GIÁO HỘI HIỆN THẾ
ĐTC Phanxicô - Bài Giảng nhân dịp 200 năm Dòng Tên được phục hồi
tại Nhà Thờ Gèsu Rôma trong giờ Kinh Tối Thứ Bảy 27/9/2014
Anh em và các bạn thân mến trong Chúa,
Trong những lúc thử thách và hoạn nạn, những đám mây bụi ngờ vực và đau thương
luôn nổi lên và không dễ gì mà tiến tới, mà tiếp tục cuộc hành trình. Đã
có nhiều chước cám dỗ, nhất là trong những lúc khó khăn và những cơn khủng
hoảng: không bàn đến những gì nghĩ tưởng nữa, để mình chi phối bởi những gì là
tàn rụi, tập trung vào sự kiện bị bách hại và đừng nhìn vào người khác.
Khi đọc các bức thư của Cha Ricci, một điều khiến tôi cảm kích đó là khả năng
của ngài trong việc làm sao tránh khỏi bị mắc cạn bởi những chước cám dỗ ấy mà
còn gợi lên cho tu sĩ Dòng Tên trong thời gian khốn khó một nhãn quan về những
gì làm cho họ thậm chí còn đâm rễ hơn nữa vào linh đạo của Hội Dòng.
Cha Tổng Quyền Ricci,
người đã viết cho tu sĩ Dòng Tên vào lúc ấy, khi thấy được mây mù dầy đặc ở chân
trời, đã củng cố vai trò làm phần tử của họ nơi cơ cấu của Hội Dòng và sứ vụ của
nó. Chính ở chỗ này, ở một thời điểm lẫn lộn và hỗn độn mà ngài đã
tỏ ra nhận thức.
Ngài đã không mất giờ bàn về những gì tưởng nghĩ và những gì phiền hà than
trách, nhưng ngài đã theo đuổi ơn
gọi của Hội Dòng.
Thái độ này đã dẫn tu sĩ Dòng Tên cảm nghiệm được cuộc tử nạn và phục sinh của
Chúa. Đối
diện với sự mất hết tất cả mọi sự, thậm chí cả cái căn tính công khai của mình,
họ không cưỡng lại ý muốn của Thiên Chúa, họ không cưỡng lại cuộc xung khắc,
trong việc cố gắng cứu lấy mình.
Hội Dòng này - thật là tuyệt vời - đã sống cuộc xung khắc này cho tới cùng,
không giảm thiểu nó xuống. Nó đã sống sự hổ nhục cùng với Chúa Kitô nhục nhằn;
nó đã vâng lời. Các bạn không thể nào tự cứu được mình khỏi cuộc xung khắc bằng
cách tinh khôn cũng như bằng những chính sách cưỡng chống. Trong
tình trạng lẫn lộn và hổ nhục, Hội Dòng này đã chọn sống bằng việc nhận thức ý
muốn của Thiên Chúa, không tìm cách thoát khỏi cuộc xung khắc một cách có vẻ
thầm lặng.
Cái trầm lặng bề ngoài không bao giờ làm cho cõi lòng của chúng ta thỏa nguyện
mà chính là niềm an bình thực sự được Chúa ban tặng. Người ta không bao giờ được
tìm kiếm "việc thỏa hiệp" dễ dàng hay không bao giờ được thực hiện "chủ trương
hòa giải" xoa dịu. Chỉ
duy có việc nhận thức mới là những gì cứu chúng ta khỏi bị bật gốc thật sự, khỏi
"bị đàn áp" thực sự bởi cõi lòng là nhũng gì vị kỷ, trần tục, lạc mất chân trời
của chúng ta.
Niềm hy vọng của chúng ta là Chúa Giêsu; chỉ một mình Chúa Giêsu. Bởi thế Cha
Ricci và Hội Dòng này, trong tình trạng bị dẹp bỏ, đã thăng hoa lịch sử hơn
là trở thành "một câu chuyện tầm phào nho nhỏ" mập mờ, biết rằng tình yêu là
những gì phán đoán lịch sử và niềm hy vọng - cho dù trong tăm tối - còn lớn lao
hơn cả lòng trông mong của chúng ta nữa.
Việc nhận thức cần phải được thực hiện bằng ý hướng đúng đắn, bằng một ánh mắt
chân thành. Đó là lý do chính
trong thời gian lẫn lộn và rối bời này, Cha Ricci đã đến để nói về các tội lỗi
của tu sĩ Dòng Tên. Ngài đã
không tự vệ bằng cảm giác như là một nạn nhân của lịch sử, mà nhận mình là một
tội nhân.
Việc nhìn vào bản thân mình và việc nhìn nhận mình là một tội nhân là việc tránh
né ở trong vị thế coi mình là một nạn nhân trước kẻ hành quyết. Việc nhìn nhận
mình là một tội nhân, thật sự nhìn nhận mình là một tội nhân, nghĩa là đặt mình
vào trong một thái độ xứng đáng để nhận được niềm an ủi.
Chúng ta có thể vắn tắt ôn lại tiến
trình nhận thức và
phục vụ này là những gì Cha Tổng Quyền ấy đã muốn nói cùng Hội Dòng đây. Vào
năm 1759,
khi mà các sắc lệnh Pombal đã hủy hoại các tỉnh dòng Bồ Đào
Nha của
Hội Dòng, thì Cha Ricci đã sống cuộc xung khắc này, không than trách và để mình
rơi vào tình trạng cô độc rã rời nhưng mời gọi nguyện cầu để xin cho được
một tâm thức tốt đẹp, thứ tâm thức thực sự siêu nhiên về ơn gọi, một tâm thức
hoàn toàn dễ dậy trước ơn Chúa. Vào
năm 1761,
khi mà cơn bão tiến sang tới Pháp
quốc,
Cha Tổng Quyền này đã xin đặt tất cả lòng tin tưởng vào Thiên Chúa. Ngài muốn
rằng họ cần phải lợi dụng những khốn khó cho một thứ thanh tẩy nội tâm lớn lao
hơn; những gian nan khốn khó ấy dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa và có thể làm
cho Ngài được hiển vinh hơn. Thế rồi vị tổng quyền khuyên cầu nguyện, sống
thánh, khiêm hạ và tinh thần tuân phục. Vào
năm 1770,
sau khi bị các tu sĩ Dòng Tên Tây
Ban Nha bị
trục xuất, ngài vẫn tiếp tục kêu gọi nguyện cầu. Sau cùng, vào
ngày 21 tháng 2 năm 1773,
chỉ 6 tháng trước khi xẩy ra việc ký ban hành Dominus
ac Redemptor, (biệt chú của người dịch: Dominus ac Redemptor là văn kiện dẹp
bỏ Dòng Tên ban hành ngày 21/7/1773 bởi Đức Thánh Cha Clement XIV), khi mà
hoàn toàn không còn một trợ giúp trần gian nào nữa, vị tổng quyền thấy được bàn
tay của tình thương Thiên Chúa mời gọi những ai đang chịu đựng cơn thử
thách ấy đừng tin tưởng bất cứ một ai ngoài Thiên Chúa. Lòng tin tưởng cần phải
gia tăng khi các tình huống đẩy chúng ta vào chân tường. Đối với Cha Ricci thì điều
quan trọng đó là Hội Dòng này phải
làm sao trung thực cho đến cùng với tinh thần ơn gọi của mình đó là làm cho
Thiên Chúa được hiển vinh hơn và cho phần rỗi các linh hồn.
Hội Dòng này, cho dù có phải đương đầu với tình trạng khai tử của mình, cũng
vẫn đã trung thành với mục đích mà nó được sáng lập.
Bởi thế, Cha Ricci đã kết thúc bằng một lời huấn dụ là hãy bảo tồn tinh thần
bác ái, hiệp nhất, tuân phục, nhẫn nại, tính chất chân thành theo Phúc Âm, tình
hữu nghị chân thực với Thiên Chúa. Còn mọi sự khác đều là trần tục. Ngọn lửa
nung nấu việc làm cho Thiên Chúa được hiển vinh hơn thậm chí cho đến hôm nay đây
thổi qua cả chúng ta nữa, đốt cháy đi tất cả những gì là tự mãn và bao bọc chúng
ta bằng một ngọn lửa ở trong chúng ta, co dãn chúng ta, làm cho chúng ta tăng
trưởng và khiến chúng ta co thắt.
Như thế, Hội Dòng này đã trải qua một cuộc thử thách hy sinh hết cỡ đòi nó phải
chịu đựng một cách bất công, dâng lời nguyện cầu của Tobia,
một tâm hồn tràn đầy sầu thương, đã thở dài, kêu than rồi nguyện cầu rằng: "Lạy
Chúa, Ngài là Ðấng công chính, mọi việc Ngài làm đều chính trực, tất cả đường
lối Ngài đều là từ bi và chân thật; chính Ngài xét xử thế gian. Và
giờ đây, lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con, xin đoái nhìn và chớ phạt con vì những
tội con đã phạm và những điều ngu muội của con cũng như của cha ông con.
Các ngài đã đắc tội trước Thánh Nhan và
bất tuân mệnh lệnh của Ngài. Ngài đã để chúng con bị cướp phá, phải tù đày và
chết chóc, nên trò cười, đề tài châm biếm và bia nhục mạ cho mọi dân tộc, nơi
chúng con đã bị Ngài phân tán. Lạy Chúa, xin đừng ngoảnh mặt không nhìn con" (Tobia
3:1-4,6d).
Và Chúa đã đáp ứng bằng việc sai Tổng Thần Raphael đến lấy đi những vết trắng
khỏi đôi mắt của Tobia, để nhờ đó ông có thể thấy lại được ánh sáng của Thiên
Chúa. Thiên Chúa thì nhân hậu, Thiên Chúa tôn vinh bằng tình thương. Thiên Chúa
yêu thương chúng ta và cứu độ chúng ta. Đôi khi con đường dẫn đến sự sống thì
chật hẹp thế nhưng gian nan hoạn nạn, nếu sống bằng tinh thần nhân hậu, là những
gì như lửa thanh tẩy chúng ta, nó cống hiến cho chúng ta nhiều niềm an ủi và
nung nấu cõi lòng của chúng ta, khơi động lời nguyện cầu về nó. Anh
em Dòng Tên của chúng ta trong thời bị dẹp bỏ này đã sốt sắng trong tinh thần
cũng như trong việc phụng sự Chúa, hân hoan trong hy vọng, kiên trì trong gian
nan, bền vững trong nguyện cầu (xem
Rôma 12:13). Đó là những gì đã làm sáng danh Hội Dòng này, thế nhưng thực ra
không phải là những gì chúc tụng về công lênh của nó. Bao giờ cũng thế.
Chúng ta hãy nhớ đến lịch sử của chúng ta: Hội
Dòng này "được ban cho ân sủng không phải chỉ để tin vào Chúa mà còn để
chịu đựng vì Ngài nữa"
(Philiphe 1:29). Nhớ điều ấy là chúng ta an toàn.
Con tầu của Hội Dòng này đã bị xô lấn bởi những cơn sóng và điều này chẳng có gì
là lạ lùng hết. Ngay cả con thuyền Phêrô ngày nay vẫn có thể bị sóng đánh. Đêm
tối và các thứ quyền lực đen tối bao giờ cũng cận kề. Việc chèo chống đang mệt
mỏi. Tu
sĩ Dòng Tên cần phải là "những tay chèo chống can trường và chuyên nghiệp" (Đức
Piô XII, Sollecitudo omnium ecclesiarum): bởi vậy hãy chèo chống! Hãy chèo
chống, hãy dũng mãnh, cho dù trước đầu gió! Chúng ta chèo chống để phục vụ Giáo
Hội. Chúng ta hãy cùng nhau chèo chống! Thế nhưng khi chúng ta chèo chống - tất
cả chúng ta đều chèo chống, ngay cả Giáo Hoàng cũng đang chèo chống trong con
tầu Phêrô - chúng ta cần phải cầu nguyện nhiều: "Lạy Chúa, xin cứu chúng con!
Xin Chúa cứu vớt dân của Ngài". Cho dù chúng ta là thành phần yếu tin, Chúa cũng
sẽ cứu chúng ta. Chúng ta hãy hy vọng nơi Chúa! Chúng ta hãy luôn hy vọng nơi
Chúa!
Hội Dòng này, được Đức Piô VII là vị tiền nhiệm của tôi phục hồi, đã bao gồm
những con người là thành phần hiên ngang và khiêm tốn nơi chứng từ hy vọng của
mình, chứng từ yêu thương và tính chất sáng tạo tông đồ, tính chất sáng tạo của
Thần Linh. Đức
Piô VII đã viết về nhu cầu cần phải phục hồi Hội Dòng này là "để hỗ trợ ngài một
cách thích đáng các nhu cầu thiêng liêng của thế giới Kitô giáo, bất phân biệt
dân tộc hay quốc gia" (ibid).
Vì thế, ngài đã cho phép tu sĩ Dòng Tên, thành phần vẫn còn ở đây đó, nhờ một vị
thống lãnh Lutheran và một vị thống lãnh Chính Thống (biệt chú của người
dịch: ở đây phải chăng ĐTC Phanxicô ám chỉ đến Đại Nữ Hoàng Nga là Catherine the
Great, một nhân vật nguồn gốc là tín đồ Lutheran ở Đức quốc nhưng đã chuyển
sang Chính Thống giáo sau khi thuộc về gia đình của Nga triều, một nhân vật đã
chẳng những tiếp tục cho các học đường của Dòng Tên được tồn tại trong vương
quốc của mình cho dù Dòng Tên đã bị dẹp bỏ mà còn cho Hội Dòng này mở Tập
Viện trong lãnh thổ của mình vào năm 1780 nữa?), "được liên kết lại thành
một cơ cấu". Nhờ đó Hội Dòng này đã hiệp nhất nên một cơ cấu!
Hội Dòng này lập tức truyền giáo và biến mình thành thuận lợi cho Tòa Thánh,
quảng đại dấn thân "dưới ngọn cờ thánh giá cho Chúa cũng như cho Vị Đại Diện của
Người trên trần gian này" (Formula of the Institute, 1). Hội
Dòng đã tái tấu hoạt động tông đồ giảng truyền và giảng dạy của mình, các thừa
tác vụ thiêng liêng, việc nghiên cứu khoa học và hoạt động xã hội, những công
cuộc truyền giáo và việc chăm sóc cho những người nghèo khổ, những người đau khổ
và những ai sống bên lề xã hội.
Hôm nay, Hội Dòng này cũng giúp vào việc giải quyết một cách khôn khéo và tận
tụy tình trạng thê thảm của những người tị nạn và những người tản mác; và
nó biết làm sao nỗ lực để việc phục vụ được hội nhập vào đức tin cũng như vào
việc cổ võ công lý hợp với Phúc Âm. Hôm nay tôi xin lập lại những gì Đức Phaolô
VI đã nói với chúng ta trong Đại Hội lần thứ 32 của chúng ta và là những gì
chính tai tôi đã nghe thấy: "Bất
cứ khi nào trong Giáo Hội, cho dù ở vào những trường hợp khó khăn và cực kỳ
nhất, giữa những giao điểm của các thứ ý hệ, trong các ngóc nghách xã hội,
nơi đã từng xẩy ra và đang xẩy ra tình trạng đối chọi nhau giữa các ước vọng sâu
xa nhất của con người với sứ điệp bất hủ của Phúc Âm, thì ở đó đã có mặt của anh
em và đang có mặt của thành phần tu sĩ Dòng Tên".
Vào năm 1814, thời gian được phục hồi, anh em tu sĩ Dòng Tên chỉ là một đàn nhỏ,
một "Hội Dòng nhỏ", thế nhưng nó đã biết cách đầu tư, sau cơn thử thách của
thánh giá, vào đại sứ vụ mang ánh sáng Phúc Âm cho tận cùng trái đất.
Bởi thế đó
là những gì chúng ta cần phải cảm thấy hôm nay đây: vượt biên (outbound), truyền
giáo (in mission).
Căn tính của tu sĩ Dòng Tên là căn tính của một con người kính mến Thiên Chúa
cùng yêu thương và phục vụ anh em của mình, được tỏ ra bằng gương sáng, chẳng
những về những gì họ tin tưởng mà còn về những gì họ hy vọng cũng như về Đấng
họ đặt niềm tin tưởng (xem 2Timôthêu 1:12). Tu
sĩ Dòng Tên muốn trở thành một bạn đồng hành của Chúa Giêsu, một bạn đồng hành
có những cảm thức giống như của Chúa Giêsu.
Sắc chỉ của Đức Piô VII phục hồi Hội Dòng này đã được ký ban hành ngày 7/8/1814,
tại Đền Thờ Đức Bà Cả, nơi cha thánh Ignatiô đã cử hành Lễ mở thay của ngài vào
Lễ Vọng Phục Sinh năm 1538 (cảm
nhận của người dịch: phải chăng Đền Thờ Đức Bà Cả có liên quan đến 2 biến cố
lịch sử của dòng mình như thế mà ĐTC Phanxicô đã có thói quen, ngay từ khi vừa
làm giáo hoàng, đến đây để dâng giáo triều của ngài cho Mẹ cũng như để dâng
từng chuyến tông du của ngài cho Mẹ nữa, sau đó trở về cũng đến tận nơi này để
tạ ơn Mẹ?). Mẹ Maria, Người Mẹ của Hội Dòng này, sẽ cảm kích trước những nỗ
lực của chúng ta trong việc phụng sự Con của Mẹ. Xin Mẹ luôn canh chừng chúng ta
và bảo vệ chúng ta.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo
http://www.zenit.org/en/articles/pope-s-homily-at-vespers-with-jesuits
(Nhan đề và những chỗ in nghiêng mầu là do tự ý của người dịch)