GIÁO HỘI HIỆN THẾ
Tôi đặc biệt mong muốn gì từ Năm ân sủng cho Đời Dâng Hiến này đây?
1- Đó là câu nói xưa sẽ luôn được thực hiện: "Ở đâu có tu sĩ thì ở đấy có niềm vui". Chúng ta được kêu gọi để nhận biết và chứng tỏ rằng Thiên Chúa có thể làm cho cõi lòng của chúng ta tràn đầy ngập ngụa hạnh phúc; chúng ta không cần tìm hạnh phúc của mình ở đâu khác nữa; tình yêu huynh đệ nơi cộng đồng của chúng ta làm cho niềm vui của chúng ta gia tăng; và việc chúng ta hoàn toàn hiến thân phục vụ Giáo Hội, phục vụ các gia đình và giới trẻ, phục vụ người già và người nghèo là những gì suốt đời làm viên trọn bản thân chúng ta.
Không ai trong chúng ta được tỏ ra ủ rũ, buồn phiền và khó chịu, vì "người môn đệ nào u sầu là người môn đệ của sầu u". Như hết mọi người, chúng ta cũng có những rắc rối của mình, có những đêm đen trong tâm hồn của chúng ta, có những bất mãn và những yếu bệnh của chúng ta, kinh nghiệm của chúng ta chậm lại khi chúng ta già hơn. Thế nhưng, trong tất cả những sự ấy chúng ta cần phải làm sao để có thể khám phá ra được "niềm vui trọn hảo". Vì chính ở nơi đây chúng ta nhận ra dung nhan của Chúa Kitô, Đấng đã trở nên như chúng ta trong hết nọi sự, và vui lên khi ý thức được rằng chúng ta đang được nên giống Đấng vì yêu chúng ta đã không từ chối những đớn đau của thập giá.
Trong một xã hội đề cao việc tôn sùng những gì là hiệu năng, tương xứng và thành công, một xã hội khinh thường người nghèo và loại bỏ "những kẻ thua cuộc" (losers), chúng ta có thể chứng thực bằng đời sống của chúng ta sự thật của những lời Thánh Kinh: "Khi tôi hèn yếu là lúc tôi mạnh mẽ" (2Corinto 12:10).
Chúng ta có thể áp dụng cho đời dâng hiến những lời của Đức benedicto XVI đã được tôi trích dẫn trong Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm: "Giáo Hội không gia tăng bằng việc dụ giáo mà là bằng việc thu hút" (khoản 14). Đời dâng hiến sẽ không nở hoa như là thành quả của những chương trình ơn gọi khôn khéo, mà vì giới trẻ chúng ta gặp gỡ thấy chúng ta có một cái gì đó hấp dẫn, vì họ thấy chúng ta như là những con người nam nữ hân hoan vui sướng! Cũng thế, cái hiệu năng tông đồ của đời dâng hiến không lệ thuộc vào cái công hiệu của các thứ phương pháp. Nó lệ thuộc vào tính chất sống động hùng hồn nơi đời sống của chúng ta, những cuộc đời chiếu tỏa niềm vui và vẻ đẹp của việc sống Phúc Âm và trọn vẹn theo Chúa Kitô.
Như tôi đã nói với
các phong trào của giáo hội vào ngày Lễ Vọng Hiện Xuống năm ngoái: "Thật
sự ra sức mạnh của Giáo Hội là sống theo Phúc Âm và làm chứng cho đức
tin của chúng ta. Giáo Hội là muối đất; Giáo Hội là ánh sáng thế gian.
Giáo Hội được kêu gọi để hiện diện hóa trong xã hội chất men
của Vương Quốc Thiên
Chúa, và Giáo Hội làm điều ấy chính yếu bằng chứng
từ của mình, chứng từ yêu thương huynh đệ của Giáo Hội, chứng từ đoàn
kết và chia sẻ với người khác" (18/5/2013).
2- Tôi tin tưởng anh chị em là những người "làm cho thế giới này bừng dậy", vì dấu hiệu chuyên biệt của đời dâng hiến là ngôn sứ. Như tôi đã nói với các vị Bề Trên Tổng Quyền: "Việc sâu xa sống phúc âm không chỉ giành riêng cho tu sĩ: hết mọi người đều cần phải sống như vậy. Thế nhưng tu sĩ theo Chúa một cách đặc biệt, một cách ngôn chứng". Đó là cái ưu tiên cần thiết ngay lúc này đây: "là thành phần ngôn sứ làm chứng cho Chúa Giêsu đã sống trên thế gian này ra sao... người tu sĩ không bao giờ được bỏ bê vai trò ngôn sứ này" (29/11/2013).
Các vị ngôn sứ lãnh nhận từ Thiên Chúa khả năng thấu triệt được thời điểm họ sống và dẫn giải các biến cố xẩy ra: họ như những người lính canh đêm và mong thấy hừng đông (xem Isaia 21:11-12). Các vị ngôn sứ là những người nhận biết Thiên Chúa và họ biết được cả những con người nam nữ là anh chị em của họ nữa. Họ có thể nhận ra và bài bác sự dữ của những gì là tội lỗi và bất chính. Vì họ là những người tự do, họ không nặng nợ ai ngoài Thiên Chúa, và họ không hứng thú gì khác ngoài Thiên Chúa. Các vị ngôn sứ thiên về bên người nghèo và người bất lực, vì họ biết rằng chính Thiên Chúa ở cùng bên với họ.
Bởi vậy mà tôi tin tưởng rằng, thay vì sống theo một mộng tưởng nào đó, anh chị em sẽ tìm thấy được những cách thức để tạo nên "những khoảng thay thế" (alternate spaces), nơi có thể nở hoa cho đường lối Phúc Âm về việc hiến thân, huynh đệ, chấp nhận khác biệt và yêu thương nhau. Các đan viện, các cộng đồng, các trung tâm về linh đạo, các học đường, các bệnh viện, các nơi cư trú gia đình - tất cả đều là những nơi hiện thực hóa đức bác ái và óc sáng tạo xuất phát từ các đặc sủng của anh chị em, và nhờ tính chất sáng tạo liên tục các đặc sủng của anh chị em cần phải được tiếp tục trở thành thực hữu. Chúng cần phải càng ngày càng trở thành men cho một xã hội được Phúc Âm tác động, "một thành xây trên núi", chứng thực cho chân lý và quyền năng của những lời Chúa Giêsu nói.
Có những lúc, như Elia và Giona, anh chị em cảm thấy
chiều theo chước cám dỗ muốn tẩu
thoát, bỏ bê công việc làm ngôn sứ vì nó quá gay go, mệt mỏi hay rõ ràng
là chẳng có hiệu quả gì. Thế nhưng các vị ngôn sứ đều biết rằng họ chẳng
bao giờ lẻ loi cô độc một mình. Như đã đối xử với tiên tri Giêrêmia thế
nào, Thiên Chúa cũng phấn khích chúng ta như thế: "Đừng sợ chúng, vì
Ta ở cùng ngươi để giải cứu ngươi" (Giêrêmia 1:8).
3- Những tu sĩ nam nữ, như tất cả mọi con người dâng hiến khác, đã được kêu gọi trở thành, như tôi đã đề cập, "những chuyên viên hiệp thông". Bởi thế, tôi hy vọng rằng "linh đạo hiệp thông", được Thánh Gioan Phaolô II nhấn mạnh rất nhiều, sẽ trở thành một thực tại và anh chị em sẽ là thành phần dẫn đầu trong việc đáp ứng "cuộc thách đố lớn lao trước mắt chúng ta" trong ngàn năm mới này, đó là "biến Giáo Hội trở thành ngôi nhà và học đường của hiệp thông" (Apostolic Letter Novo Millennio Ineunte [6 January 2001], 43). Tôi tin rằng trong Năm này anh chị em sẽ hết sức cố gắng để làm cho lý tưởng về tình huynh đệ này, được các vị sáng lập nam nữ của anh chị em theo đuổi thực hiện, được lan ra khắp mọi nơi như là các vòng qui tâm.
Mối hiệp thông trước hết và trên hết được sống trong cộng đồng riêng của mỗi Hội Dòng. Để đạt được đích điểm này tôi xin anh chị em hãy nghĩ về các nhận định thường xuyên của tôi liên quan tới việc phê phán bình phẩm, đến việc xì xèo rỉ tai, đến lòng tham lam ghen tị, đến thái độ hận thù ghen ghét như là các đường lối tác hành không còn chỗ đứng trong các nhà dòng của chúng ta. Có thế thì con đường đức ái mới mở ra trước chúng ta hầu như vô cùng bất tận, vì nó bao gồm việc chấp nhận lẫn nhau và quan tâm đến nhau, thực hành mối hiệp thông về của cải sản vật, cả về vật chất lẫn thiêng liêng, anh chị em sửa lỗi cho nhau và tỏ ra tôn trọng những ai yếu kém... nó là "khoa thần bí chung sống - (the mystique of living together" làm cho đời sống của chúng ta trở thành "một cuộc hành trình linh thánh - a sacred pilgrimage" (Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium [24 November 2013], 87). Chúng ta cần phải tự vấn về đường lối chúng ta giao tiếp với những con người khác văn hóa, trong lúc cộng đồng của chúng ta càng ngày càng trở thành quốc tế. Làm sao chúng ta có thể để cho mỗi một phần tử được tự do phát biểu những gì họ nghĩ, được chấp nhận với các tặng ân đặc biệt của họ, và hoàn toàn được đồng trách nhiệm?
Tôi cũng hy vọng mối hiệp thông gia tăng giữa các phần tử thuộc các Hội Dòng khác nhau nữa. Năm này có thể là một cơ hội để chúng ta can đảm vươn mình ra khỏi những khuôn khổ của Hội Dòng mình mà cùng nhau hoạt động, ở tầm cấp địa phương cũng như hoàn vũ, về các dự án liên quan đến việc huấn luyện, việc truyền bá phúc âm hóa và hoạt động xã hội hay chăng? Điều này sẽ làm cho chứng từ ngôn sứ càng có hiệu năng hơn. Mối hiệp thông và việc gặp gỡ giữa các đặc sủng và ơn gọi khác nhau có thể mở ra một con đường hy vọng. Không ai góp phần cho tương lai trong cô lập, bằng các nỗ lực một mình, nhưng bằng việc thấy mình như thuộc về một mối hiệp thông thực sự liên lỉ hướng tới chỗ gặp gỡ, đối thoại, chuyên chú lắng nghe và hỗ trợ lẫn nhau. Mối hiệp thông như thế đưa chúng ta ra khỏi căn bệnh cuộn mình lại.
Những
con người nam nữ sống đời dâng hiến cũng được kêu gọi đến chỗ thực sự kiến
tạo nên
một toàn
khối tất cả mọi ơn gọi khác trong Giáo Hội, bắt đầu là các vị linh mục
và giáo dân, để
"lan truyền linh đạo hiệp thông, trước hết nơi nội bộ của họ rồi đến
cộng đồng giáo hội, thậm chí còn vượt ra ngoài các giới tuyến của
nó nữa" (JOHN
PAUL II, Post-Synodal Apostolic Exhortation Vita Consecrata [25 March
1996], 51.)
4- Tôi cũng mong đợi nơi anh chị em những gì tôi đã xin với tất cả mọi phần tử của Giáo Hội, đó là hãy xuất thân mà đi đến các mép rìa của cuộc sống. "Hãy đi khắp thế gian"; đây là những lời cuối cùng Chúa Giêsu đã nói cùng thành phần theo Người và là lời Người tiếp tục ngỏ cùng chúng ta (xem Marco 16:15). Toàn thế giới đang chờ đợi chúng ta: những con người nam nữ đã mất hết niềm hy vọng, các gia đình trong cơn khốn khó, các trẻ em bị bỏ rơi, giới trẻ không có tương lai, người già, yếu đau và bị bỏ rơi, những ai giầu có về các sản vật trần thế nhưng bên trong lại nghèo nàn, những con người nam nữ tìm kiếm cho cuộc đời có được một mục đích, khát khao thần linh...
Đừng khép kín bản thân mình, đừng bị ngột ngạt bởi những thứ cãi cọ lặt vặt, đừng tiếp tục làm con tin cho các vấn nạn của mình. Những sự ấy sẽ được giải tỏa nếu anh chị em tiến tới và giúp cho người khác giải quyết vấn đề của họ, cùng loan báo Tin Mừng. Anh chị em sẽ tìm được sự sống bằng việc trao ban sự sống, hy vọng bằng việc cống hiến hy vọng, yêu thương bằng việc cống hiến thương yêu.
Tôi xin anh chị em hãy hoạt động một cách thực tiễn trong
việc đón nhận các người tị nạn, đến gần với người nghèo và tìm những
cách thức sáng tạo để dạy
giáo lý, để loan báo Phúc Âm và để dạy cho người khác cách nguyện cầu.
Tóm lại tôi hy vọng rằng những thứ cấu trúc được cắt tỉa gọn ghẽ, các
ngôi nhà dòng lớn được tái định liệu cho các công việc giúp đáp ứng
những đòi hỏi hiện nay của vấn đề truyền bá phúc âm hóa và bác ái, và
những hoạt động tông đồ cần được thích ứng với các nhu cầu mới.
5- Tôi trông mong là mỗi hình thức sống đời dâng hiến sẽ đặt vấn đề Thiên Chúa và dân chúng ngày nay đang đòi hỏi gì ở nơi họ.
Các đan viện và các nhóm chính yếu về đời sống chiêm niệm có thể gặp gỡ hay tham gia vào việc trao đổi kinh nghiệm về cuộc sống cầu nguyện, về các cách thức đi sâu vào mối hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, về việc nâng đỡ thành phần Kitô hữu bị bách hại, đón tiếp và hỗ trợ những ai đang tìm kiếm một đời sống thiêng liêng sâu xa hơn hay cần được nâng đỡ về luân lý hoặc thể lý.
Cũng thế đối với các Hội Dòng dấn thân thực hiện các việc về bác ái, giảng dạy cũng như tiến bộ văn hóa, thực hiện việc rao giảng Phúc Âm hay thi hành các thừa tác mục vụ đặc biệt. Nó cũng được thực hiện bởi các Tu Hội Đời (Secular Institutes), một tổ chức có các phần tử ở mọi tầng lớp xã hội. Tính chất sáng tạo của Thần Linh đã làm phát sinh ra những đường lối sống và các hoạt động khác nhau đến độ chúng không dễ dàng để được phân loại hay thích hợp với các khuôn mẫu sẵn có. Bởi vậy tôi không thể ngỏ lời với từng và hết mọi hàng ngũ đặc sủng. Tuy nhiên, trong Năm này, không ai có thể được miễn trừ khỏi việc nghiêm cẩn xem xét việc hiện diện của mình trong đời sống của Giáo Hội, cũng như khỏi việc đáp ứng những đòi hỏi mới liên lỉ nhắm tới chúng ta, đáp ứng tiếng kêu của người nghèo.
Chỉ bằng mối quan tâm như thế đối với các nhu cầu của thế giới, và bằng tấm lòng dễ dạy trước những tác động của Thần Linh, Năm Đời Dâng Hiến này mới trở thành một cơ hội thực sự, một thời điểm phong phú ân sủng của Thiên Chúa, một thời điểm của việc biến đổi vậy.
III- Các Chân Trời của Năm Đời Dâng Hiến
1. Trong bức thư này, tôi chẳng những muốn nói với những con người sống đời dâng hiến mà còn muốn nói với cả giáo dân nữa, thành phần chia sẻ với họ các lý tưởng như nhau, tinh thần và sứ vụ như nhau. Một số Hội Dòng có một truyền thống lâu đời về vấn đề này, trong khi những hội dòng khác thì mới có cảm nghiệm đây. Thật vậy, chung quanh mỗi một gia đình dòng tu, hết mọi Hội Đoàn Sống Đời Tông Đồ và hết mọi Tu Hội Đời (Secular Institute), đều có một gia đình bao rộng hơn, "một gia đình có tính chất đặc sủng", một gia đình bao gồm một số Tu Hội có cùng đặc sủng, nhất là thành phần tín hữu giáo dân cảm thấy được kêu gọi, chính là vì giáo dân, tham phần vào cùng một thực tại đặc sủng.
Tôi tha thiết
xin anh chị em, với tư cách là giáo dân, hãy sống Năm Đời Dâng Hiến này
như là một hồng ân có thể làm cho anh chị em nhận thức được tặng ân anh
chị em đã lãnh nhận. Hãy mừng tặng ân
này
cùng với toàn thể "gia đình' của anh chị em, nhờ đó anh chị em có thể
tăng trưởng và cùng nhau đáp ứng tác động của Thần linh trong xã hội
ngày nay. Ở một số trường hợp, khi thành phần nam nữ sống đời dâng hiến
thuộc các Hội Dòng khác nhau qui tụ lại, anh chị em hãy sắp xếp để đích
thân hiện diện hầu thể hiện một tặng ân duy nhất của Thiên Chúa. Như thế
anh chị em sẽ cảm nghiệm được về các gia đình đặc sủng khác và các nhóm
giáo dân khác, nhờ đó có cơ hội để phong phú hóa nhau và
nâng đỡ
lẫn nhau.
2. Năm Đời
Dâng Hiến liên quan chẳng những đến thành phần dâng hiến mà còn đến toàn
thể Giáo Hội nữa. Bởi
thế, tôi
xin toàn thể dân Kitô giáo hãy gia tăng việc nhận thức về tặng ân đang
hiện diện nơi nhiều con người nam nữ sống đời dâng hiến của chúng ta,
thành phần thừa tự của các vị đại thánh đã viết lên lịch sử Kitô giáo. Giáo
Hội sẽ ra sao nếu không có Thánh
Biển Đức và Thánh
Basiliô, không có Thánh Âu
Cơ Tinh và Thánh
Bênađô, không có Thánh
Phanxicô và Thánh Đaminh, Thánh
I Nhã và Thánh
Thiên Sa Avila, Thánh
Angelica Merici và Thánh
Vinh Sơn Phaolô. Danh sách có thể còn
dài cho tới Thánh
Gioan Bosco và Chân
Phước Têrêsa Calcutta. Như Chân Phước
Phaolô VI đã nhận định:
"Không có dấu hiệu cụ thể này sẽ có nguy cơ là đức ái vốn làm
sinh động toàn thể Giáo Hội sẽ trở nên lạnh giá, cái
mẫu thuẫn cứu độ của Phúc Âm sẽ thành ra cùn nhụt, và "muối" đức
tin sẽ mất đi mùi
vị trong một thế giới đang bị trần tục hóa" (Evangelica
Testificatio, 3).
Bởi
vậy, tôi mời gọi hết mọi cộng đồng Kitô hữu hãy
cảm nghiệm Năm này trước hết như là một thời điểm tạ ơn Chúa và tri ân
nhớ đến tất cả mọi tặng ân chúng ta tiếp tục nhận lãnh nhờ sự thánh
thiện của các vị nam nữ sáng lập, cũng như từ lòng trung thành với đặc
sủng của các vị được chứng tỏ nơi rất nhiều con người nam nữ sống đời
dâng hiến. Tôi xin tất cả anh chị em hãy gần gũi với những con người nam
nữ này, để hoan hỉ với họ, để chia sẻ với những
khó khăn của họ và để hỗ trợ họ, bao nhiêu có thể, nơi các thừa tác vụ cũng
như các
công việc của họ, vì
cuối cùng những thừa tác vụ và công việc đó chẳng qua là
của toàn thể Giáo Hội. Họ
hãy biết rằng toàn thể dân Kitô giáo đều cảm mến và nồng nàn đối với họ.
3- Trong
bức
thư này tôi không ngần
ngại ngỏ
lời cùng những anh chị em sống đời dâng hiến cũng như các phần tử thuộc
các huynh đệ đoàn và các cộng đồng thuộc về những Giáo Hội theo truyền
thống khác với truyền thống Công giáo. Đời
sống đan tu thuộc về gia sản của một Giáo Hội bất phân chia, và vẫn còn
rất sinh động ở cả các Giáo Hội Chính Thống lẫn Giáo
Hội Công Giáo. Truyền thống đan tu, cùng các cảm nghiệm khác sau đó từ
thời Giáo Hội bên Tây phương vẫn còn hiệp nhất, đã ảnh hưởng đến các
khởi động
như
nhau ở các Cộng Đồng Giáo Hội theo truyền thống cải cách. Những
khởi động ấy vẫn tiếp tục làm nẩy sinh
những thể hiện hơn nữa từ cộng đồng
và
việc phục vụ huynh đệ.
Thánh
Bộ đặc trách các Hội Dòng Sống Đời Dâng Hiến và các Hội Đoàn
Sống Đời Tông Đồ đã
phác họa ra một số khởi động trong việc dễ dàng hóa các cuộc hội ngộ
giữa những phần tử thuộc các thể hiện khác nhau của đời sống dâng hiến
và huynh đệ nơi những Giáo Hội khác nhau. Tôi
nhiệt liệt phấn khích các cuộc gặp gỡ ấy như
là
một cách
thức giúp gia tăng việc hiểu biết lẫn nhau, tôn trọng và hợp tác với
nhau, nhờ đó việc đại kết này của đời sống dâng hiến có thể trở nên hữu ích
cho cuộc
hành trình lớn lao hơn hướng tới mối hiệp nhất của tất cả mọi Giáo Hội.
4. Chúng ta không thể quên sót hiện tượng về đời sống đan tu cũng như về các thể hiện khác của tình huynh đệ tu trì đang hiện hiện hữu cả ở tất cả các tôn giáo lớn khác nữa. Đã từng xẩy ra trường hợp đối thoại liên đan viện lâu đời bao gồm Giáo Hội Công Giáo và một số đại truyền thống tôn giáo. Tôi tin rằng Năm Đời Dâng Hiến này sẽ là một cơ hội nhìn lại sự tiến bộ đạt được, để làm cho những người sống đời dâng hiến nhận thức được cuộc đối thoại này, và cứu xét xem đâu là những bước xa hơn nữa cần phải thực hiện hướng về việc hiểu biết nhau hơn nữa và hợp tác hơn nữa ở nhiều lãnh vực chung phục vụ sự sống con người.
Việc cùng nhau hành trình bao giờ cũng
mang lại phong phú và có thể mở ra những con đường mới cho các mối liên
hệ giữa các dân nước và các nền văn hóa là những gì ngày nay trở nên
thật là khó khăn.
5. Sau hết, tôi muốn đặc biệt ngỏ lời cùng các vị giám mục huynh đệ của tôi. Chớ gì Năm này là một cơ hội để chấp nhận các hội dòng sống đời dâng hiến, một cách sẵn sàng và hân hoan, như là một vốn liếng thiêng liêng góp phần vào thiện ích của toàn thân mình của Chúa Kitô (xem lumen Gentium, 43), chứ không phải chỉ là vốn liếng của các gia đình tu trì riêng tư. "Đời dâng hiến là một tặng ân cho Giáo Hội, nó được xuất phát từ Giáo Hội, nó phát triển trong Giáo Hội và hoàn toàn hướng về Giáo Hội" (BISHOP J.M. BERGOGLIO, Intervention at the Synod on the Consecrated Life and its Mission in the Church and in the World, XVI General Congregation, 13 October 1994). Vì lý do ấy, vì chính là một tặng ân cho Giáo Hội mà nó không phải là một thực tại cô lập hay bên lề, mà sâu xa thuộc về Giáo Hội. Nó ở trong lòng của Giáo Hội, một yếu tố quyết liệt cho sứ vụ của Giáo Hội, vì nó thê hiện bản chất sâu xa của ơn gọi Kitô giáo và niềm mong ước của Giáo Hội Hiền Thê được hiệp nhất với vị Phu Quân duy nhất của mình. Bởi thế mà "nó hoàn toàn thuộc về đời sống và sự thánh thiện" của Giáo Hội (cùng nguồn, 44).
Theo chiều hướng ấy, tôi xin chư huynh, các vị Mục Tử của các Giáo Hội riêng, hãy chứng tỏ mối quan tâm đặc biệt trong việc phát động trong cộng đồng của chư huynh những đặc sủng khác nhau, dù là lâu đời hay mới đây. Tôi xin chư huynh hãy làm điều này bằng việc hỗ trợ và phấn khích của chư huynh, bằng việc trợ giúp của chư huynh về nhận thức, cũng như bằng sự gần gũi dịu dàng và yêu thương được tỏ ra đối với những trường hợp khổ đau và yếu kém nơi một số con người nam nữ sống đời dâng hiến. Nhất là chư huynh hãy làm điều này bằng việc hướng dẫn Dân Chúa về giá trị đời dâng hiến, nhờ đó vẻ đẹp và sự thánh thiện của nó được tỏa chiếu trong Giáo Hội.
Tôi xin ký thác Năm Đời Dâng Hiến này cho Mẹ Maria, Vị Trinh Nữ của lắng nghe và chiêm niệm, người môn đệ đầu tiên của Người Con yêu dấu của Mẹ. Chúng ta hãy nhìn lên Mẹ, người nữ tử rất yêu dấu của Chúa Cha, được trang điểm bằng hết mọi quà tặng của ân sủng, như là một mô phạm khôn sánh cho tất cả những ai theo Chúa Kitô vì yêu mến Thiên Chúa và phục vụ tha nhân của mình.
Cuối cùng, tôi xin hợp với tất cả chư huynh để tri ân cảm tạ về các quà tặng của ân sủng và ánh sáng là những gì Chúa ưu ái muốn sử dụng để làm cho chúng ta trở nên phong phú, và tôi đồng hành với chư huynh với Phép Lành Tòa Thánh của tôi.