy "nôn mửa" nữa.
Trong những lúc lạc hướng như thế - Thánh Kinh cho biết - các con rắn độc xuất hiện cắn dân chúng khiến nhiều người bị chết. Sự kiện này làm cho dân chúng thống hối quay về cùng Moisen xin tha thứ, van xin ông cầu cùng Chúa để Ngài loại trừ loài rắn đi. Moisen đã cầu cùng Chúa và Chúa đã ban một phương dược đó là treo một con rắn đồng lên một cây cột để ai nhìn lên nó thì sẽ được lành khỏi nọc độc chết chóc của loại rắn.
Đâu là ý nghĩa của biểu hiệu này? Thiên Chúa không hủy diệt loài rắn, trái lại còn cống hiến nó như là "một chất giải độc", ở chỗ, qua con rắn đồng được Moisen thực hiện, Thiên Chúa truyền đạt quyền lực chữa lành là tình thương của Ngài, một tình thương còn mãnh liệt hơn cả nọc độc của Tên Cám Dỗ.
Như chúng ta đã nghe thấy trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đồng hóa mình với biểu hiệu này, ở chỗ, vì yêu thương Chúa Cha "đã ban" Người Con duy nhất của mình để nhờ đó con người nam nữ được sự sống đời đời (xem Gioan 3:13-17). Tình yêu bao la này của Chúa Cha đã thúc đẩy Người Con hóa thân làm người, thành một người tôi tớ và chết cho chúng ta trên thập tự giá. Vì tình yêu thương ấy, Chúa Cha đã làm cho Con của Ngài sống lại, ban cho Người quyền thống trị trên toàn thể vũ trụ. Điều này đã được Thánh Phaolô diễn tả trong bài thánh ca ở Bức Thư gửi cho Giáo Đoàn Philiphê (2:6-11). Ai ký thác bản thân mình cho Chúa Giêsu tử giá thì lãnh nhận tình thương của Thiên Chúa và được chữa lành khỏi nọc độc chết chóc của tội lỗi.
Việc chữa lành Thiên Chúa cống hiến cho dân chúng cũng áp dụng một cách đặc biệt cho các đôi phối ngẫu, thành phần "trên đường đi đã trở nên bất nhẫn" và là những người đang chiều theo chước cám dỗ nguy hiểm của chán chường, bất trung, yếu dại, trút bỏ... Thiên Chúa là Cha cũng ban Giêsu Con của Ngài cho cả họ nữa, không phải để lên án họ mà là để cứu họ: nếu họ biết ký thác bản thân mình cho Người thì Người sẽ chữa lành họ bằng tình yêu nhân hậu là những gì được tuôn trào từ Thánh Giá, với sức mạnh của ân sủng Người để canh tân các cặp phối ngẫu và các gia đình, giúp họ lại tiến bước theo đường ngay nẻo chính.
Tình yêu của Chúa Kitô, một tình yêu đã chúc phúc và thánh hóa mối hiệp nhất nên một vợ chồng, có thể bảo trì tình yêu của họ và canh tân tình yêu của họ khi nó, theo kiểu nói của loài người, bị mất đi, bị tổn thương hay bị hao mòn. Tình yêu của Chúa Kitô có thể phục hồi niềm vui cùng đồng hành cho các đôi phối ngẫu. Hôn nhân tất cả là ở chỗ đó, ở chỗ con người nam nữ cùng nhau bước đi, trong khi người chồng giúp cho vợ của mình trở nên một người đàn bà hơn bao giờ hết, và người vợ có nhiệm vụ giúp chồng mình trở thành một người đàn ông hơn bao giờ hết. Đó là công việc cả hai vợ chồng cùng chia sẻ. "Anh yêu em, và vì yêu em anh giúp em trở thành một người đàn bà hơn bao giờ hết"; "em yêu anh, và vì yêu anh em giúp anh trở thành một người đàn ông hơn bao giờ hết". Đến đây chúng ta thấy tính chất hỗ tương của những gì là khác biệt. Con đường này không phải bao giờ cũng bằng phẳng trơn tru, không xẩy ra bất đồng, bằng không nó không còn là nhân loại nữa. Nó là một cuộc hành trình gay go, có những lúc khó khăn và có những khi bấn loạn, mà đời sống lại là thế đó! Trong khoa thần học được lời Chúa cống hiến cho chúng ta đây, liên quan đến dân chúng đang thực hiện cuộc hành trình, các đôi phối ngẫu đang hành trình, tôi muốn cống hiến cho anh chị em một chút huấn dụ. Vợ chồng cãi cọ là chuyện bình thường: nó là chuyện thường. Nó bao giờ cũng xẩy ra. Thế nhưng tôi khuyên là đừng bao giờ để cho ngày sống kết thúc mà không làm hòa với nhau trước đã. Đừng bao giờ nhé! Chỉ cần một cử chỉ nho nhỏ là đủ. Nhờ đó mới có thể tiếp tục cuộc hành trình. Hôn nhân là một biểu hiện của cuộc sống, một cuộc sống thực sự chứ không phải là "tiểu thuyết"! Nó là Bí Tích yêu thương giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, một tình yêu được chứng tỏ và bảo đảm nơi Thánh Giá. Niềm mong ước của tôi nơi anh chị em đó là anh chị em có được một cuộc hành trình tốt đẹp, một cuộc hành trình sinh hoa kết trái, gia tăng yêu thương. Tôi chúc cho anh chị em được hạnh phúc. Sẽ có những thánh giá đau khổ! Thế nhưng Chúa luôn hiện diện ở đó để giúp chúng ta tiến tới. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em!
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ website của Tòa ThánhGiới truyền thông đã ồn ào lên trước thời gian Thượng Nghị 2014 này xẩy ra, khi họ tập trung vào một vấn đề duy nhất mà họ cho là nóng bỏng nhất và tranh cãi nhất, đó là vấn đề thành phần ly dị tái hôn được rước lễ.
Họ đã nêu lên sự kiện đụng độ công khai giữa hai luồng tư tưởng nghịch nhau, một chủ trương phò, như của ĐHY Kasper, và một chủ trương chống, như của một trong các vị hồng y là vị Tổng Trưởng Thánh Bộ Đức Tin Muller.
Phần ĐTC Phanxicô thì tiếp tục lắng nghe và cho là lành mạnh, bởi thế trong bài giảng khai mạc Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới 2014, ngài đã khuyến khích và thúc giục các nghị phụ tham dự hãy chân thành thẳng thắn phát biểu.
Chúng ta chắc chắn là cũng muốn biết dứt khoát chính bản thân ĐTC nghĩ sao, vị giáo hoàng chủ trương tình thương và đã từng tuyên bố Bí Tích Thánh Thể không phải chỉ giành riêng cho kẻ lành mạnh mà còn cho cả kẻ yếu đuối nữa.
Trong bài giảng cho Lễ Cưới của 20 cặp tân hôn ngày 14/9/2014 được ngài chủ sự cách 3 tuần trước Thượng Nghị này (5/10/2014) trên đây ngài vẫn tiếp tục chiều hướng tình thương và cứu vớt qua câu nói ở đoạn áp kết sau đây:
"Việc chữa lành Thiên Chúa cống hiến cho dân chúng cũng áp dụng một cách đặc biệt cho các đôi phối ngẫu, thành phần 'trên đường đi đã trở nên bất nhẫn' và là những người đang chiều theo chước cám dỗ nguy hiểm của chán chường, bất trung, yếu dại, trút bỏ... Thiên Chúa là Cha cũng ban Giêsu Con của Ngài cho cả họ nữa, không phải để lên án họ mà là để cứu họ: nếu họ biết ký thác bản thân mình cho Người thì Người sẽ chữa lành họ bằng tình yêu nhân hậu là những gì được tuôn trào từ Thánh Giá, với sức mạnh của ân sủng Người để canh tân các cặp phối ngẫu và các gia đình, giúp họ lại tiến bước theo đường ngay nẻo chính".
Chúng ta vẫn tiếp tục theo dõi phản ứng chung chung của các vị nghị phụ của Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới ngoại lệ lần ba 2014 này và chờ đợi quyết định tối hậu của Đức Thánh Cha Phanxicô, một quyết định sẽ được công bố vào năm 2015 sau Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới Thường Lệ XVI.
Trong khi chờ đợi, tôi tự nhiên có những cảm nghĩ riêng tư sau đây:
1- Chiếc Tầu Noe là nơi nương náu cứu vớt cho một gia đình thì phải chăng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, một trái tim đã được Mẹ tiết lộ cho chung 3 Thiếu Nhi Fatima nhất là cho riêng Lucia biết vào lần hiện ra thứ hai 13/6/1917, "là nơi cho con nương náu".
2- Nếu "Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ là nơi cho con nương náu" thì có thể được ví như Tầu Noe là nơi nương náu sống còn trong trận đại hồng thủy xưa (xem Sách Khởi Nguyên 7:1-12), mà Tầu Noe đã trở thành nơi nương náu cho một đại gia đình 8 người, thì phải chăng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ cũng là nơi nương náu cho gia đình?
3- Nếu Tầu Noe được hoàn tất trong vòng 100 năm (xem Sách Khởi Nguyên 5:32 và 7:6) thì một trùng hợp bất ngờ đang xẩy ra đó là ngay trước Biến Cố Thánh Mẫu Fatima 100 năm (1917-2017), tức chỉ còn 2-3 năm nữa, lại xẩy ra hai Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới liền (2014-2015), nhất là cuộc Thượng Nghị 2014, một cuộc thượng nghị được vị tân Giáo Hoàng Phanxicô (13/3/2013) ngỏ ý muốn (21/9/2013) tổ chức sớm bao nhiêu có thể.
4- Nếu văn hóa chết chóc từ thế kỷ 20 cho tới nay càng ngày càng trở nên ngập lụt khắp thế giới đến độ đã chẳng những tàn phá thiên nhiên tạo vật như đại hồng thủy xưa, mà còn nhận chìm cả văn hóa nhân bản đích thực của loài người nói chung và cơ cấu hôn nhân gia đình nói riêng, thì Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới 2014-2015 về hôn nhân gia đình phải chăng là dấu chỉ thời đại cho thấy Thiên Chúa muốn cứu vớt chung gia đình nhân loại và riêng các gia đình Kitô hữu khỏi đại lụt văn hóa chết chóc - culture of death, gây ra bởi chủ nghĩa tương đối và duy nhân bản?
5- Riêng về trường hợp Kitô hữu Công giáo ly dị tái hôn có được rước lễ hay chăng, thì theo tôi nên cứu xét đến trường hợp rất đặc biệt và ngoại lệ của người phụ nữ tội lỗi trong thành ở cuối đoạn 7 của Phúc Âm Thánh Luca (36-50) sẽ thấy được phần nào hay tất cả câu trả lời một cách khá rõ ràng.
6- Người phụ nữ tội lỗi này (được cho là một Mai Đệ Liên - đối chiếu Phúc Âm Luca 8:2; Marco 16:9; Gioan 11:2), trong tình trạng tội lỗi, với đôi tay đàng điếm nhơ nhớp, lại dám tự động, trực tiếp và ngang nhiên chạm đến Thánh Thể vô cùng thánh thiện toàn hảo của Chúa Giêsu, đến độ khiến vị chủ nhà Pharisiêu cũng lấy làm bỡ ngỡ (7:39).
7- Thế nhưng, Chúa Giêsu lại cứ để cho Thánh Thể của mình "bị" chạm đến bởi đôi bàn tay bẩn thỉu xấu xa của chị, kể cả cho đôi môi vốn đã từng làm tình với bao nhiêu tên đàn ông dâm dục của chị hôn lên Thánh Thể của Người, chỉ vì Người thấy được tất cả "tấm lòng tan nát khiêm cung" đầy mến yêu chân tình sâu thẳm của chị đối với Người (7:47).
8- Chính Thánh Thể mà "người phụ nữ tội lỗi trong thành" (7:37) cả gan dám chạm đến bằng tất cả tấm lòng tin tưởng ấy đã chẳng những chữa lành cho chị: "Tội lỗi của con đã được tha" (7:48), như thể chị đã được giải thoát khỏi các thứ thần ô uế xấu xa (xem Luca 8:2; Mrco 16:9), mà còn biến chị trở thành một trong những nữ phục vụ viên (xem Luca 8:2), nhất là thành một vị tông đồ của các tông đồ trong sứ vụ loan truyền Tin Mừng Phục Sinh của Chúa Kitô (xem Gioan 20:17-18).
9- Như thế, căn cứ vào trường hợp vô cùng ngoại lệ của người phụ nữ tội lỗi trong thành này thì phải chăng thành phần ly dị tái hôn, nếu thật lòng thống hối ăn năn, được cụ thể tỏ ra bằng những hành động chân tình nhất, vẫn có thể đến với Chúa và đến gần Chúa? Cho dù bấy giờ họ đang nhơ nhớp như người nữ tội lỗi, ở chỗ họ chưa thể bỏ được dịp tội là đời sống hôn nhân bất chính của họ, dù họ rất muốn, bởi nó gây ra bởi những ràng buộc cần được từ từ giải quyết, một giải quyết không thể thiếu quyền lực thần linh phi thường mới có thể thực hiện, một quyền lực thần linh chỉ xuất phát từ Thánh Thể, nhờ đó họ mới có thể được chữa lành như người phụ nữ tội lỗi trong thành.
10- Đặt trường hợp người phụ nữ tội lỗi trong thành, với tất cả lòng tin yêu của mình vào Đấng duy nhất có thể tha thứ cho mình và cứu vớt mình là Chúa Giêsu bấy giờ, khi chị vừa tự động mạnh dạn chạm vào Thánh Thể của Chúa Giêsu, liền bị Người quắc mắt lên thậm tệ quát tháo xua đuổi: "Đồ Satan, hãy xéo đi..." (Mathêu 16:23), thì phải chăng chị sẽ cảm thấy hoàn toàn tuyệt vọng, và sẽ tiếp tục buông thả theo cuộc sống tội lỗi của mình.
Tất cả mọi suy diễn trên đây xin hoàn toàn chờ đợi quyết định tối hậu của Giáo Hội qua Vị Đại Diện Chúa Kitô trên trần gian. Amen.
"Thiên Chúa là Cha cũng ban Giêsu Con của Ngài cho cả họ nữa, không phải để lên án họ mà là để cứu họ: nếu họ biết ký thác bản thân mình cho Người thì Người sẽ chữa lành họ bằng tình yêu nhân hậu là những gì được tuôn trào từ Thánh Giá, với sức mạnh của ân sủng Người để canh tân các cặp phối ngẫu và các gia đình, giúp họ lại tiến bước theo đường ngay nẻo chính".
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Hôm nay chúng ta đồng ý là Phúc Âm chúng ta vừa nghe như là một
bài Phúc Âm về hội ngộ: cuộc hội ngộ giữa trẻ và già, một cuộc hội ngộ đầy vui
mừng, đầy đức tin và đầy niềm hy vọng.
Cô Maria thì trẻ, rất trẻ. Bà Isave thì già,
nhưng tình thương của Thiên Chúa đã thể hiện nơi bà nên cho đến bấy giờ là 6
tháng bà đã cùng với chồng đang trông đợi có được một người con.
Cũng ở chỗ này, cô Maria thấy được đường lối, đó là cô lên đường viếng thăm
người chị họ lão thành của mình, để ở với bà, dĩ nhiên là để phụ giúp bà, thế
nhưng trên hết cũng để học nơi bà - một con người già dặn - thứ khôn ngoan của
cuộc sống.
Bài đọc thứ nhất hôm nay âm vang một cách khác nhau Giới Răn Thứ Bốn: "Hãy tôn
kính cha mẹ mình, để ngày thánh của các ngươi được dài lâu trên mảnh đất Chúa là
Thiên Chúa của các ngươi ban cho các ngươi" (Ex 20:12). Một
dân tộc không có tương lai thì chẳng có một cuộc hội ngộ nào như thế giữa các
thế hệ cả,
không có vấn đề con cái có thể tri ân chấp nhận chứng từ về đời sống được truyền
lại từ cha mẹ của chúng. Lòng biết ơn này đối với những ai đã ban cho anh chị em
sự sống cũng là một phần niềm tri ân đối với Cha trên trời của chúng ta.
Có những lúc các thế hệ giới trẻ,
vì những lý do phức tạp về lịch sử và văn hóa, cảm thấy một nhu cầu sâu xa
cần độc lập khỏi cha mẹ của mình, thực
sự "thoát ly - breaking free" khỏi di sản của thế hệ già nua. Nó
là một thứ nổi loạn của thanh thiếu niên.
Thế nhưng, trừ phi tái thiết được cuộc hội ngộ này, cuộc gặp gỡ giữa các thế hệ,
trừ phi phục hồi được mức quân bình liên thế hệ một cách mới mẻ và hiệu quả,
bằng không hậu quả xẩy ra đó là mọi người phải chịu một tình trạng cùng
quẫn trầm trọng, và cái tự do thịnh hành trong xã hội là một thứ tự do sai lầm,
một thứ tự do hầu như bao giờ cũng trở thành một hình thức độc tài chuyên chế.
Chúng ta nghe thấy cùng một sứ điệp này trong lời huấn dụ của Tông Đồ Phaolô nói
cùng môn đệ Timôthêu, và qua vị này cho cộng đồng Kitô hữu. Chúa
Giêsu không hủy bỏ lề luật về gia đình và sự kiện chuyển tiếp của các thế hệ,
nhưng đã làm cho nó được nên trọn. Chúa đã
hình thành nên một gia đình mới, trong đó những liên hệ về ruột thịt không quan
trọng bằng mối liên hệ của chúng ta với Người và việc chúng ta làm theo ý muốn
của Thiên Chúa Cha. Tuy
nhiên, tình yêu của Chúa Giêsu và Cha là những gì hoàn trọn và viên mãn tình yêu
của chúng ta với vai trò làm cha mẹ, anh chị em, và ông bà; tình yêu ấy cải tiến
các mối liên hệ gia đình bằng huyết mạch Phúc Âm và Thánh Linh.
Thế nên Thánh Phaolô mới thôi thúc môn đệ Timothêu, bấy giờ là một vị mục tử và
vì thế là người cha của cộng đồng này, hãy tỏ ra tôn kính các vị lão thành cùng
những phần tử trong gia đình. Ngài nói với vị này hãy làm thế như là một người
con, ở chỗ hãy đối xử với "những người nam cao tuổi hơn như là các người cha",
"những người nữ cao tuổi hơn như là các bà mẹ" và "những người nữ trẻ hơn như
là các người em" (xem 1Timôthêu 5:1). Vị làm đầu của cộng đồng này cũng
không được miễn trừ khỏi việc theo ý muốn của Thiên Chúa ở chỗ này; thật vậy,
tình yêu của Chúa Kitô thôi thúc vị lãnh đạo này làm như thế bằng một tình yêu
còn cao cả hơn nữa. Như Trinh
Nữ Maria, cho dù đã trở nên mẹ của Đấng Thiên Sai, vẫn cảm thấy mình được
thúc đẩy bởi tình yêu Thiên Chúa hiện thân nơi mình trong việc vội vàng đến với
người chị họ lão thành của mình.
Vậy chúng ta hãy trở lại với "hình ảnh" đầy vui mừng và hy vọng này, đầy đức tin
và đức ái ấy. Chúng ta có thể mường tượng thấy rằng Trinh Nữ Maria, khi đến thăm
nhà của Bà Isave, chắc nghe thấy bà cùng ông Zacaria chồng bà cầu nguyện bằng
những lời của bài thánh vịnh đáp ca hôm nay: "Ôi
Chúa, Chúa là niềm hy vọng của con, là niềm tin tưởng từ tuổi trẻ của con Ôi
Chúa... Xin đừng loại trừ con trong lúc tuổi già, đừng bỏ rơi con khi sức con
cạn kiệt ... Ôi Thiên Chúa, xin đừng bỏ rơi con vào lúc con luống tuổi bạc đầu,
cho đến khi con loan truyền quyền năng của Chúa cho các thế hệ mai sau"
(71:5,9,18). Con người trẻ Maria đã nghe thấy và cô đã lưu giữ tất cả
những điều ấy trong lòng của mình. Cái
khôn ngoan của bà
Isave và ông Zacaria đã
phong phú hóa tinh thần trẻ trung của cô.
Họ không phải
là các chuyên viên trong vai trò làm cha làm mẹ; đối với họ thì đó lại là lần
thụ thai đầu tiên. Thế nhưng họ là những chuyên viên về đức tin, những chuyên
viên trong Thiên Chúa, những chuyên viên về niềm hy vọng xuất phát từ Ngài:
và điều này là những gì thế giới cần đến ở hết mọi thời đại. Cô
Maria đã có thể lắng nghe những bậc cha mẹ vừa lão thành vừa bỡ ngỡ; cô đã lưu
giữ sự khôn ngoan của họ, một thứ khôn ngoan cô lấy làm trân quí trong cuộc hành
trình làm nữ giới của cô, làm người vợ của cô và làm người mẹ của cô.
Trinh Nữ Maria như thế đã cho chúng ta thấy đường lối: đường lối gặp gỡ giữa
giới trẻ và giới già. Tương
lai của một dân tộc cần phải có cuộc hội ngộ này, một cuộc hội ngộ mà
trong đó giới trẻ cống hiến sức mạnh giúp cho dân tộc tiến lên, trong khi giới
già cô đọng sức mạnh này vào ký ức của họ cũng như vào đức khôn ngoan truyền
thống của họ.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ
ĐTC Phanxicô - Bài Giảng nhân dịp 200 năm Dòng Tên được phục hồi
tại Nhà Thờ Gèsu Rôma trong giờ Kinh Tối Thứ Bảy 27/9/2014
Anh em và các bạn thân mến trong Chúa,
Trong những lúc thử thách và hoạn nạn, những đám mây bụi ngờ vực và đau thương
luôn nổi lên và không dễ gì mà tiến tới, mà tiếp tục cuộc hành trình. Đã
có nhiều chước cám dỗ, nhất là trong những lúc khó khăn và những cơn khủng
hoảng: không bàn đến những gì nghĩ tưởng nữa, để mình chi phối bởi những gì là
tàn rụi, tập trung vào sự kiện bị bách hại và đừng nhìn vào người khác.
Khi đọc các bức thư của Cha Ricci, một điều khiến tôi cảm kích đó là khả năng
của ngài trong việc làm sao tránh khỏi bị mắc cạn bởi những chước cám dỗ ấy mà
còn gợi lên cho tu sĩ Dòng Tên trong thời gian khốn khó một nhãn quan về những
gì làm cho họ thậm chí còn đâm rễ hơn nữa vào linh đạo của Hội Dòng.
Cha Tổng Quyền Ricci,
người đã viết cho tu sĩ Dòng Tên vào lúc ấy, khi thấy được mây mù dầy đặc ở chân
trời, đã củng cố vai trò làm phần tử của họ nơi cơ cấu của Hội Dòng và sứ vụ của
nó. Chính ở chỗ này, ở một thời điểm lẫn lộn và hỗn độn mà ngài đã
tỏ ra nhận thức.
Ngài đã không mất giờ bàn về những gì tưởng nghĩ và những gì phiền hà than
trách, nhưng ngài đã theo đuổi ơn
gọi của Hội Dòng.
Thái độ này đã dẫn tu sĩ Dòng Tên cảm nghiệm được cuộc tử nạn và phục sinh của
Chúa. Đối
diện với sự mất hết tất cả mọi sự, thậm chí cả cái căn tính công khai của mình,
họ không cưỡng lại ý muốn của Thiên Chúa, họ không cưỡng lại cuộc xung khắc,
trong việc cố gắng cứu lấy mình.
Hội Dòng này - thật là tuyệt vời - đã sống cuộc xung khắc này cho tới cùng,
không giảm thiểu nó xuống. Nó đã sống sự hổ nhục cùng với Chúa Kitô nhục nhằn;
nó đã vâng lời. Các bạn không thể nào tự cứu được mình khỏi cuộc xung khắc bằng
cách tinh khôn cũng như bằng những chính sách cưỡng chống. Trong
tình trạng lẫn lộn và hổ nhục, Hội Dòng này đã chọn sống bằng việc nhận thức ý
muốn của Thiên Chúa, không tìm cách thoát khỏi cuộc xung khắc một cách có vẻ
thầm lặng.
Cái trầm lặng bề ngoài không bao giờ làm cho cõi lòng của chúng ta thỏa nguyện
mà chính là niềm an bình thực sự được Chúa ban tặng. Người ta không bao giờ được
tìm kiếm "việc thỏa hiệp" dễ dàng hay không bao giờ được thực hiện "chủ trương
hòa giải" xoa dịu. Chỉ
duy có việc nhận thức mới là những gì cứu chúng ta khỏi bị bật gốc thật sự, khỏi
"bị đàn áp" thực sự bởi cõi lòng là nhũng gì vị kỷ, trần tục, lạc mất chân trời
của chúng ta.
Niềm hy vọng của chúng ta là Chúa Giêsu; chỉ một mình Chúa Giêsu. Bởi thế Cha
Ricci và Hội Dòng này, trong tình trạng bị dẹp bỏ, đã thăng hoa lịch sử hơn
là trở thành "một câu chuyện tầm phào nho nhỏ" mập mờ, biết rằng tình yêu là
những gì phán đoán lịch sử và niềm hy vọng - cho dù trong tăm tối - còn lớn lao
hơn cả lòng trông mong của chúng ta nữa.
Việc nhận thức cần phải được thực hiện bằng ý hướng đúng đắn, bằng một ánh mắt
chân thành. Đó là lý do chính
trong thời gian lẫn lộn và rối bời này, Cha Ricci đã đến để nói về các tội lỗi
của tu sĩ Dòng Tên. Ngài đã
không tự vệ bằng cảm giác như là một nạn nhân của lịch sử, mà nhận mình là một
tội nhân.
Việc nhìn vào bản thân mình và việc nhìn nhận mình là một tội nhân là việc tránh
né ở trong vị thế coi mình là một nạn nhân trước kẻ hành quyết. Việc nhìn nhận
mình là một tội nhân, thật sự nhìn nhận mình là một tội nhân, nghĩa là đặt mình
vào trong một thái độ xứng đáng để nhận được niềm an ủi.
Chúng ta có thể vắn tắt ôn lại tiến
trình nhận thức và
phục vụ này là những gì Cha Tổng Quyền ấy đã muốn nói cùng Hội Dòng đây. Vào
năm 1759,
khi mà các sắc lệnh Pombal đã hủy hoại các tỉnh dòng Bồ Đào
Nha của
Hội Dòng, thì Cha Ricci đã sống cuộc xung khắc này, không than trách và để mình
rơi vào tình trạng cô độc rã rời nhưng mời gọi nguyện cầu để xin cho được
một tâm thức tốt đẹp, thứ tâm thức thực sự siêu nhiên về ơn gọi, một tâm thức
hoàn toàn dễ dậy trước ơn Chúa. Vào
năm 1761,
khi mà cơn bão tiến sang tới Pháp
quốc,
Cha Tổng Quyền này đã xin đặt tất cả lòng tin tưởng vào Thiên Chúa. Ngài muốn
rằng họ cần phải lợi dụng những khốn khó cho một thứ thanh tẩy nội tâm lớn lao
hơn; những gian nan khốn khó ấy dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa và có thể làm
cho Ngài được hiển vinh hơn. Thế rồi vị tổng quyền khuyên cầu nguyện, sống
thánh, khiêm hạ và tinh thần tuân phục. Vào
năm 1770,
sau khi bị các tu sĩ Dòng Tên Tây
Ban Nha bị
trục xuất, ngài vẫn tiếp tục kêu gọi nguyện cầu. Sau cùng, vào
ngày 21 tháng 2 năm 1773,
chỉ 6 tháng trước khi xẩy ra việc ký ban hành Dominus
ac Redemptor, (biệt chú của người dịch: Dominus ac Redemptor là văn kiện dẹp
bỏ Dòng Tên ban hành ngày 21/7/1773 bởi Đức Thánh Cha Clement XIV), khi mà
hoàn toàn không còn một trợ giúp trần gian nào nữa, vị tổng quyền thấy được bàn
tay của tình thương Thiên Chúa mời gọi những ai đang chịu đựng cơn thử
thách ấy đừng tin tưởng bất cứ một ai ngoài Thiên Chúa. Lòng tin tưởng cần phải
gia tăng khi các tình huống đẩy chúng ta vào chân tường. Đối với Cha Ricci thì điều
quan trọng đó là Hội Dòng này phải
làm sao trung thực cho đến cùng với tinh thần ơn gọi của mình đó là làm cho
Thiên Chúa được hiển vinh hơn và cho phần rỗi các linh hồn.
Hội Dòng này, cho dù có phải đương đầu với tình trạng khai tử của mình, cũng
vẫn đã trung thành với mục đích mà nó được sáng lập.
Bởi thế, Cha Ricci đã kết thúc bằng một lời huấn dụ là hãy bảo tồn tinh thần
bác ái, hiệp nhất, tuân phục, nhẫn nại, tính chất chân thành theo Phúc Âm, tình
hữu nghị chân thực với Thiên Chúa. Còn mọi sự khác đều là trần tục. Ngọn lửa
nung nấu việc làm cho Thiên Chúa được hiển vinh hơn thậm chí cho đến hôm nay đây
thổi qua cả chúng ta nữa, đốt cháy đi tất cả những gì là tự mãn và bao bọc chúng
ta bằng một ngọn lửa ở trong chúng ta, co dãn chúng ta, làm cho chúng ta tăng
trưởng và khiến chúng ta co thắt.
Như thế, Hội Dòng này đã trải qua một cuộc thử thách hy sinh hết cỡ đòi nó phải
chịu đựng một cách bất công, dâng lời nguyện cầu của Tobia,
một tâm hồn tràn đầy sầu thương, đã thở dài, kêu than rồi nguyện cầu rằng: "Lạy
Chúa, Ngài là Ðấng công chính, mọi việc Ngài làm đều chính trực, tất cả đường
lối Ngài đều là từ bi và chân thật; chính Ngài xét xử thế gian. Và
giờ đây, lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con, xin đoái nhìn và chớ phạt con vì những
tội con đã phạm và những điều ngu muội của con cũng như của cha ông con.
Các ngài đã đắc tội trước Thánh Nhan và
bất tuân mệnh lệnh của Ngài. Ngài đã để chúng con bị cướp phá, phải tù đày và
chết chóc, nên trò cười, đề tài châm biếm và bia nhục mạ cho mọi dân tộc, nơi
chúng con đã bị Ngài phân tán. Lạy Chúa, xin đừng ngoảnh mặt không nhìn con" (Tobia
3:1-4,6d).
Và Chúa đã đáp ứng bằng việc sai Tổng Thần Raphael đến lấy đi những vết trắng
khỏi đôi mắt của Tobia, để nhờ đó ông có thể thấy lại được ánh sáng của Thiên
Chúa. Thiên Chúa thì nhân hậu, Thiên Chúa tôn vinh bằng tình thương. Thiên Chúa
yêu thương chúng ta và cứu độ chúng ta. Đôi khi con đường dẫn đến sự sống thì
chật hẹp thế nhưng gian nan hoạn nạn, nếu sống bằng tinh thần nhân hậu, là những
gì như lửa thanh tẩy chúng ta, nó cống hiến cho chúng ta nhiều niềm an ủi và
nung nấu cõi lòng của chúng ta, khơi động lời nguyện cầu về nó. Anh
em Dòng Tên của chúng ta trong thời bị dẹp bỏ này đã sốt sắng trong tinh thần
cũng như trong việc phụng sự Chúa, hân hoan trong hy vọng, kiên trì trong gian
nan, bền vững trong nguyện cầu (xem
Rôma 12:13). Đó là những gì đã làm sáng danh Hội Dòng này, thế nhưng thực ra
không phải là những gì chúc tụng về công lênh của nó. Bao giờ cũng thế.
Chúng ta hãy nhớ đến lịch sử của chúng ta: Hội
Dòng này "được ban cho ân sủng không phải chỉ để tin vào Chúa mà còn để
chịu đựng vì Ngài nữa"
(Philiphe 1:29). Nhớ điều ấy là chúng ta an toàn.
Con tầu của Hội Dòng này đã bị xô lấn bởi những cơn sóng và điều này chẳng có gì
là lạ lùng hết. Ngay cả con thuyền Phêrô ngày nay vẫn có thể bị sóng đánh. Đêm
tối và các thứ quyền lực đen tối bao giờ cũng cận kề. Việc chèo chống đang mệt
mỏi. Tu
sĩ Dòng Tên cần phải là "những tay chèo chống can trường và chuyên nghiệp" (Đức
Piô XII, Sollecitudo omnium ecclesiarum): bởi vậy hãy chèo chống! Hãy chèo
chống, hãy dũng mãnh, cho dù trước đầu gió! Chúng ta chèo chống để phục vụ Giáo
Hội. Chúng ta hãy cùng nhau chèo chống! Thế nhưng khi chúng ta chèo chống - tất
cả chúng ta đều chèo chống, ngay cả Giáo Hoàng cũng đang chèo chống trong con
tầu Phêrô - chúng ta cần phải cầu nguyện nhiều: "Lạy Chúa, xin cứu chúng con!
Xin Chúa cứu vớt dân của Ngài". Cho dù chúng ta là thành phần yếu tin, Chúa cũng
sẽ cứu chúng ta. Chúng ta hãy hy vọng nơi Chúa! Chúng ta hãy luôn hy vọng nơi
Chúa!
Hội Dòng này, được Đức Piô VII là vị tiền nhiệm của tôi phục hồi, đã bao gồm
những con người là thành phần hiên ngang và khiêm tốn nơi chứng từ hy vọng của
mình, chứng từ yêu thương và tính chất sáng tạo tông đồ, tính chất sáng tạo của
Thần Linh. Đức
Piô VII đã viết về nhu cầu cần phải phục hồi Hội Dòng này là "để hỗ trợ ngài một
cách thích đáng các nhu cầu thiêng liêng của thế giới Kitô giáo, bất phân biệt
dân tộc hay quốc gia" (ibid).
Vì thế, ngài đã cho phép tu sĩ Dòng Tên, thành phần vẫn còn ở đây đó, nhờ một vị
thống lãnh Lutheran và một vị thống lãnh Chính Thống (biệt chú của người
dịch: ở đây phải chăng ĐTC Phanxicô ám chỉ đến Đại Nữ Hoàng Nga là Catherine the
Great, một nhân vật nguồn gốc là tín đồ Lutheran ở Đức quốc nhưng đã chuyển
sang Chính Thống giáo sau khi thuộc về gia đình của Nga triều, một nhân vật đã
chẳng những tiếp tục cho các học đường của Dòng Tên được tồn tại trong vương
quốc của mình cho dù Dòng Tên đã bị dẹp bỏ mà còn cho Hội Dòng này mở Tập
Viện trong lãnh thổ của mình vào năm 1780 nữa?), "được liên kết lại thành
một cơ cấu". Nhờ đó Hội Dòng này đã hiệp nhất nên một cơ cấu!
Hội Dòng này lập tức truyền giáo và biến mình thành thuận lợi cho Tòa Thánh,
quảng đại dấn thân "dưới ngọn cờ thánh giá cho Chúa cũng như cho Vị Đại Diện của
Người trên trần gian này" (Formula of the Institute, 1). Hội
Dòng đã tái tấu hoạt động tông đồ giảng truyền và giảng dạy của mình, các thừa
tác vụ thiêng liêng, việc nghiên cứu khoa học và hoạt động xã hội, những công
cuộc truyền giáo và việc chăm sóc cho những người nghèo khổ, những người đau khổ
và những ai sống bên lề xã hội.
Hôm nay, Hội Dòng này cũng giúp vào việc giải quyết một cách khôn khéo và tận
tụy tình trạng thê thảm của những người tị nạn và những người tản mác; và
nó biết làm sao nỗ lực để việc phục vụ được hội nhập vào đức tin cũng như vào
việc cổ võ công lý hợp với Phúc Âm. Hôm nay tôi xin lập lại những gì Đức Phaolô
VI đã nói với chúng ta trong Đại Hội lần thứ 32 của chúng ta và là những gì
chính tai tôi đã nghe thấy: "Bất
cứ khi nào trong Giáo Hội, cho dù ở vào những trường hợp khó khăn và cực kỳ
nhất, giữa những giao điểm của các thứ ý hệ, trong các ngóc nghách xã hội,
nơi đã từng xẩy ra và đang xẩy ra tình trạng đối chọi nhau giữa các ước vọng sâu
xa nhất của con người với sứ điệp bất hủ của Phúc Âm, thì ở đó đã có mặt của anh
em và đang có mặt của thành phần tu sĩ Dòng Tên".
Vào năm 1814, thời gian được phục hồi, anh em tu sĩ Dòng Tên chỉ là một đàn nhỏ,
một "Hội Dòng nhỏ", thế nhưng nó đã biết cách đầu tư, sau cơn thử thách của
thánh giá, vào đại sứ vụ mang ánh sáng Phúc Âm cho tận cùng trái đất.
Bởi thế đó
là những gì chúng ta cần phải cảm thấy hôm nay đây: vượt biên (outbound), truyền
giáo (in mission).
Căn tính của tu sĩ Dòng Tên là căn tính của một con người kính mến Thiên Chúa
cùng yêu thương và phục vụ anh em của mình, được tỏ ra bằng gương sáng, chẳng
những về những gì họ tin tưởng mà còn về những gì họ hy vọng cũng như về Đấng
họ đặt niềm tin tưởng (xem 2Timôthêu 1:12). Tu
sĩ Dòng Tên muốn trở thành một bạn đồng hành của Chúa Giêsu, một bạn đồng hành
có những cảm thức giống như của Chúa Giêsu.
Sắc chỉ của Đức Piô VII phục hồi Hội Dòng này đã được ký ban hành ngày 7/8/1814,
tại Đền Thờ Đức Bà Cả, nơi cha thánh Ignatiô đã cử hành Lễ mở thay của ngài vào
Lễ Vọng Phục Sinh năm 1538 (cảm
nhận của người dịch: phải chăng Đền Thờ Đức Bà Cả có liên quan đến 2 biến cố
lịch sử của dòng mình như thế mà ĐTC Phanxicô đã có thói quen, ngay từ khi vừa
làm giáo hoàng, đến đây để dâng giáo triều của ngài cho Mẹ cũng như để dâng
từng chuyến tông du của ngài cho Mẹ nữa, sau đó trở về cũng đến tận nơi này để
tạ ơn Mẹ?). Mẹ Maria, Người Mẹ của Hội Dòng này, sẽ cảm kích trước những nỗ
lực của chúng ta trong việc phụng sự Con của Mẹ. Xin Mẹ luôn canh chừng chúng ta
và bảo vệ chúng ta.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo
http://www.zenit.org/en/articles/pope-s-homily-at-vespers-with-jesuits
(Nhan đề và những chỗ in nghiêng mầu là do tự ý của người dịch)
(Thánh Lễ 7 giờ sáng Thứ Hai ngày 7/7/2014 ở nguyện đường của Nhà Thánh Matta,
có sự tham dự của cả một
số gia đình cùng với phần tử của Ủy Ban Tòa Thánh đặc trách Bảo vệ Vị Thành
Niên)
Nơi cảnh tượng Tông Đồ Phêrô thấy Chúa Giêsu xuất hiện sau một cuộc tra vấn kinh
hoàng... con mắt của ngài đã chạm phải ánh mắt của Chúa Giêsu và đã khóc... Cảnh
tượng ấy hiện lên trong tâm trí của tôi khi tôi nhìn vào anh chị em đây, và tôi
nghĩ đến rất nhiều con người nam nữ, trẻ em nam nữ. Tôi
cảm thấy ánh mắt của Chúa Giêsu và tôi xin ơn khóc lóc, ơn để Giáo Hội khóc lóc
và đền bù cho con cái nam nữ của mình, thành phần đã phản bội sứ vụ của mình,
thành phần lạm dụng tình dục những con người vô tội.
Hôm nay tôi hết sức biết ơn anh chị em đã đến đây từ những nơi rất xa xôi.
Vào lúc này đây có những khi tôi cảm thấy sâu xa đớn đau và khổ sầu. Rất
nhiều lúc nó được ẩn kín, bị che giấu đi trước một hành động bất chính
nào đó không thể nào hiểu nổi cho tới khi ai đó nhận thức được rằng Chúa
Giêsu đang nhìn họ và nhìn những người khác như thế... và họ bắt đầu cảm
nhận được ánh mắt đó.
Một số ít người bắt đầu khóc ấy đã chạm đến lương tâm chúng ta về tội ác này và
trọng tội kia. Đó là những gì khiến cho tôi
cảm thấy buồn khổ và đau đớn trước sự kiện có một số vị linh mục và giám mục,
bằng việc lạm dụng tình dục các em vị thành niên, đã phạm đến tính chất ngây thơ
vô tội của họ cũng như đến ơn gọi linh mục của phạm nhân.
Nó là một cái gì đó vượt trên cả những hành động đáng khinh
ghét. Nó như là một thứ tôn sùng phạm thánh, vì nhưng em trai em gái ấy được
trao phó cho đặc sủng linh mục để được mang đến cùng Thiên Chúa. Những
phạm nhân ấy đã hiến tế những em này cho ngẫu tượng tình dục của mình. Họ tục
hóa chính hình ảnh của Thiên Chúa là Đấng
chúng ta đã được dựng nên tương tư như Ngài. Như tất cả chúng ta đều biết là trẻ
thơ, những tấm lòng trẻ dại, rất cởi mở và tin tưởng, theo cách thức riêng của
mình trong việc hiểu biết về các mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa và rất mong
muốn được lớn lên trong đức tin. Hôm
nay đây, tấm lòng của Giáo Hội đang nhìn vào đôi mắt của Chúa Giêsu ở nơi những
em trai và em gái này mà muốn khóc; Giáo Hội xin được ơn khóc lóc trước những
hành vi lạm dụng cực kỳ xấu xa đã lưu lại các vết xẹo cả đời.
Tôi biết rằng những vết thương này là nguồn đớn đau da diết sâu xa và thường
xuyên về cảm xúc cũng như thiêng liêng, thậm chí đến thất vọng chán chường.
Nhiều người đã chịu đựng như thế cũng đã tìm cách giảm bớt bằng đường lối nghiện
ngập. Những người khác đã trải qua các thứ khó khăn nơi những mối liên hệ quan
trọng, với cha mẹ, vợ chồng và con cái. Nỗi khổ đau ở trong các gia đình đặc
biệt là trầm trọng, vì cái tác hại gây ra bởi bị lạm dụng tình dục là những
gì ảnh hưởng tới các mối liên hệ trọng yếu về gia đình này.
Một số người thậm chí đã phải đương đầu với thảm họa kinh hoàng về cái chết tự
tử của một người thân yêu. Các cái chết của những người con cái rất yêu dấu của
Thiên Chúa này đã đè nặng trên tâm can và lương tâm của tôi cũng như của toàn
thể Giáo Hội. Tôi
muốn bày tỏ tình yêu và nỗi khổ tâm thực lòng của tôi với những gia đình ấy. Chúa
Giêsu, Đấng bị hành hình và tra vấn đầy hận thù, khi được đưa đến một chỗ khác
và đã nhìn ra ngoài. Người
nhìn đến một trong những kẻ hành hình Người, nhìn đến con người đã chối bỏ Người
và Người đã khiến hắn khóc lóc.
Chúng ta hãy van xin ơn sủng khóc lóc này cùng với ân sủng thực hiện
những bù đắp.
Tôị lỗi làm dụng tình dục của giáo sĩ phãm đến những em vị thành niên có một tác
dụng độc hại trên đức tin và đức cậy trông nơi Thiên Chúa. Một số trong anh chị
em đã giữ vững đức tin, trong khi đó có những người khác cảm nghiệm bị lừa đảo
và bỏ rơi đã khiến họ trở thành suy yếu niềm tin tưởng vào Thiên Chúa. Sự hiện
diện của anh chị em ở đây chứng tỏ một phép lạ của niềm hy vọng, phép lạ thắng
vượt được bóng tối thăm thẳm. Thật sự nó là dấu hiệu của tình thương Thiên Chúa
mà hôm nay chúng ta mới có cơ hội gặp gỡ nhau, để tôn thờ Thiên Chúa, để nhìn
vào mắt của nhau và để xin ơn hòa giải.
Trước nhan Thiên Chúa và dân của Ngài, tôi xin bày tỏ niềm sầu thương của tôi về
tội lỗi và các tội ác trầm trọng lạm dụng tình dục của giáo sĩ đã phạm đến anh
chị em. Và tôi khiêm tốn xin anh chị em tha thứ.
Tôi cũng xin anh chị em tha thứ cả các tội lỗi không chịu ra tay giải quyết về
phía các vị lãnh đạo trong Giáo Hội, những vị không đáp ứng một cách thích đáng
trước việc tường trình lạm dụng được thực hiện bởi phần tử của gia đình nạn
nhân, cũng như bởi chính nạn nhân bị lạm dụng. Điều ấy
lại càng gây ra khổ đau hơn nữa nơi những ai bị lạm dụng và gây nguy hiểm cho
các trẻ em vị thành niên có thể bị nguy cơ lạm dụng.
Mặt khác, lòng can đảm được anh chị em và những người khác tỏ ra khi lên tiếng,
khi nói lên sự thật, là việc phục vụ của tình yêu thương, vì đối với chúng tôi
nó đã chiếu rọi ánh sáng vào bóng tối kinh hoàng trong đời sống của Giáo Hội. Không
có chỗ đứng trong thừa tác mục vụ của Giáo Hội cho những ai phạm đến những
thứ lạm dụng ấy, và tôi tự hứa rằng sẽ không dung nhượng cho bất cứ tác hại
nào gây ra cho một em nhỏ bởi bất cứ cá nhân nào, dù là giáo sĩ hay không. Tất
cả mọi vị giám mục cần phải thi hành thừa tác mục vụ của mình một cách hết sức
cẩn thận để giúp bảo trì việc bảo vệ vị thành niên, và các vị sẽ bị trả lẽ về
vấn đề này.
Những gì Chúa Giêsu nói về những ai gây ra gương mù gương xấu đều được áp dụng
cho tất cả chúng ta, đó là tảng đá và biển cả (xem Mathêu 18:6).
Cũng thế, chúng
tôi sẽ tiếp tục tỉnh táo trong vấn đề huấn luyện linh mục.
Tôi tin tưởng vào các phần tử thuộc Ủy Ban Tòa Thánh đặc trách Bảo Vệ Trẻ Em,
thành phần mà ở bất cứ miền đất nào họ sống, đều là những bông hoa nhỏ được
Thiên Chúa âu yếm ngắm nhìn.
Tôi xin được sự nâng đỡ này để giúp tôi bảo đảm rằng chúng ta phác họa những qui
chế cùng với những phương sách tốt đẹp hơn trong Giáo Hội hoàn vũ để bảo vệ vị
thành niên cũng như để huấn luyện nhân viên của Giáo Hội nơi việc áp dụng những
qui chế và phương sách ấy. Chúng
ta cần phải làm hết sức có thể để bảo đảm rằng những tội lỗi này không còn
chỗ đứng nữa trong Giáo Hội.
Anh chị em thân mến, vì tất cả chúng ta đều là phần tử của gia đình Thiên Chúa, chúng
ta được kêu gọi để sống cuộc đời theo tình thương. Chúa
Giêsu, Đấng Cứu Thế của chúng ta, là mẫu gương tối hậu về tình thương;
dù vô tội Người cũng đã mặc lấy tội lỗi của chúng ta trên thập tự giá. Được
hòa giải là chính yếu tính nơi căn tính chung của chúng ta là thành phần theo
Chúa Giêsu Kitô.
Bằng việc trở về cùng Người, được trợ giúp bởi Người Mẹ rất thánh của chúng ta,
Vị đã âu sầu ở dưới chân thập giá, chúng ta hãy xin được ơn hòa giải với toàn
thể dân Chúa. Việc chuyển cầu yêu thương của Đức Mẹ Xót Thương Dịu Hiền là mạch
nguồn trợ giúp bất khả thiếu trong tiến trình chữa lành của chúng ta.
Anh chị em cùng với tất cả những
ai bị giáo sĩ lạm dụng tình dục đều được Thiên Chúa yêu thương.
Tôi nguyện cầu để những
vết tích tồn tại của tăm tối đã đụng chạm đến anh chị em được chữa lành bởi vòng
tay ôm ấp của Con Trẻ Giêsu và
những gì tác hại anh chị em sẽ nhường bước cho một đức tin và niềm vui mới.
Tôi xin cám ơn cho cuộc gặp gỡ này. Xin
cầu nguyện cho tôi, để đôi mắt của lòng tôi thấy được một cách rõ ràng con đường
của tình yêu nhân hậu,
và để Thiên Chúa ban cho tôi lòng can đảm kiên trì trên con đường này vì
thiện ích của tất cả mọi trẻ em và giới trẻ. Chúa Giêsu ra khỏi một phiên tòa
bất công, khỏi một cuộc tra vấn dữ tợn và Người nhìn vào đôi mắt của Tông Đồ
Phêrô khiến Phêrô khóc lóc. Chúng
ta hãy xin Người hãy nhìn đến chúng ta và hãy để cho chính chúng ta được đoái
nhìn và khóc lóc, và xin Người ban cho chúng ta ơn biết hổ thẹn, nhờ đó, như
Tông Đồ Phêrô, 40 ngày sau, chúng ta có thể thân thưa rằng: "Thày biết rằng con
yêu mến Thày",
rồi nghe thấy Người nói rằng: "con hãy trở về mà săn sóc chiên của Thày" - và
tôi xin được thêm như thế này - "đừng để
cho sói lọt vào đàn chiên".
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ http://www.zenit.org/en/articles/pope-s-homily-at-mass-with-sexual-abuse-victims
Những chi tiết in mầu nghiêng là do người dịch tự ý muốn nhấn mạnh, bao gồm cả
nhan đề của bài giảng.
Thành phần nạn nhân bị lạm dụng tình dục bởi các vị giáo sĩ bao gồm 6 người, 3
nam và 3 nữ, được Đức Hồng Y O'Malley mời, trong đó có 2 từ Anh quốc, 2 từ Đức
quốc và 2 từ Ái Nhĩ Lan là những quốc gia tiêu biểu nhất cho tình trạng giáo sĩ
lạm dụng tình dục vị thành niên. Họ đến Nhà Thánh Matta từ chiều hôm trước, Chúa
Nhật ngày 6/7/2014, và ĐTC Phanxicô đã đến chào hỏi họ sau bữa ăn tối của họ.
Sáng hôm sau, Thứ Hai ngày 7/7/2014, họ đã được dự thánh lễ ngài dâng và ngài đã
giảng lễ bằng tiếng Tây Ban Nha (đã được chuyển dịch và phổ biến ngay hôm qua). Sau
Thánh Lễ ngài đã đến chào từng người dự lễ theo thói quen. Và sau khi họ điểm
tâm, vào lúc 9 giờ sáng đến 12 giờ 20 trưa, Đức Thánh Cha đã gặp gỡ từng nạn
nhân, trung bình nửa tiếng một người, và mỗi người đều có thông dịch viên riêng.
Vị giám đốc văn phòng báo chí của Tòa Thánh là cha Lombardi được các nạn nhân
cho biết rằng họ hết lòng cám ơn ĐTC vì đặc biệt chuyên chú lắng
nghe họ bày tỏ nỗi lòng - họ rất hài lòng về cuộc gặp gỡ này. Về phần Đức Thánh
Cha, cũng theo vị giám đốc này, cuộc gặp gỡ này đã làm cho ngài rất cảm động.
Hôm Chúa Nhật mùng 6/7/2014 Ủy Ban Tòa Thánh đặc trách Bảo Vệ Vị Thành Niên họp
lần thứ hai, dưới sự chủ tọa của Đức Hồng Y người Mỹ là Sean O'Malley, với dự án
về các tân phần tử thuộc các miền đất khác, đặc biệt là Á Châu và Phi Châu. Cuộc
họp lần thứ 3 sẽ được diễn tiến vào Tháng 10 tới đây.
ĐTC Phanxicô lập lại chiều hướng bất dung nhượng - zero tolerance của Đức Thánh
Cha Biển Đức XVI đối với những trường hợp giáo sĩ lạm dụng tình dục vị thành
niên. Để đạt được mục đích ấy ngài đã thiết lập Ủy Ban Tòa Thánh đặc trách Bảo
Vệ Vị Thành Niên với vị giám đốc là Mary Collins, một trong các nạn nhân bị lạm
dụng tình dục.
Theo chiều hướng bất dung nhượng ấy, vào ngày 27/6/2014, nguyên Khâm Sứ Tòa
Thánh ở Cộng Hòa Dominican là Josef Wesolowski đã bị giáng xuống bậc giáo dân
sau khi bị kết án lạm dụng tình dục vị thành niên bởi tòa án giáo hội.
Năm 2014 Tòa Thánh cũng tường trình cho Liên Hiệp Quốc biết rằng Tòa Thánh điều
tra 2,572 vụ lạm dụng tình dục trẻ em, và trong số 3,420 trường hợp lạm dụng
tình dục trẻ em ở thập niên vừa qua có 848 vị linh mục đã bị loại trừ.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, theo tài liệu từ http://www.zenit.org/en/articles/pope-gives-six-victims-of-abuse-sense-of-hope
Vào ngày lễ Mình Thánh Chúa (Corpus Domini) chúng ta cử hành Chúa Giêsu là "bánh
hằng sống từ trời xuống" (Gioan 6:51), lương thực cho lòng khao khát sự sống
trường sinh của chúng ta, sức mạnh cho cuộc hành trình của chúng ta. Tôi xin
tạ ơn Chúa, Đấng hôm nay đã cho tôi được dịp cử hành Mình Thánh Chúa với anh chị
em của Giáo Hội đây ở Cassano allo Jonio. Thánh lễ hôm nay là thánh lễ Giáo Hội
chúc tụng Chúa về tặng ân Thánh Thể. Trong khi Thứ Năm Tuần Thánh là ngày chúng
ta tưởng nhớ đến việc thiết lập Thành Thể trong Bữa Tiệc Ly thì hôm nay là
ngày đề cao việc tạ ơn và tôn thờ. Thật vậy, theo
truyền thống thì ngày này bao gồm cả việc cung nghinh Bí Tích Thánh. Để tôn thờ
Thánh Thể Chúa Giêsu và để bước đi với Người. Hai khía cạnh bất khả phân ly này
của Thánh lễ hôm nay, hai khía cạnh đánh dấu tất cả đời sống của dân Kitô giáo:
một dân tôn thờ Thiên Chúa và bước đi với Ngài.
Trước hết, chúng ta là một thành phần dân tôn thờ Thiên Chúa. Chúng ta tôn thờ
Thiên Chúa, Đấng là tình yêu, Đấng nơi Chúa Giêsu Kitô đã ban cho mình chúng
ta, đã cống hiến bản thân mình trên cây thập tự giá để xóa bỏ tội lỗi của chúng
ta, và bằng quyền năng của tình yêu này Ngài đã sống lại từ cõi chết để sống
trong Giáo Hội của Ngài. Chúng ta không có vị Thiên Chúa nào khác ngoài vị Thiên
Chúa này!
Khi việc tôn thờ Chúa bị thay thế bằng thứ tôn thờ tiền bạc, thì con đường
dẫn đến tội lỗi mở lối cho tư lợi... Khi người ta không tôn thờ Chúa, họ trở
thành một kẻ tôn thờ sự dữ, như những con người sống một cách bất lương và
bạo động. Mảnh đất
của anh chị em rất xinh đẹp đây đã chứng kiến thấy các dấu hiệu về những hậu quả
của thứ tội lỗi này. Mafia ở
Calabria (the 'ndrangheta) là thành phần này: tôn thờ sự dữ và khinh thường
công ích.
Cần phải chiến đấu với sự dữ ấy, cần phải loại trừ nó đi. Nó cần phải bị chối
bỏ. Giáo Hội, một Giáo Hội rất quan tâm đến việc giáo dục lương tâm, bao giờ
cũng cần phải dấn thân hơn nữa để phát động sự thiện. Con cái của chúng ta xin
chúng ta làm điều này (biệt chú của người dịch: trong
số thành phần con cái được ĐTC không phải là vô ý mà nhắc đến, vào tháng1/2014,
có em bé Nicola
Campolongo 3
tuổi đã cùng với ông của mình bị bắn chết và cả hai xác chết bị đốt ở trong một
chiếc xe).
Giới trẻ là thành phần cần hy vọng xin chúng ta làm
như thế (biệt chú của người dịch -
giới trẻ ở nơi ĐTC thăm viếng hôm Thứ Bảy 21/6/2014 này bị thất nghiệp lên đến
56% và bị bọn Mafia ở đây khai thác với những hứa hẹn hão huyền). Để có
thể đáp ứng những đòi hỏi này, chúng ta cần đến đức tin. Những
ai trong đời sống của mình đã từng theo đuổi con đường này, con đường sự dữ ấy,
chẳng hạn như thành phần băng đảng tội ác bạo lực (biệt
chú của người dịch - ở đây ĐTC không trực tiếp sử dụng chữ "mafia" mà
là "mobsters", nhưng hầu như ai cũng hiểu rằng ngài ám chỉ thành phần có tính
cách băng đảng tội ác bạo lực khét tiếng ở Ý quốc này, và đây không phải là
lần đầu tiên vị giáo hoàng đương kim chủ trương và sống nghèo khó đang canh tân
Tòa Thánh Rôma sau vụ bê bối liên quan đến ngân hàng của Tòa Thánh của chúng
ta dám nói động tới thành phần đệ nhất băng đảng trên thế giới này một cách dữ
dội và thẳng thắn như vậy, mà vào Tháng 3/2014, trong cuộc gặp gỡ các gia đình
nạn nhân, ngài đã trực tiếp lên tiếng kêu gọi thành phần cầm đầu mafia hãy thống
hối ăn năn: "hỏa ngục... đang đợi chờ các người nếu các người cứ tiếp tục đường
lối ấy" ), họ
không ở trong mối hiệp thông với Thiên Chúa, họ đang bị mất thông công (biệt
chú của người dịch - ở đây,
theo nội dung và mạch văn của lời vị giáo hoàng hằng tỏ lòng thương cảm với cả
thành phần đáng thương về luân lý, không riêng gì về thể lý, thì không phải là
ngài chính thức dùng quyền tối cao của mình để công khai tuyên bố băng đảng
mafia Ý quốc là thành phần bị dứt phép thông công khỏi Hội Thánh Công Giáo -
"excummunicated", mà ngài chỉ sử dụng một thứ ngôn từ mạnh mẽ nhất để nói đến
tình trạng rất trầm trọng và cực đoan vô cùng nguy hiểm đến phần rỗi đời đời của
họ, nếu họ cứ tiếp tục lao đầu sống theo đường lối "tôn thờ sự dữ", "tôn thờ
tiền bạc", "sống bất lương và bạo động", như ngài đã đề cập đến trước đó, và
tình trạng họ sống như thế tự nó đã khiến không được hiệp thông với Thiên Chúa,
một tình trạng tự nó làm mất đi sự hiệp thông với cả Giáo Hội)
Hôm nay, chúng ta tuyên xưng điều này bằng ánh mắt nhìn lên Mình Thánh Chúa, lên
Bí Tích trên Bàn Thờ. Vì đức
tin ấy, chúng ta từ bỏ Satan cùng với tất cả mọi mưu chước cám dỗ của hắn; chúng
ta từ bỏ những thứ ngẫu tượng tiền bạc, hư danh, kiêu hãnh và quyền lực. Chúng
ta, thành phần Kitô hữu, không muốn tôn thờ bất cứ gì hay bất cứ ai trên thế
giới này ngoại trừ Chúa Giêsu Kitô, Đấng đang hiện diện trong Thánh Thể. Có
lẽ chúng ta không luôn luôn nhận thức được một cách sâu xa điều ấy có nghĩa là
gì, các thành quả đạt được hay phải đạt được trong việc chúng ta tuyên xưng như
thế. Hôm nay chúng ta xin Chúa hãy soi sáng cho chúng ta và hoán cải chúng ta,
nhờ đó chúng ta thực sự chỉ tôn thờ duy một mình Người và chúng ta loại trừ đi
sự dữ cùng với tất cả mọi hình thức của nó.
Thế nhưng đức tin của chúng ta tin vào sự hiện diện thực hữu của Chúa Giêsu Kitô
là Thiên Chúa thật và là người thật trong tấm bánh và chất rượu được thánh hiến
là những gì chân thực nếu chúng ta dấn thân theo Người và bước đi với Người, tìm
cách mang ra thực hành giới răn Người đã truyền cho các môn đệ trong Bữa Tiệc
Ly: "Thày yêu thương các con thế nào các con cũng hãy yêu thương nhau như vậy"
(Gioan 13:34). Thành
phần dân tôn thờ Thiên Chúa trong Thánh Thể là thành phần bước đi trong đức ái.
Hôm nay, với tư cách là giám mục Rôma, tôi đến đây để củng cố anh chị em chẳng
những trong đức tin mà còn trong đức ái nữa, để
hỗ trợ anh chị em và để phấn khích anh chị em trong cuộc hành trình của anh chị
em với Chúa Giêsu Đức Ái (Jesus Charity)... (ĐTC vắn tắt ngỏ lời phấn
khích mọi thành phần giáo quyền và dân sự ở đây).
Tôi phấn khích tất cả mọi người trong việc làm chứng cho tình đoàn kết cụ thể
với anh chị em mình, nhất là với những ai cần đến công lý, hy vọng và
sự êm ái dịu dàng nhất. Tạ ơn Chúa về nhiều dấu hiệu hy vọng trong các gia đình,
giáo xứ, hội đoàn và các phong trào trong giáo hội của anh chị em. Chúa Giêsu
không thôi tác động các hành động bác ái nơi thành phần dân đang hành trình của
Người! Dự Án Policoro là một dấu hiệu cụ thể về hy vọng cho giới trẻ, thành phần
muốn tham dự cuộc chơi và kiến tạo nên những khả thể làm việc cho chính mình
cũng như cho người khác. Giới
trẻ thân mến, các bạn đừng để mình bị đánh cắp mất đi niềm hy vọng nhé! Việc tôn
thờ Chúa Giêsu trong lòng các bạn và sống hiệp nhất với Người là những gì
giúp các bạn biết cách chống lại sự dữ, bất công, bạo lực bằng quyền năng của sự
thiện, sự thật và sự mỹ.
Anh chị em thân mến, Thánh Thể đã qui tụ chúng ta lại nơi đây. Thân Mình của
Chúa làm cho chúng ta thành một, một gia đình, một thành phần dân của Chúa bao
quanh Chúa Giêsu là Bánh Sự Sống. Những gì tôi nói cùng giới trẻ tôi cũng muốn
nói với tất cả anh chị em: nếu
anh chị em tôn thờ Chúa Kitô, theo Người và bước đi với Người thì Giáo Hội địa
phận (diocesan Church) của anh chị em và giáo xứ của anh chị em sẽ phát triển
trong đức tin và đức ái, trong niềm vui truyền bá phúc âm hóa.
Anh chị em sẽ là một Giáo Hội mà trong đó các người cha, người mẹ, linh mục, tu
sĩ, giáo lý viên, trẻ em, người già và giới trẻ cùng tiến bước bên nhau, nâng đỡ
nhau, giúp lẫn nhau, yêu thương nhau như anh chị em của nhau, nhất là trong
những lúc khó khăn.
Maria, Người Nữ Thánh Thể (Euchatistic Woman), vị mà anh chị em tôn kính ở
nhiều đền thánh, nhất là ở đền thánh Castrovillari, là Đấng dẫn lối cho anh chị
em trong cuộc hành trình đức tin này. Xin Mẹ luôn giúp anh chị em hiệp nhất để
nhờ chứng từ của anh chị em Chúa có thể tiếp tục cống hiến sự sống cho thế
giới.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo http://www.zenit.org/en/articles/pope-s-homily-at-mass-in-calabria-s-piana-di-sibari
(Nhan đề và các chi tiết được in nghiêng và mầu là do người dịch tự ý muốn nhấn
mạnh)
"Thân Mình của Chúa Kitô là thứ bánh của thời sau hết có khả năng ban sự sống và là sự sống vĩnh cửu,
vì yếu tính của thứ bánh này là Tình Yêu"
ĐTC Phanxicô - Bài Giảng Lễ Mình Máu Chúa Kitô tối Thứ Năm 19/6/2014
"Chúa là Thiên Chúa của các người... đã nuôi dưỡng các người bằng manna là lương
thực các người không biết là gì" (Đệ Nhị Luật 8:2).
Những lời của Sách Đệ Nhị Luật này liên quan đến lịch sử của dân Do Thái, một
dân đã được Thiên Chúa đem ra khỏi Ai Cập, khỏi thân phận làm thân nô lệ, và dẫn
dắt suốt 40 năm trong sa mạc để tiến về Đất Hứa. Khi đã định cư ở mảnh đất ấy
rồi, thành phần Dân Tuyển Chọn này đã đạt được một cuộc sống độc lập, một cuộc
sống an bình phúc hạnh, và có nguy cơ quên đi các biến cố buồn thảm trong quá
khứ là những gì đã được thắng vượt bởi việc can thiệp của Thiên Chúa theo lòng
vô cùng từ ái của Ngài. Bấy giờ Thánh Kinh đã huấn dụ để nhắc nhở về tất cả cuộc
hành trình trong sa mạc, lúc họ bị thiếu thốn và chịu khổ cực. Lời mời gọi này
là lời mời gọi hãy trở
về với những gì là thiết yếu,
với cảm nghiệm của việc họ hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, khi vấn đề sống
còn của họ được ký thác trong tay Ngài, nhờ đó con người mới hiểu được rằng "họ không
sống nguyên bởi bánh mà... bởi hết những gì xuất phát từ miệng của Chúa"
(Đệ Nhị Luật 8:3).
Ngoài cái đói khát về thể lý, con người còn mang trong mình một thứ đói
khát khác, thứ đói khát không thể thỏa mãn bằng các thứ lương thực bình
thường. Đó là thứ đói
khát sự sống, đói khát yêu thương, và đói khát trường sinh.
Dấu hiệu manna - như tất cả cảm nghiệm về cuộc Xuất Hành - tự nó cũng đã chất
chứa chiều kích này, ở chỗ, nó là hình ảnh về một thứ lương thực làm thoả mãn
cái đói khát sâu xa nơi con người. Thật vậy, Chúa Giêsu cống hiến cho chúng ta
thứ lương thực này, tự Người là bánh hằng sống ban sự sống cho thế gian (xem
Gioan 6:51). Thân Mình của Người thực sự là lương thực dưới dạng thức bánh; Máu
của Người thực sự là của uống dưới dạng thức rượu. Đó không phải chỉ là một
dưỡng chất làm cho thân thể của chúng ta no thỏa như manna; Thân
Mình của Chúa Kitô là thứ bánh của thời sau hết ("the
bread of the end times", ở đây có thể hiểu theo nghĩa của đoạn câu 1:2 trong Thư
Do Thái, tức là "thời viên trọn" ở Thư Galata 4:4, thời Tân Ước kể từ biến
cố Lời nhập thể - biệt chú của người dịch), có
khả năng ban sự sống và là sự sống vĩnh cửu, vì yếu tính của thứ bánh này là
Tình Yêu.
Tình yêu của Chúa đối với chúng ta được truyền thông ở nơi Thánh Thể:
một tình yêu cao cả đến độ Người lấy chính mình nuôi dưỡng chúng ta, một tình
yêu nhưng không, bao giờ cũng tùy vào việc sử dụng của hết mọi con người đói
khát và cần đến sức mạnh tái sinh của Người. Việc sống
cảm nghiệm đức tin này là ở chỗ để mình được Chúa nuôi dưỡng và xây dựng cuộc
sống của mình không phải trên những thứ sản vật thể chất mà là trên một thực tại
không bao giờ tàn phai đó là các tặng ân của Thiên Chúa, Lời của Ngài và Mình
của Ngài.
Nếu chúng ta nhìn chung quanh chúng ta, chúng ta nhận thấy rằng có
quá nhiều thứ lương thực được cống hiến mà không xuất phát từ Chúa lại dường như
làm cho chúng ta được no thỏa hơn. Một số nuôi dưỡng họ bằng tiền bạc, số khác
bằng thành đạt và ảo ảnh, số khác bằng quyền lực và kiêu kỳ.
Tuy nhiên, thứ lương thực thật sự nuôi dưỡng chúng ta và thỏa mãn chúng ta thì
chỉ là thứ lương thực Chúa ban cho chúng ta thôi! Lương thực được Chúa cống hiến
cho chúng ta không giống các lương thực khác, và có lẽ dường như không ngon bằng
một số lương thực nào đó do thế gian cống hiến cho chúng ta. Thế rồi chúng
ta mơ tưởng đến các bữa ăn khác, như những người Do Thái đã tỏ ra trong sa mạc,
họ thương khóc thịt thà và hành tỏi họ ăn ở Ai Cập, nhưng họ đã quên đi rằng
họ đã ăn những bữa ăn ấy nơi bàn ăn của tình trạng làm nô lệ.
Vào lúc bị cám dỗ ấy, họ đã tưởng nhớ lại, nhưng ký ức
của họ là một thứ ký ức bệnh hoạn, nó là một thứ nhớ nhung ưa chuộng - một thứ
nhớ nhung nô lệ chứ không phải tự do.
Hôm nay, mỗi người chúng ta có thể tự vấn xem: còn
tôi thì sao? Tôi muốn ăn uống ở đâu đây? Tôi muốn nuôi dưỡng mình ở tại bàn ăn
nào vậy? Ở bàn ăn của Chúa hay chăng? Hay tôi lại mơ tưởng đến việc ăn uống các
thứ lương thực ngon lành nhưng trong tình trạng nô lệ? Hơn
thế nữa, mỗi một người chúng ta có thể tự vấn xem: đâu
là ký ức của tôi? Ký ức về Chúa là Đấng cứu độ tôi, hay ký ức về các thứ hành
tỏi của tình trạng làm thân nô lệ? Tôi thỏa mãn linh hồn tôi bằng thứ ký ức nào
chứ?
Chúa Cha nói với chúng ta rằng: "Cha đã nuôi dưỡng các con bằng manna mà các con
không biết". Chúng ta cần phải phục hồi lại ký ức. Đó là một công việc, công
việc phục hồi ký ức, công việc biết nhận ra thứ
bánh giả tạo gây lọc lừa và băng hoại, vì nó là hoa trái của vị kỷ, của tự mãn
và của tội lỗi.
Trong cuộc cung nghinh sắp tới, chúng ta sẽ theo Chúa Giêsu thực sự hiện diện
trong Thánh Thể. Bánh Thánh là manna của chúng ta, nhờ đó Chúa ban chính mình
Người cho chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng dâng lên Người rằng: Chúa Giêsu ơi,
xin hãy bênh đỡ chúng con khỏi các chước cám dỗ của những sản vật trần gian
khiến chúng con trở thành nô lệ, khỏi thứ lương thực độc hại; xin hãy thanh tẩy
ký ức của chúng con, để nó không còn tiếp tục làm nô lệ cho vị kỷ và ưa
chuộng trần gian nữa, mà là một
thứ ký ức sống động về sự hiện diện của Chúa suốt giòng lịch sử của dân Chúa, thứ
ký ức trở thành "cuộc tưởng niệm" về cử chỉ yêu thương cứu chuộc của Chúa.
Amen.
Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ http://www.zenit.org/en/articles/pope-s-corpus-christi-homily--2
(Nhan đề và những chi tiết được in mầu nghiêng là do người dịch tự ý nhấn mạnh)
"Tất cả đầu được tràn đầy Thần Linh" (Tông Vụ 2:4).
Khi nói cùng các Tông Đồ trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu phán rằng, sau biến
cố Người ra đi khỏi thế gian này, Người sẽ sai đến cùng các vị tặng ân của
Cha đó là Thánh Linh (xem Gioan 15:26). Lời hứa này đã được nên trọn bằng quyền
năng vào ngày Lễ Ngũ Tuần, khi Thánh Linh ngự xuống trên các tông đồ đang qui
tụ ở nhà tiệc ly. Việc
tuôn đổ này, cho dù là phi thường, vẫn không mang tính chất đặc thù và chỉ giới
hạn vào lúc bấy giờ thôi, mà là một biến cố được tái diễn và tiếp tục được tái
diễn.
Chúa Kitô đã được hiển vinh ở bên hữu Cha tiếp tục hiện thực lời hứa của Người,
bằng việc sai đến với Giáo Hội vị Thần Linh sống động của Người, Đấng chỉ dạy
chúng ta và nhắc nhở chúng ta cùng giúp chúng ta phát ngôn.
Thánh Linh chỉ dạy chúng ta:
Ngài là vị Sư Phụ nội tâm. Ngài hướng dẫn chúng ta theo đường ngay nẻo chính,
qua các tình huống của cuộc đời. Ngài dạy chúng ta đường đi nước bước. Thời Giáo
Hội sơ khai Kitô giáo đã được gọi là "Đường" (xem Tông Vụ 9:2), và chính Chúa
Giêsu là đường. Thánh Linh dạy chúng ta theo Người, bước theo vết chân của
Người. Không
phải chỉ là vị sư phụ về tín lý, Thánh Linh hơn nữa còn là vị sư phụ của đời
sống.
Hiểu biết thực sự là yếu tố của đời sống, thế nhưng cái hiểu biết này lại ở
trong một chân trời bao rộng và hòa hợp hơn nơi đời sống Kitô hữu.
Thánh Linh nhắc nhở chúng ta,
Ngài nhắc nhở chúng ta hết mọi sự Chúa Giêsu đã nói. Ngài là ký ức sống động của
Giáo Hội. Và trong khi Ngài giúp chúng ta nhớ lại thì Ngài giúp chúng ta hiểu
biết lời Chúa.
Việc nhớ lại này trong vị Thần Linh ấy và nhờ vị Thần Linh ấy không
phải chỉ là một thứ ghi nhận mà là
một khía cạnh thiết yếu về sự hiện diện của Chúa Kitô trong chúng ta cũng như
trong Giáo Hội của Người.
Vị Thần Linh chân lý và bác ái yêu thương này nhắc nhở chúng ta hết những gì
Chúa Giêsu đã nói, Ngài giúp chúng ta tiến sâu hơn vào ý nghĩa của những lời
Người nói. Tất cả chúng ta đều có cảm nghiệm này, ở chỗ, có lúc bất chợt hiện
lên, trong bất cứ trường hợp nào, các ý nghĩ có liên quan đến một đoạn Thánh
Kinh nào đó... Chính Thánh Linh dẫn chúng ta qua con đường này, con đường của
cái ký ức sống động nơi Giáo Hội. Và ký ức này muốn thấy được một đáp ứng nào đó
từ chúng ta. Chúng ta càng đáp ứng quảng đại thì lời của Chúa Giêsu càng trở nên
sự sống trong chúng ta, trở nên những thái độ, những chọn lựa, những việc làm,
trở nên chứng từ. Điều chính
yếu Thánh Linh muốn nhắc nhở chúng ta đó là về mệnh lệnh yêu thương và kêu gọi
chúng ta hãy sống mệnh lệnh này.
Một Kitô hữu phi ký ức không phải là một Kitô hữu thực sự. Họ chỉ là thứ Kitô
hữu nửa vời, họ là một con người nam hay nữ bị giam cầm trong giây phút hiện
tại, thành phần không thấy được lịch sử của mình như là một kho tàng, không
biết ý nghĩa của nó và sống nó như là một thứ lịch sử cứu độ.
Thế nhưng, nhờ ơn trợ giúp của Thánh Linh, chúng ta có thể hiểu được những cảm
hứng nội tâm cùng với những biến cố của cuộc đời theo chiều hướng lời lẽ
của Chúa Giêsu. Nhờ đó mới phát triển trong chúng ta cái khôn ngoan của ký ức,
cái khôn ngoan của cõi lòng là tặng ân của Thần Linh. Chớ gì vị Thần Linh này
làm sống lại ký ức Kitô giáo nơi mỗi một người chúng ta! Vào hôm đó, cùng với
các Tông Đồ, cũng có cả Người
Nữ của ký ức, vị từ ban đầu đã tưởng niệm về tất cả những sự ấy trong lòng
mình. Đó là Maria, Mẹ của chúng ta.
Chớ gì Mẹ giúp chúng ta đi theo con đường ký ức này. Thánh Linh chỉ dẫn chúng
ta, nhắc nhớ chúng ta, và - còn một điều khác nữa - đó là Ngài giúp chúng ta
phát ngôn, với Thiên Chúa cũng như với con người. Chúng ta không phải là thành
phần Kitô hữu câm nín, thứ câm nín của linh hồn; không, không thể dành chỗ đứng
cho thứ câm nín này.
Ngài giúp chúng ta phát ngôn với Thiên Chúa khi cầu nguyện.
Cầu nguyện là một tặng ân chúng ta lãnh nhận một cách nhưng không; nó là một
cuộc đối thoại với Thiên Chúa trong Thánh Linh, Đấng nguyện cầu trong chúng ta
và giúp chúng ta hướng về Thiên Chúa cùng gọi Ngài là Cha, Papa, Abba (xem Roma
8:15; Galata 4:4); đó không phải chỉ là một "cách thức phát ngôn" mà là thực
tại, chúng ta thực sự là con cái của Thiên Chúa. "Thật thế, tất cả những ai được
Thánh Linh của Thiên Chúa dẫn dắt họ đều là con cái của Thiên Chúa" (Roma
8:14).
Ngài giúp chúng ta phát ngôn nơi tác động đức tin. Không
một ai trong chúng ta có thể nói: "Giêsu là Chúa" - như chúng ta nghe thấy trong
bài đọc hôm nay - mà lại không có Thánh Linh. Vị Thần Linh này làm cho chúng ta
nói với con người bằng cuộc đối thoại huynh đệ. Ngài giúp chúng ta nói với những
ngưòi khác ở chỗ nhìn nhận họ là anh chị em của mình: nói một cách thân tình,
dịu dàng, tỏ ra thông cảm với những lo âu và hy vọng, những nỗi buồn và niềm vui
của người khác.
Còn nữa, Thánh
Linh thậm chí giúp chúng ta nói với con người một cách ngôn sứ nữa, tức là, Ngài
giúp chúng ta trở nên những "thông mạch (channels)" khiêm hạ và dễ dạy của Lời
Chúa.
Thứ ngôn sứ được thực hiện một cách hiên ngang mạnh mẽ, trong việc công khai
chỉ cho thấy những phản khắc và bất công, thế nhưng bao giờ cũng dịu dàng và
có ý xây dựng. Được thấm nhiễm bởi Vị Thần Linh yêu thương này, chúng ta có thể
trở thành dấu chỉ và dụng cụ của Vị Thiên Chúa yêu thương, phục vụ và ban sự
sống cho chúng ta.
Tóm lại: Thánh Linh dạy chúng ta sống đời của mình; Ngài nhắc nhở chúng ta những
lời của Chúa Giêsu; Ngài giúp chúng ta cầu nguyện mà thưa cùng Thiên Chúa là
"Cha", Ngài giúp chúng ta nói với con người bằng cuộc đối thoại huynh đệ và làm
chúng ta nói năng ngôn sứ.
Ngày Lễ Ngũ Tuần, lúc mà các môn đệ "được tràn đầy Thánh Linh", là ngày Giáo Hội
lãnh nhận phép rửa, một Giáo Hội đã được hạ sinh và "đã ra đi (went out)",
"đã lên đường (departed)" để loan báo cho hết mọi người Tin Mừng.
Mẹ Giáo Hội ra đi để phục vụ. Chúng ta hãy nhớ đến Người Mẹ khác, Mẹ của chúng
ta, vị đã lập tức lên đường để phục vụ. Mẹ Giáo Hội và Mẹ Maria: cả hai đều là
trinh nữ, cả hai đều là mẹ, cả hai đều là phụ nữ. Chúa Giêsu đã truyền cho các
Tông Đồ rằng các vị không được rời khỏi Giêrusalem trước khi nhận được quyền lực
của Thánh Linh từ trên cao (xem Tông Vụ 1:4,8). Không
có Ngài sẽ chẳng có sứ vụ, chẳng có vấn đề truyền bá phúc âm hóa. Vì
thế, cùng với toàn thể Giáo Hội, Giáo Hội Công Giáo Mẹ của chúng ta, chúng ta
hãy kêu lên rằng: Xin Thánh Linh hãy đến!
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ http://www.zenit.org/en/articles/francis-pentecost-homily
Những chỗ mầu xanh in nghiêng trong bài là do người dịch tự ý nhấn mạnh.
ĐTC Phanxicô – Bài Giảng Lễ Phong Thánh Nhị Vị Giáo Hoàng Gioan XXIII và Gioan
Phaolô II
Chúa Nhật 27/4/2014, Lễ Lòng Thương Xót Chúa.
Tâm điểm của Chúa Nhật này, thời điểm kết thúc Tuần Bát Nhật Phục Sinh và là
thời điểm Thánh Gioan Phaolô II muốn dành kính Lòng Thương Xót Chúa, là các
thương tích vinh hiển của Chúa Giêsu phục sinh.
Người đã tỏ những thương tích này ra khi Người hiện ra lần đầu tiên với các vị
Tông Đồ vào chính tối ngày đầu tiên sau Ngày Hưu Lễ, ngày phục sinh. Thế nhưng,
như chúng ta đã nghe, Tông Đồ Toma không có mặt tối hôm đó, và khi các tông đồ
khác nói với ông rằng họ đã thấy Chúa thì ông trả lời rằng ông không tin trừ phi
chính bản thân ông thấy được và chạm đến các thương tích này. Một tuần sau, Chúa
Giêsu đã hiện ra một lần nữa với các môn đệ đang tụ tập trên Căn Thượng Lầu.
Tông Đồ Toma cũng hiện diện; Chúa Giêsu hướng về ông mà nói cùng ông rằng hãy
chạm vào các thương tích của Người. Lập tức con người rất thẳng thắn và quen
thói đích thân trắc nghiệm hết mọi sự ấy liền quì ngay xuống trước mặt Chúa
Giêsu mà nói: “Lạy Chúa của con và lạy Thiên Chúa của con” (Gioan 20:28).
Các thương tích của Chúa Giêsu là một thứ
gai chướng,
một trở ngại đối
với đức tin,
thế nhưng các thương tích này cũng là một
thứ thử thách của đức tin.
Đó là lý do tại sao các thương tích này không bao giờ biến mất trên thân xác của
Chúa Kitô phục sinh: chúng vẫn còn đó, vì những thương tích này là dấu hiệu
trường tồn cho thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Những thương
tích ấy là những gì thiết
yếu cho việc tin tưởng nơi Thiên Chúa. Không phải là việc tin tưởng rằng
Thiên Chúa hiện hữu mà là tin tưởng rằng Thiên
Chúa là tình yêu, là lòng thương và trung tín. Thánh
Phêrô, trích lời Tiên Tri Isaia, đã viết cho Kitô hữu rằng: "Anh em đã được chữa
lành nhờ các thương tích của Người" (1Phêrô 2:24; xem Isaia 53:5).
Thánh Gioan XXIII và Thánh Gioan Phaolô II đã không sợ nhìn vào các thương
tích của Chúa Giêsu, chạm đến đôi tay thủng của Người và cạnh sườn bị đâm của
Người. Các vị không cảm thấy hổ thẹn về xác thịt của Chúa Kitô, các vị không
cảm thấy Người và thập giá của Người trở thành những gì là gai chướng; các vị
không khinh thường xác thịt của anh em mình (xem Isaia 58:7), vì các vị đã thấy
Chúa Giêsu nơi hết mọi con người chịu khổ đau và cố chống chọi. Các vị là
những con người can trường, đầy những tính chất cương trực của Thánh Linh, và
các vị làm chứng trước Giáo Hội và thế giới về lòng nhân lành và xót thương của
Thiên Chúa.
Các vị là những vị linh mục, giám mục và giáo hoàng của thế kỷ 20. Các vị đã
trải qua các biến cố tang thương của thế kỷ này, nhưng các vị đã không bị chúng
chi phối. Đối với các vị, Thiên Chúa còn mảnh lực hơn nhiều; đức tin còn mãnh
liệt hơn thế nữa - một đức tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc nhân trần và
là Chúa của lịch sử; tình thương của Thiên Chúa, được tỏ hiện nơi năm thương
tích ấy, còn mạnh mẽ hơn nhiều; và cũng mãnh liệt hơn nữa đó là sự gần gũi
của Đức Maria, Mẹ của chúng ta.
Nơi hai con người này, những vị đã nhìn lên các thương tích của Chúa Kitô và đã
làm chứng cho tình thương của Người, tỏa ra một niềm hy vọng sống động và một
niềm vui khôn tả và rạng ngời (1Phêrô
1:3,8). Niềm hy vọng và là niềm vui Chúa Kitô phục sinh ban cho các môn đệ của
Người, niềm hy vọng và niềm vui không gì và không ai có thể lấy mất của họ. Niềm
hy vọng và niềm vui Phục Sinh này, được
khuôn đúc trong cái lò chối bỏ bản thân mình, hư không hóa bản thân mình, hoàn
toàn đồng hóa với tội nhân, cho đến độ kinh tởm của chén đắng cay.
Niềm hy vọng và niềm vui ấy đã được hai vị giáo hoàng thánh thiện này lãnh nhận
như là một tặng ân từ Vị Chúa phục sinh và là những gì về phần mình, các vị dồi
dào tuôn đổ xuống trên Dân Chúa, khiến chúng ta mãi mãi ghi ơn.
Niềm hy vọng này và niềm vui này là những gì hiện hiện nơi cộng đồng tín hữu
tiên khởi ở Giêrusalem, như chúng ta đã nghe trong Sách Tông Vụ (xem
2:42-47). Đó là
một cộng đồng đã sống tâm điểm của Phúc Âm là yêu thương và xót thương,
một cách chân thành và huynh đệ.
Đó cũng là hình ảnh về một Giáo Hội được Công Đồng Chung Vaticanô II đề ra trước
mắt chúng ta. Đức Gioan XXIII và Gioan Phaolô II đã hợp tác với Thánh Linh trong
việc canh tân và cập nhật hóa Giáo Hội để giữ được những tính chất nguyên thủy
của Giáo Hội, những tính chất được các thánh nhân đã cống hiến cho Giáo Hội
qua các thế kỷ. Chúng ta đừng quên rằng chính các thánh đã cống hiến hướng đi và
giúp vào việc tăng trưởng của Giáo Hội. Trong việc triệu tập Công Đồng Chung
Vaticanô II, Thánh Gioan XXIII đã cho thấy một tuyệt vời cởi mở trước Thánh
Linh. Ngài đã để mình được dẫn dắt và đối với Giáo Hội ngài là một vị mục
tử, một vị lãnh đạo phục vụ, được Thánh Linh hướng dẫn. Điều này đã giúp cho
Giáo Hội rất nhiều; vì lý do ấy mà tôi thích nghĩ về ngài như là vị giáo
hoàng cởi mở trước Thánh Linh.
Trong việc phục vụ Dân Chúa của mình, Thánh Gioan Phaolô II là vị giáo hoàng
của gia đình. Chính ngài có lần đã nói rằng ngài muốn được tưởng nhớ đến như
là vị giáo hoàng của gia đình. Tôi đặc biệt vui mừng vạch ra điều này khi chúng
ta đang ở trong tiến trình hành trình với các gia đình hướng về Thượng Nghị
Giám Mục Thế Giới về gia đình. Một cuộc hành trình chắc chắn sẽ được ngài từ
trời cao hướng dẫn và nâng đỡ.
Chớ gì hai vị tân thánh và là mục tử này của dân Chúa chuyển cầu cho Giáo
Hội, để trong cuộc hành trình hai năm này hướng về Thượng Nghị Giám Mục Thế
Giới được cởi mở trước Thánh Linh cho việc mục vụ về gia đình. Chớ gì hai vị dạy
chúng ta đừng hổ thẹn trước các thương tích của Chúa Kitô và tiến sâu hơn nữa
vào mầu nhiệm lòng thương xót Chúa, một mầu nhiệm luôn hy vọng và bao giờ cũng
thứ tha, vì mầu nhiệm này luôn yêu thương.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo
Về Nguồn Galilêa, Chân Trời Dân Ngoại
Hôm nay, đêm nay,
mỗi người chúng ta có thể đặt vấn đề là: Galilêa của tôi là gì? Galilêa của tôi
ở đâu vậy? Tôi có nhớ nó hay chăng? Hay là tôi đã quên mất nó rồi? Phải chăng
tôi đã bị lầm đường lạc lối nên quyên mất nó rồi? Chúa ơi, xin giúp con: xin hãy
bảo cho con biết Galilêa của con là gì; vì Chúa biết rằng con muốn trở về đó để
gặp gỡ Chúa và để cho con được tình thương của Chúa ấp ủ.
Bài Phúc Âm của Lễ Phục Sinh rất là rõ ràng, ở chỗ chúng ta cần trở về đó, để
thấy Chúa Giêsu phục sinh và để trở thành những nhân chứng cho việc phục sinh
của Người. Không phải là vấn đề trở về đó theo thời gian; không phải là một thứ
nhung nhớ. Mà là cuộc trở về với tình yêu ban đầu của chúng ta, để nhận lấy ngọn
lửa đã được Chúa Giêsu thắp lên trên thế giới này và mang ngọn lửa ấy cho tất cả
mọi dân nước, cho đến tận cùng trái đất.
Một Galilêa của Dân Ngoại (Mathêu 4:15; Isaia 8:23)! Đó là chân trời của Chúa
Phục Sinh, chân trời của Giáo Hội; với ước muốn thiết tha được gặp gỡ, nào chúng
ta hãy lên đường!
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo http://www.zenit.org/en/articles/pope-francis-homily-at-easter-vigil
"Tấm lòng của tôi ở đâu? Tôi giống như ai trong những con người ấy?"
Bài Giảng Chúa Nhật Lễ Lá 13/4/2014 của ĐTC Phanxicô
Tuần này đưoọc bắt đầu bằng cuộc hân hoan rước cành lá Oliu: toàn thể dân chúng
nghênh đón Chúa Giêsu. Trẻ em, giới trẻ hát ca, họ chúc tụng Chúa Giêsu.
Thế nhưng, tuần này sau đó tiến đến mầu nhiệm tử nạn của Chúa Giêsu và mầu nhiệm
phục sinh của Người. Chúng ta đã nghe đọc Cuộc Khổ Nạn của Chúa. Chúng ta sẽ có
ích khi đặt ra một câu hỏi: Tôi là ai? Tôi là ai trước Chúa của tôi? Tôi là ai
trước Chúa Giêsu là Đấng tiến vào Giêrusalem? Tôi có thể bày tỏ niềm vui của
tôi, có thể chúc tụng Người hay chăng? Hay tôi tách biệt khỏi Người? Tôi là ai
trước Chúa Giêsu Đấng chịu khổ đau?
Chúng ta đã nghe thấy nhiều tên tuổi, nhiều tên tuổi. Nhóm những vị lãnh đạo,
một số vị tư tế, một soó Pharisiêu, một số nhà thông Luật, thành phần đã quyết
giết Người. Họ chờ dịp để chộp bắt Người. Tôi giống ai trong những người ấy?
Chúng ta cũng đã nghe thấy một tên tuổi khác, đó là Giuđa. Đến 30 đồng bạc. Có
có giống Giuđa hay chăng? Chúng ta đã nghe thấy các tên tuổi khác, đó là các môn
đệ đã chẳng hiểu gì, những người đã ngủ khi Chúa chịu khổ đau. Tôi có ngủ nơi
cuộc đời của tôi hay chăng? Hay tôi giống như các môn đệ, thành phần chẳng hiểu
phản nộp Chúa Giêsu là gì? Tôi có giống như các môn đệ khác muốn giải quyết hết
mọi sự bằng gươm kiếm? Tôi có giống họ hay chăng? Tôi có giống Giuđa, giả bộ yêu
thương và hôn vị Sự Phụ để trao nộp Người, để phạn bội Người? Tôi có phải là một
tên phản trắc hay chăng? Có có giống như thành phần lãnh đạo vội vàng lập tòa án
và tìm những kẻ làm chứng gian? Tôi có giống như họ hay chăng? Và khi tôi làm
những điều ấy, nếu tôi làm những điều này, tôi có tin rằng tôi cứu được dân
chúng bằng cách ấy hay chăng?
Tôi có như Philatô hay chăng? Khi tôi gặp tình trạng khó khăn, tôi có rửa tay và
không chấp nhận trách nhiệm của mình để người ta bị lên án hay chính tôi kết án
họ?
Tôi có hay chăng như đám đông dân chúng chẳng biết mình đang ở trong một cuộc
hội họp về đạo, một phiên tòa hay một màn xiệc và đi chọn lấy Barabas? Với họ
thì như nhau: càng vui khi hạ nhục Chúa Giêsu.
Tôi có như đám lính tạt vả Chúa, nhổ vào Chúa, nhục mạ Chúa, vui thú hạ nhục
Chúa hay chăng?
Tôi có hay chăng như
Tôi có hay chăng như những kẻ qua đường ngang qua cây thập tự giá và trêu chọc
về Chúa Giêsu rằng: "Hắn can đảm quá ta! Hắn cứ xuống khỏi thập tự giá đi thì
chúng ta mới tin hắn!"?
Tôi có hay chăng như những người phụ nữ can đảm, và như Mẹ của Chúa Giêsu, những
người đã ở đó, chịu khổ trong âm thầm?
Tôi có hay chăng như Giuse, người môn đệ âm thầm, vị đã yêu mến mang thi thể của
Chúa Giêsu mà đặt người nằm trong mồ?
Tôi có như 2 bà Maria ở lại mồ khóc lóc, nguyện cầu hay chăng?
Tôi có hay chăng như thành phần lãnh đạo, vào ngày hôm sau đã đến với Philatô mà
nói: "Này, hắn bảo rằng hắn sẽ sống lại. Hãy coi chứng đừng để cho mánh khóe lừa
bịp xẩy ra!" và đã giữ sự sống lại, chặn cửa hầm mộ để bênh vực tín lý, để sự
sống khỏi xuất phát?
Tấm lòng của tôi ở đâu? Tôi giống như ai trong những con người ấy? Chớ gì câu
hỏi này đi theo chúng ta trong cả tuần này.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL chuyển dịch từ
http://www.zenit.org/en/articles/pope-francis-homily-at-palm-sunday
Cây Thập Giá nặng nề nhưng hiển vinh
Đức Thánh Cha Phanxicô huấn từ sau Đường Thánh Giá Thứ Sáu Tuần Thánh
Thiên Chúa đã chất cây thập tự giá của Chúa Giêsu tất cả gánh nặng của tội lỗi
chúng ta, tất cả mọi thứ bất chính gây ra bởi hết mọi Cain phạm đến anh chị em
mình, tất cả mọi cay đắng và phản bội của Giuđa và Phêrô; tất cả mọi phù du của
áp bức độc đoán, tất cả mọi kiêu căng ngạo mạn của những người bạn hữu sai lầm.
Nó là một cây thập tự giá nặng nề, giống như đêm tối của những ai bị bỏ rơi,
nặng như cái chết của những người thân yêu, nặng vì nó mang lấy tất cả những gì
là xấu xa ghê tởm của sự dữ. Tuy nhiên, nó cũng là một thập tự giá hiển vinh như
rạng đông sau một đêm dài vì nó biểu hiệu cho tình yêu của Thiên Chúa trong hết
mọi sự, một tình yêu lớn lao hơn cả lỗi lầm của chúng ta và sự phản bội của
chúng ta. Nơi thập tự giá chúng ta thấy cái quái gở của con người khi họ bị sai
khiến bởi sự dữ; thế nhưng chúng ta cũng thấy được cả tình thương bao la của
Thiên Chúa là một tình thương không xử với chúng ta theo tội lỗi của chúng ta mà
là theo tình thương của Người.
Trước thập tự giá của Chúa Giêsu chúng ta có thể hầu như chạm tới được mức độ
chúng ta vĩnh viễn được yêu thương tới đâu. Trước cây thập giá chúng ta cảm thấy
chúng ta là "con cái" chứ không phải là "thứ gì" hay "vật gì", như Thánh
Grêgôriô Cả đã nói, khi ngài ngỏ cùng Chúa Kitô bằng lời nguyện này: "Chúa Kitô
của con ơi, nếu Chúa không hiện hữu thì con cảm thấy mình như là một tạo vật hữu
hạn. Con được sinh ra và con cảm thấy mình bị tan rã. Con ăn uống, ngủ nghỉ và
bước đi, con bị bệnh và được chữa lành. Vô vàn những ước muốn và dằn vặt dày vò
cứ hạnh hạ con, con hoan hưởng mặt trời và hoa trái của trái đất này. Sau đó con
chết đi và xác thịt con trở thành cát bụi như xác thịct của loài thú là những
con vật không phạm tội. Thế nhưng phần con, con làm những gì mà chúng không làm
chứ? Chẳng làm gì hết, nếu không phải Thiên Chúa làm. Chúa Kitô của con ơi, nếu
Chúa không hiện hữu, tôi cảm thấy mình như là một tạo vật hữu hạn. Ôi Chúa Giêsu
của chúng con ơi, hãy dẫn chúng con từ thập giá đến phục sinh, và dạy chúng con
rằng sự dữ không phải là phán quyết cuối cùng. Tình yêu, lòng thương xót và sự
thứ tha mới là phán quyết tối hậu. Ôi Chúa Kitô, xin giúp chúng con một lần nữa
than lên rằng: 'Hôm qua con đã bị đóng đanh với Chúa Kitô; hôm nay con được hiển
vinh với Người. Hôm qua, con đã chết với Người; hôm nay, con đang sống với
Người. Hôm qua, con đã nằm trong mồ với Người: hôm nay con được sống lại với
Người".
Sau hết, tất cả chúng ta hãy cùng nhau nhờ đến thành phần bệnh nhân, chúng ta
hãy nhớ đến tất cả những ai lẻ loi cộ độc một mình dưới chân thập tự giá để
họ tìm được nơi thánh giá thử thách quyền lực của niềm hy vọng, của niềm hy vọng
vào cuộc phục sinh và tình yêu thương của Thiên Chúa
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo http://www.zenit.org/en/articles/pope-s-remarks-after-via-crucis-procession