Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
phân
tích, tuyển hợp và chuyển dịch
http://www.vatican.va/holy_father/francesco/apost_exhortations/documents/papa-francesco_esortazione-ap_20131124_evangelii-gaudium_en.html.
Niềm Vui Phúc Âm - Bối Cảnh Lịch Sử
Vẫn biết văn kiện
đầu tay của Đức Thánh Cha Phanxicô không phải là Tông Huấn "Niềm
Vui Phúc Âm - Evangelii Gaudium" ban hành ngày Lễ Chúa Kitô Vua
bế mạc Năm Đức Tin 24/11/2013, mà là Thông Điệp "Ánh Sáng Đức
Tin - Lumen Fidei" được kư ban hành vào ngày Lễ Hai Thánh
Tông Đồ Phêrô và Phaolô 29/6/2013.
Tuy nhiên, Thông
Điệp Ánh Sáng Đức Tin hầu như của ĐTC Biển Đức XVI hơn là của
ngài, v́ bức thông điệp này, như ngài xác nhận ở đoạn 7 là chính
vị giáo hoàng tiền nhiệm của ngài "đă hầu như hoàn tất bản nháp
đầu tiên cho bức thông điệp về đức tin", c̣n ngài chỉ "tiếp tục
văn kiện hay ho này và góp thêm một ít phần của ḿnh vào đó".
C̣n
Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, tuy là đóng góp của
Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới Thường Lệ lần thứ 13 trong thời
đoạn từ 7-28/10/2012 về chủ đề "Việc Tân Truyền Bá Phúc Âm Hóa
để Truyền Đạt Đức Tin Kitô Giáo", thế nhưng
người đọc vẫn thấy được
những nét độc đáo của chính Đức Giáo Hoàng Phanxicô, qua
giọng điệu của ngài, chủ trương của ngài cũng như cách sử dụng
từ ngữ của ngài, những ǵ ngài đă bày tỏ qua các
cuộc phỏng vấn công khai trước đó.
Công Đồng Chung
Vaticanô II là một mốc điểm lịch sử quan trọng nhất cho Giáo Hội
ở vào hậu bán thế kỷ 20 trước khi tiến vào ngàn năm thứ 3 Kitô
giáo, một công đồng kéo dài 3 năm 2 tháng (11/10/1962 -
8/12/1965), ban hành 16 văn kiện, 4 hiến chế (constitutions), 9
sắc lệnh (decrees) và 3 tuyên ngôn (declarations), trong đó có
hai văn kiện tiêu biểu nhất cho công đồng thứ 21 này của Giáo
Hội, đó là Hiến Chế Tín Lư về Giáo Hội "Ánh Sáng muôn dân -
Lumen gentium" (21/11/1964) và Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội "Vui
mừng và hy vọng - Gaudium et spes" (7/12/1965).
Sau công đồng này,
ngoại trừ vị giáo hoàng 33 ngày là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô I
(26/8-28/9/1978), có 3 vị giáo hoàng hậu công đồng cho tới nay:
Nếu Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (16/10/1978 - 2/4/2005), một
triết gia nhân bản, và Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
(19/4/2005-28/2/2013), một thần học gia về chân lư đức tin, là
hai vị giáo hoàng, qua các văn kiện và chiều hướng hoạt động của
ḿnh, tiêu biểu cho một Giáo Hội là "ánh sáng muôn dân", th́
Đức Thánh Cha Phanxicô, qua đời sống b́nh dân và
tinh thần từ ái của ngài, là
vị giáo hoàng tiêu biểu cho một Giáo Hội thực hiện sứ vụ mang
"vui mừng và hy vọng" đến cho loài người, nhất
là cho thành phần nghèo khổ và tội lỗi trong một thế giới càng
văn minh con người càng bạo loạn và diệt vong.
Không phải hay
sao, chính hai văn kiện được Đức Thánh Cha Phanxicô ban hành:
Thông Điệp "Ánh
Sáng Đức Tin" và
Tông Huấn "Niềm
Vui Phúc Âm" đă đủ nói lên chiều hướng của
Công Đồng Chung Vaticanô II: Giáo Hội là "Ánh
Sáng muôn dân" để mang "Niềm
Vui và hy vọng" đến cho thế giới tân
tiến ngày nay? Bức Thông Điệp "Ánh
Sáng đức tin", hầu như tác giả là Đức Thánh Cha Biển
Đức XVI, nếu được coi là tiêu biểu cho một Giáo Hội "Ánh
Sáng muôn dân", th́
cũng có thể là tiêu biểu cho hai vị Giáo Hoàng uyên bác về kiến
thức đă tham dự Công Đồng Chung Vaticanô II, đó là Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II, một nghị phụ chính thức của Công Đồng này, và
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI là cố vấn thần học cho một nghị phụ
của Công Đồng này. Bức Tông Huấn "Niềm
Vui Phúc Âm", nếu được coi là tiêu biểu cho
một Giáo Hội mang "Niềm
Vui và hy vọng" đến cho nhân loại, th́ cũng có thể
là tiêu biểu cho vị Giáo Hoàng đă công khai khẳng định rằng ngài
mong muốn có được một Giáo Hội sống nghèo và là một Giáo Hội của
người nghèo, cho người nghèo.
Và nếu di sản Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II để lại cho chung Giáo Hội trong ngàn
năm thứ ba Kitô giáo được gói ghém trong Tông Thư "Mở Màn Ngàn
Năm Mới - Novo Milennio Ineunte" ban hành ngày 6/1/2001 để bế
mạc Đại Năm Thánh 2000, đó là "duc in altum - nước sâu thả lưới"
(Luca 5:4), th́ vị Giáo Hoàng Biển Đức XVI đă được sai đến trong
ṿng gần 8 năm ngắn ngủi, (cho đến khi ngài tự ư từ nhiệm), là
để dẫn Giáo Hội đến chỗ "nước sâu" và Đức Thánh Cha
Phanxicô đang được sai đến là để "thả lưới".
Thật vậy, Vị tiền
nhiệm Biển Đức XVI của ngài, với bản chất thâm trầm nội tâm và
kiến thức thần học uyên bác, đă dẫn Giáo Hội đến chỗ "nước sâu"
qua hai văn kiện của 2 Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới, một vào
năm 2005 về Thánh Thể và một vào năm 2008 về Lời Chúa, đó là
Tông Huấn "Bí Tích Yêu Thương - Sacramentum Caritatis" ban hành
ngày 22/2/2007, và Tông Huấn "Lời Chúa - Verbum Domini" ban hành
ngày 30/9/2010. Ngoài ra, ngài c̣n ban bố 3 bức thông điệp cũng
có tính chất tu đức và nội tâm, thứ tự như sau: "Thiên Chúa là
t́nh yêu - Deus caritas est" (25/12/2005), "Niềm hy vọng cứu độ
- Spe salvi" (30/11/2007), và "Yêu thương trong chân lư -
Caritas in veritate" (29/6/2009). Chưa hết, vị giáo hoàng tiền
nhiệm này c̣n mở Năm Đức Tin (11/10/2012 - 24/11/2013), và gần
hoàn tất bức thông điệp thứ 4 về đức tin của ngài (như
được đề cập đến trên đây).
Về phần ḿnh, với
kinh nghiệm mục vụ rất già giặn và đầy thực tế,
vị giáo hoàng từ một miền đất "tận cùng trái đất"
(cụm từ được ngài sử dụng lần đầu tiên khi ngỏ lời với dân chúng ở Quảng
Trường Thánh Phêrô tối ngày 13/3/2013 trong tư cách là một tân
giáo hoàng mới được tuyển bầu), miền đất nghèo khổ
Mỹ Châu Latinh ở Á Căn Đ́nh được sai đến với ngai ṭa
Phêrô để đại diện Chúa Kitô,
dẫn Giáo Hội tiếp tục từ chỗ "nước sâu" đến sứ vụ "thả lưới".
Phải nói rằng bức Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm là phản ảnh
sống động nhất và trung thực nhất về tinh thần và đường hướng
của Đức Thánh Cha Phanxicô. Nguyên nhan đề của bức Tông Huấn
có từ ngữ "niềm vui" đă đủ hiện lên gương mặt luôn tươi cười đầy
phấn khởi của ngài cũng như chiều hướng của ngài rất thiết tha
muốn mang "vui mừng và hy vọng - gaudium et spes" đến cho thế
giới ở vào thời điểm lịch sử hết sức buồn thương và khẩn trương
hiện nay.
Riêng tôi, càng
đọc Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, tôi càng tự nhiên cảm thấy dường
như đang ứng nghiệm lời Chúa Giêsu tiên báo về ngày tận thế như
sau: "V́
sự dữ gia tăng mà ḷng mến nơi hầu hết đă trở nên nguội lạnh...
Tin mừng về Vương Quốc này sẽ được loan báo khắp thế giới như là
một chứng từ cho tất cả mọi dân tộc. Chỉ sau đó mới đến ngày
cùng tháng tận" (Mathêu 24:12,14).
Qua câu tiên báo
này của Chúa Giêsu về thời điểm trước ngày cùng tháng tận, chúng
ta thấy:
1- vào chính lúc
con người trở nên nguội lạnh th́ tin mừng lại được rao giảng
khắp thế giới, tức là cả thế giới đă trở thành nguội lạnh, thiếu
bác ái yêu thương, sống hận thù sát hại nhau, cần phải được Trời
Cao nhắc nhở qua sứ vụ truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội;
2- và chỉ sau khi tin mừng cứu
độ được rao giảng khắp nơi rồi th́ mới tới ngày cùng tháng tận,
tức là việc rao giảng tin mừng khắp thế giới, như việc rao giảng
của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cho dân Do Thái xưa, là để dọn đường
cho Chúa Kitô tái giáng "để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Nước
Người sẽ vô cùng bất tận".
Lịch sử đă xẩy ra như thể ứng nghiệm lời tiên báo này của Chúa
Kitô về thời tận thế "Tin mừng về Vương Quốc này sẽ được loan
báo khắp thế giới như là một chứng từ cho tất cả mọi dân tộc": ở
chỗ, chưa bao giờ thấy trong lịch sử Giáo Hội có các vị giáo
hoàng thực hiện các chuyến tông du khắp thế giới, bắt đầu từ ngay trong Công Đồng Chung Vaticanô II, qua chuyến tông du
lịch sử đầu tiên của Đức Thánh Cha Phaolô VI ở Thánh Địa trong
thời khoảng 4-6/1/1964. Sau 11 chuyến tông du của Đức Thánh Cha
Phaolô VI tới 104 chuyến tông du của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II trong ṿng 26 năm rưỡi, tức trung b́nh 4 chuyến 1 năm, và 24
chuyến tông du của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI trong ṿng 8 năm,
tức trung b́nh 3 chuyến một năm.
Công cuộc và sứ vụ truyền bá
phúc âm hóa này càng khẩn trương hơn nữa, khi thế giới loài
người mỗi ngày mỗi trở nên lạc loài hơn bao giờ hết, với t́nh
trạng khủng hoảng đức tin trong Giáo Hội, cùng với hiện tượng
của một xă hội loài người đang bị phá sản luân lư chưa từng thấy bởi
thứ văn hóa chết chóc gây ra bởi nọc độc tương đối chủ nghĩa.
Sự kiện trùng hợp ở đây là văn
kiện đúc kết của Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới thường lệ lần thứ
XIII năm 2012 về việc tân truyền bá phúc âm hóa lại do chính vị
giáo hoàng năng nổ truyền giáo Phanxicô ban hành, nhan đề
"Niềm Vui Phúc Âm",
trong đó, các nghị phụ của Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới này nói
chung và Đức Phanxicô nói riêng
muốn nhắm đến chính tác nhân truyền bá phúc âm hóa,
hơn là đến đối tượng được truyền bá phúc âm hóa, như trong Tông Huấn
"Evangelii Nuntiandi - Loan Báo Phúc Âm" (8/12/1975) của Đức
Thánh Cha Phaolô VI, văn kiện đúc kết Thượng Nghị Giám Mục Thế
Giới Thường Lệ lần thứ III năm 1974, cũng như hơn là đến chính
sứ vụ truyền giáo, như trong Thông Điệp "Sứ Vụ Cứu Chuộc -
Redemptoris Missio" (7/12/1990) của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II.
Đó là lư do Tông Huấn này đă mở
đầu (đoạn 1) bằng câu bao gồm chính tinh thần và chiều hướng của
nó như sau:
"Niềm vui Phúc Âm là những ǵ tràn đầy tâm can và đời sống của
tất cả những ai gặp gỡ Chúa Giêsu.
Những ai chấp nhận việc Người cống hiến ơn cứu độ cho th́ được
giải phóng khỏi tội lỗi, buồn đau, trống rỗng nội tâm và lẻ loi
cô quạnh. Niềm vui luôn được tái sinh nơi Chúa Kitô. Trong Tông
Huấn này, tôi muốn phấn khích tín hữu Kitô giáo hăy khai mào một
giai đoạn mới của một việc truyền bá phúc âm hóa được đánh dấu
bằng niềm vui này, trong khi vạch ra
những đường lối mới cho cuộc hành tŕnh vào những năm trước mắt
của Giáo Hội".
Rơ ràng là câu mở đầu Tông Huấn
Niềm Vui Phúc Âm trên đây bao gồm 2 yếu tố chính đó là
tác nhân truyền bá phúc âm hóa
và
đường lối mới cho việc tân truyền bá phúc âm hóa. Bởi thế, để vừa ngắn gọn hơn mà vẫn không mất ư
nghĩa của toàn văn kiện, vừa dễ dàng hơn trong việc
nắm bắt ngay được hai ư chính
cốt yếu làm nên văn kiện này, nhưng vẫn không v́ thế mà coi
thường các câu khác trong bản văn không được trích dịch (bởi
những câu này chỉ phụ thuộc hay diễn giải thêm), người dịch ở
đây sẽ thực hiện việc tuyển hợp những câu, những đoạn / những
khoản nào của Bức Tông Huấn sát với hai ư tưởng chủ yếu nhất
trong toàn văn kiện.
Sau đây bô cục tổng quan hai
phần chính và những khoản tiêu biểu nhất của bức Tông Thư nên đă
được người dịch chuyển dịch, trực tiếp từ mạng điện toán toàn
cầu của Ṭa Thánh. Những tiểu đề theo bố cục và nội dung của bức
Tông Thư này v́ thế cũng đă được người dịch sắp xếp căn cứ vào
câu chủ yếu đầu tiên của bức Tông Thư.
Phần Một: Thành
phần tác nhân loan truyền Niềm Vui Phúc Âm
1- Niềm Vui Phúc Âm - một sứ vụ không chấp
nhận
khuynh hướng phản
chứng nơi
mục vụ
viên
2- Niềm Vui Phúc Âm - một sứ vụ bất khả thiếu và bất khả châm
chước của Kitô hữu
3- Niềm Vui Phúc Âm - một sứ vụ cần phải được tràn đầy Thần Linh mới có thể hoàn
thành
Phần Hai: Đường
lối mới loan truyền
Niềm Vui Phúc Âm
1- Niềm Vui Phúc Âm - cần một cuộc hoán cải về mục vụ
2- Niềm Vui Phúc Âm - trước
những thách đố của thế giới ngày nay
3- Niềm Vui Phúc Âm - những cách thức
để truyền đạt
4- Niềm Vui Phúc Âm - đặc biệt cho người
nghèo hèn
Phần Một
Thành phần tác nhân
loan truyền
Niềm Vui Phúc Âm
Trước hết là thành phần tác nhân
của việc tân truyền bá phúc âm hóa, thành phần tác nhân phải làm
sao cảm thấy niềm vui phúc âm, ở chỗ "gặp gỡ Chúa Kitô", trong
cả tâm can bên trong lẫn đời sống bên ngoài của ḿnh, nhờ đó họ
mới có thể thực hiện những đường lối mới của việc tân truyền bá
phúc âm hóa trong thế giới ngày nay của Giáo Hội, liên quan
đến "3 lănh vực chính", hay 3 thành phần chính, như đoạn Tông
Huấn 14 liệt kê, đó là:
Niềm Vui Phúc Âm - về ba lănh vực
1- "Thành phần tín hữu thường
xuyên tham dự vào việc thờ phượng của cộng đồng và qui tụ vào
Ngày của Chúa", và "những phần tử tín hữu hiếm tham dự vào việc
thờ phượng", cả hai thành phần này đều cần đến "thừa tác mục vụ
b́nh thường" của Giáo Hội để nhờ đó "giúp họ tăng trưởng thiêng
liêng hầu có thể đáp ứng t́nh yêu của Thiên Chúa một cách trọn
vẹn hơn trong đời sống của họ";
2- "Thành phần lănh nhận phép
rửa sống không trọn vẹn những đ̣i hỏi của Phép Rửa" cần được
Giáo Hội giúp để họ có thể thực hiện "một thứ hoán cải phục hồi
niềm vui của đức tin trong ḷng cùng với niềm cảm hứng dấn thân
cho Phúc Âm";
3- "Những ai chưa nhận biết Chúa
Giêsu Kitô hay những ai luôn loại trừ Người", thế nhưng, "nhiều
người trong họ vẫn âm thầm t́m kiếm Thiên Chúa... thậm chí ở các
xứ sở có truyền thống Kitô giáo cổ kính", thành phần vẫn "có
quyền lănh nhận phúc âm", "không phải bằng cách dụ giáo" mà là
được "thu phục" bởi các tác nhân cảm thấy Niềm Vui Phúc Âm.
Ba thành phần được liệt kê ở
đoạn 14 này có thể được coi là đối tượng chính yếu của việc tân
truyền bá phúc âm hóa. Thật ra, 2 thành phần đầu cần phải là tác
nhân của việc tân truyền bá phúc âm hóa, v́ họ là Kitô hữu. Nhất
là thành phần thứ hai đă "trở nên nguội lạnh", cần phải được tái
truyền bá phúc âm hơn ai hết và hơn bao giờ hết. Kể cả thành
phần thứ nhất thuộc loại "hiếm tham dự vào việc thờ phượng",
nghĩa là cũng đă "trở nên nguội lạnh" ở một mức độ nhẹ hơn thành
phần thứ hai, cũng cần phải được tái truyền bá phúc âm hóa.
Nếu hai thành phần Kitô hữu một
và hai được Tông Thư kể đến ở đoạn 14 cảm thấy được Niềm Vui
Phúc Âm nhờ "gặp gỡ Chúa Kitô" th́ họ mới có thể làm cho thành
phần thứ ba, hầu như là thành phần ngoài Kitô giáo, "chưa nhận
biết Chúa Giêsu Kitô hay những ai luôn loại trừ Người", bao gồm
cả chính thành phần Kitô hữu "ở các xứ sở có truyền thống Kitô
giáo cổ kính", một là đă trở thành hoàn toàn vô thần, hay mới
chỉ thiên về phiếm thần, ở chỗ "vẫn âm thầm t́m kiếm Thiên Chúa".
Niềm Vui Phúc Âm - điều kiện tiên quyết
Thế nhưng, điều kiện trước hết
và trên hết bất khả thiếu để cảm nghiệm được Niềm Vui Phúc Âm,
nhờ đó trở thành tác nhân loan truyền Niềm Vui Phúc Âm này, như
ở ngay câu đầu của Tông Thư đă khẳng định, đó là "gặp gỡ Chúa
Kitô":
- "Tôi mời gọi tất cả mọi Kitô
hữu, ở khắp mọi nơi, vào chính lúc này đây, hăy thực hiện một
cuộc tái tấu gặp gỡ riêng tư với Chúa Giêsu Kitô, hay ít là hăy
cởi mở để cho Người gặp gỡ ḿnh. Tôi xin tất cả anh chị em hăy
không ngừng làm như thế mỗi ngày. Không ai được nghĩ rằng lời
mời gọi này không nhắm đến họ, v́ 'không ai bị loại trừ ra khỏi
niềm vui được Chúa mang đến cho'
[Paul VI, Apostolic Exhortation
Gaudete in Domino
(9 May 1975), 22: AAS 67
(1975), 297.]" (khoản 3);
- "Chỉ nhờ có cuộc gặp gỡ này -
hay cuộc tái tấu gặp gỡ - với t́nh yêu của Thiên Chúa, một cuộc
gặp gỡ làm bừng nở một thứ thân t́nh phong phú, chúng ta mới
được giải phóng khỏi cảnh hạn hẹp và bám chặt lấy bản thân ḿnh
của chúng ta. Chúng ta trở nên người hoàn toàn khi chúng ta trở
thành người hơn nữa, khi chúng ta để cho Thiên Chúa đưa chúng ta
ra ngoài bản thân ḿnh để đạt tới sự thật trọn vẹn nhất của con
người chúng ta. Ở đó chúng ta thấy được nguồn mạch và cảm hứng
cho tất cả mọi nỗ lực của ḿnh trong việc truyền bá phúc âm hóa.
V́ nếu chúng ta đă lănh nhận được thứ t́nh yêu phục hồi ư nghĩa
cho cuộc sống của chúng ta th́ tại sao chúng ta lại không chia
sẻ t́nh yêu ấy cho người khác chứ?" (khoản 8).
Thật vậy, chỉ nhờ được "gặp gỡ
Chúa Kitô" mà Kitô hữu mới đạt được trọn vẹn tầm vóc sự sống
viên măn của ḿnh, một sự sống dồi dào đến độ có thể truyền sang
cho tha nhân, bằng việc dấn thân phục vụ cho lợi ích của anh chị
em của ḿnh, như nhận định của các khoản Tông Huấn sau đây:
- "Phúc Âm cống hiến cho chúng
ta cơ hội để sống một cuộc đời ở tầm mức cao hơn, nhưng không
kém phần gay go: 'Sự sống tăng trưởng nhờ được ban phát đi, và
nó trở thành suy yếu nơi t́nh trạng lẻ loi và thoải mái. Quả thế,
những ai hoan hưởng sự sống nhất là những người ĺa bỏ những ǵ
là an toàn lại trên bến bờ mà trở nên hăng say với sứ vụ truyền
đạt sự sống cho người khác' ”
[Fifth General Conference of the Latin
American and Caribbean Bishops, Aparecida Document, 29
June 2007, 360.] Khi Giáo Hội kêu gọi Kitô hữu đảm
nhận công việc truyền bá phúc âm hóa, Giáo Hội chỉ hướng đến cái
nguồn mạch của tầm vóc viên trọn đích thực về bản vị ấy. V́ 'ở
đây chúng ta khám phá thấy một thứ luật sâu xa về thực tại, đó
là sự sống được đạt thành và trưởng thành ở nơi mức độ nó cống
hiến sự sống cho người khác. Đó thực sự là ư nghĩa của sứ vụ
truyền giáo' (ibid.). Thế nên, một nhà truyền bá phúc âm hóa
không bao giờ giống như một người mới đi dự tang lễ trở về!" (khoản
10).
- "Trong thời đại của chúng ta
đây, lệnh truyền của Chúa Giêsu trong việc 'hăy đi tuyển mộ các
môn đồ' đang âm vang nơi những viễn tượng đổi thay và những
thách đố mới mẻ hơn bao giờ hết đối với sứ vụ truyền bá phúc âm
hóa của Giáo Hội, và tất cả chúng ta được kêu gọi tham phần vào
'cuộc dấn thân' truyền giáo mới mẻ này. Mỗi một Kitô hữu và hết
mọi cộng đồng Kitô hữu cần phải nhận thức được đường lối được
Chúa chỉ dẫn, thế nhưng tất cả chúng ta đều được yêu cầu tuân
theo tiếng gọi của Người trong việc xuất thân ra khỏi giới tuyến
thoải mái của ḿnh để vươn tới tất cả 'những vùng ngoại biên'
đang cần đến ánh sáng Phúc Âm" (khoản 20).
Việc dấn thân vào đời cho sứ vụ
truyền bá phúc âm hóa liên quan đến yếu tố tác nhân chẳng những
cần phải: 1- thắng vượt cuộc khủng hoảng nơi các khuynh hướng
phản chứng của thành phần
mục vụ viên, mà c̣n 2- là một sứ vụ bất khả thiếu và bất khả
châm chước của Kitô hữu, 3- một sứ vụ cần phải được tràn đầy Thần Linh mới có
thể hoàn thành.
1- Niềm Vui Phúc Âm - một sứ vụ không chấp nhận
khuynh hướng phản chứng nơi
mục vụ viên
(Chương Hai:
Giữa Cuộc Khủng Hoảng về Cuộc Dấn Thân Chung;
Mục II: Những Khuynh Hướng nơi Thành Phần Mục
Vụ Viên)
76- ... Tôi muốn chia sẻ về
những thử thách mà tất cả họ cần phải đối diện đương đầu trong
bối cảnh của nền văn hóa toàn cầu hóa hiện nay của chúng ta. Thế
nhưng, theo công bằng th́ trước hết tôi phải nói rằng việc góp
phần của Giáo Hội trong thế giới ngày nay thật lớn lao. Nỗi đớn
đau và tủi nhục chúng ta cảm thấy v́ tội lỗi của một số phần tử
nào đó của Giáo Hội, và v́ tội lỗi của chúng ta, không được làm
cho chúng ta quên rằng đang có biết bao nhiêu là Kitô hữu cống
hiến đời sống của ḿnh trong yêu thương.
77- Tuy nhiên, là con cái của
thời đại này, một cách nào đó chúng ta bị ảnh hưởng bởi nền văn
hóa toàn cầu hiện nay, một nền văn hóa trong khi cống hiến cho
chúng ta những thứ giá trị và cơ hội mới th́ đồng thời cũng giới
hạn chúng ta lại, điều kiện hóa chúng ta và cuối cùng tác hại
chúng ta...
78- Hôm nay chúng ta đang thấy
nơi nhiều mục vụ viên, bao gồm cả thành phần nam nữ sống đời tận
hiến tu tŕ, một quan tâm quá độ
về những ǵ là tự do và nghỉ ngơi riêng tư của họ,
một thứ quan tâm dẫn họ đến chỗ thấy công việc của họ chỉ là một
cái ǵ phụ trương đối với đời sống của họ, như thể không thuộc
về cái căn tính của họ. Đồng thời đời sống thiêng liêng trở
thành đồng hóa với một ít việc thực hành đạo đức có thể mang lại
cho họ một thứ thoải mái nào đó nhưng không phấn khích họ gặp gỡ
người khác, tham phần vào thế giới hay có được nhiệt t́nh truyền
bá phúc âm hóa. Cuối cùng người ta có thể nhận thấy nơi nhiều
tác nhân truyền bá phúc âm hóa, cho dù họ có cầu nguyện, một thứ
cá nhân chủ nghĩa nổi nang, một cuộc khủng hoảng về căn tính và
một t́nh trạng nguội lạnh. Đó là ba sự dữ tác động lẫn nhau.
80- Bởi thế các mục vụ viên có
thể rơi vào một thứ chủ nghĩa tương đối,
một thứ tương đối, bất chấp lối sống linh đạo riêng biệt hay
đường lối suy nghĩ của họ, thậm chí c̣n nguy hiểm hơn là thứ
tương đối về tín lư nữa. Nó liên quan đến những quyết định sâu
xa nhất và thâm cung nhất làm nên lối sống của họ. Thứ tương đối
thực hành này là ở chỗ tác hành như thể Thiên Chúa không hiện
hữu, thực hiện những quyết định như thể người nghèo không hiện
hữu, đặt ra những đích điểm như thể người khác không hiện hữu,
hoạt động như thể những ai chưa lănh nhận Phúc Âm không hiện
hữu. Đáng chú ư hơn nữa là thậm chí có một số c̣n minh nhiên xác
tín về tín lư và linh đạo thường rơi vào một thứ lối sống gắn bó
với vấn đề an toàn về tiền bạc, hay với một ước muốn được quyền
lực hay vinh quang trần thế bằng bất cứ giá nào, hơn là hiến
cuộc đời của ḿnh truyền giáo cho người khác. Chúng ta đừng để
cho ḿnh bị tước mất nhiệt t́nh truyền giáo!
82- Vấn đề ở đây không phải bao
giờ cũng là việc hoạt động quá độ, mà là
hoạt động được thực hiện một cách bê
bối tệ hại, không có một tác động thích đáng nào, không
có một linh đạo thấm nhuần nó và làm cho nó trở thành vui thú.
Bởi thế, công việc trở thành nặng nhọc hơn thường t́nh, thậm chí
c̣n dẫn đến chỗ đôi khi yếu đau bệnh nạn nữa. Chẳng những không
phải là một thứ mệt nhọc bằng ḷng và vui vẻ mà là một thứ mệt
nhọc căng thẳng, nặng nề, bất măn và cuối cùng là buông bỏ bất
khả kham. T́nh trạng lạnh cảm về mục vụ này có thể bị gây ra bởi
một số cớ sự. Một số bị rơi vào t́nh trạng này là v́ họ lao ḿnh
vào những dự án không thiết thực và không cảm thấy thỏa măn
trong việc chỉ làm những ǵ họ có lư khả kham. Một số khác bị là
v́ họ thiếu nhẫn nại trong việc chờ đợi cho tiến tŕnh được chín
mùi; họ muốn hết mọi sự phải từ trời rơi xuống. Có những
người bị là v́ họ gắn bó với một số dự án hay những mơ tưởng
thành đạt hăo huyền. Một số người nữa bị là v́ họ mất liên hệ
thực sự với dân chúng và họ quá tha hóa việc làm của họ đến độ
họ quan tâm tới lộ tŕnh của việc làm hơn là tới chính tiến
tŕnh làm việc. Có những người bị rơi vào t́nh trạng lạnh cảm
này v́ họ bất khả đợi chờ; họ muốn làm chủ nhịp sống. Cái ám ảnh
thành đạt tức khắc ngày nay khiến cho thành phần mục vụ viên khó
ḷng chấp nhận bất cứ cái ǵ có vẻ bất đồng, khả bại, chỉ trích,
thập giá.
83- Và v́ thế mà mối đe dọa lớn
nhất trong tất cả mọi thứ đe dọa đang từ từ được h́nh thành, đó
là "chủ nghĩa thực dụng xám nơi
cuộc sống hằng ngày của Giáo Hội, trong đó tất cả đều tiến hành
có vẻ b́nh thường, nhưng thực tế cho thấy th́ đức tin đang bị
hao ṃn đi và bị thoái hóa thành thiển cận" (J. Ratzinger,
The Current Situation of Faith and Theology. Conference given at
the Meeting of Presidents of Latin American Episcopal
Commissions for the Doctrine of the Faith, Guadalajara, Mexico,
1996. Translation in L’Osservatore Romano, English Language
Edition, 6 November 1996. Cf. Fifth General Conference of the
Latin American and Caribbean Bishops, Aparecida Document, 29
June 2007, 12). Một thứ tâm lư hầm mộ như thế đang phát
triển và từ từ biến thành phần Kitô hữu trở nên những bộ xương
khô ở trong một bảo tàng viện.
84- Niềm vui Phúc Âm là những ǵ
không thể bị lấy đi khỏi chúng ta bởi bất cứ ai hay bởi bất cứ
sự ǵ (cf Gioan 16:22). Những sự dữ của thế giới này - và những
sự dữ của Giáo Hội - không được trở thành những viện dẫn châm
chước cho t́nh trạng suy giảm việc dấn thân của chúng ta và
nhiệt t́nh của chúng ta....
85- Một trong những khuynh hướng
trầm trọng hơn nữa đang dập tắt sự can trường và ḷng nhiệt
thành đó là một thứ chủ bại thuyết,
những ǵ biến chúng ta thành những kẻ bi quan yếm thế than van
và vỡ mộng, "những kẻ cáu kỉnh"... Cuộc vinh thắng của Kitô giáo
bao giờ cũng là một cây thập tự giá, mà đồng thời cũng là
một ngọn cờ chiến thắng xuất phát từ nỗi dịu dàng hăng say phản
lại các cuộc tấn công của sự dữ. Cái tinh thần chủ bại xấu xa
này là anh em với khuynh hướng phân rẽ lúc ra khỏi cỏ ḷng trước
thời điểm của nó; nó là hoa trái của một thứ lo âu qui ngă thiếu
tin tưởng.
86- Ở một số nơi, đang hiển
nhiên diễn ra một thứ "sa mạc hóa" đời
sống thiêng liêng (a spiritual “desertification”), như là
hậu quả của những nỗ lực nơi một số xă hội muốn dựng xây phi
Thiên Chúa hay muốn loại trừ các thứ gốc gác Kitô giáo của ḿnh.
Ở những nơi đó, "thế giới Kitô giáo đang trở nên cằn cỗi, và tự
trở thành kiệt quệ như là một mảnh đất được khai thác quá cỡ mà
biến thành sa mạc" (J.H. Newman, Letter of 26 January 1833,
in The Letters and Diaries of John Henry Newman, vol. III,
Oxford, 1979, 204). Ở những xứ sở khác, t́nh trạng dữ dội
chống Kitô giáo đang bắt Kitô hữu phải che giấu đức tin của ḿnh
nơi quê hương yêu dấu của họ. Đó là một thứ sa mạc nhức nhối
khác. Thế nhưng gia đ́nh và công sở cũng có thể trở thành một
nơi khô cằn mà đáng lẽ đức tin cần phải được bảo tŕ và truyền
đạt. Tuy nhiên, "bắt đầu từ chính cảm nghiệm về sa mạc ấy, từ
cái trống rỗng ấy, mà chúng ta có thể lại khám phá được niềm vui
của việc tin tưởng, khám phá thấy tầm vóc quan trọng của việc
tin tưởng này đối với chúng ta, nam cũng như nữ. Trong sa mạc
chúng ta khám phá ra giá trị của những ǵ là thiết yếu để sống;
thế nên, trong thế giới hôm nay có muôn vàn dấu hiệu, thường
được thể hiện một cách ngấm ngầm hay tiệc cực, về nỗi khát khao
Thiên Chúa, khát khao ư nghĩa tối hậu của cuộc đời. Và ở trong
sa mạc, dân của đức tin là thành phần cần thiết, thành phần nhờ
gương sống của họ, chỉ đường dẫn lối đến Đất Hứa và giữ cho niềm
hy vọng sống động" [Benedict XVI,
Homily at Mass
for the Opening of the Year of Faith (11 October 2012): AAS 104 (2012), 881]. Trong những hoàn cảnh
ấy, chúng ta được kêu gọi trở thành những nguồn nước sự sống để
cho người khác uống. Có những lúc điều này trở thành một thánh
giá nặng nề, thế nhưng chính từ cây thánh giá này, từ cạnh sườn
của Người, mà Chúa của chúng ta đă hiến ḿnh cho chúng ta như
một nguồn nước sự sống. Chúng ta đừng để cho ḿnh bị tước mất
nhiệt t́nh truyền giáo!
93-
Tính chất trần tục thêng liêng (spiritual worldliness),
một tính chất mà ngấm ngầm bề ngoài th́ có vẻ đạo hạnh và thậm
chí yêu mến Giáo Hội, là ở chỗ không t́m kiếm vinh quang của
Chúa mà là vinh quang trần thế và mối phúc hạnh tư riêng. Nó là
những ǵ Chúa quở trách những người Pharisiêu: "Làm sao quí vị
có thể tin tưởng được khi quí vị chấp nhận vinh quang từ nhau mà
không t́m kiếm vinh quang xuất phát từ Vị Thiên Chúa duy nhất" (Gioan
5:44). Nó là một đường lối xảo quyệt trong việc t́m kiếm "tự lợi
của ḿnh chứ không phải của Đức Giêsu Kitô" (Phil 2:21). Nó mặc
nhiều h́nh thức, tùy theo loại người và nhóm người mà nó thâm
nhập. V́ nó được dựa vào những h́nh dáng bề ngoài được cẩn thận
vun trồng mà nó bao giờ cũng liên quan đến tội lỗi ngoại diện;
theo bề ngoài th́ mọi sự diễn ra như thể đúng như vậy. Thế nhưng
nếu nó thấm nhiễm vào Giáo Hội th́ "nó sẽ vô cùng tai hại hơn
bất cứ tính chất trần tục nào khác chỉ thuần luân lư" (H. De
Lubac, Méditation sur l’Église, Paris, 1968, 321).
94- Tính chất trần tục này có
thể bừng tỏa bằng hai cách thức liên hệ mật thiết với nhau. Cách
thứ nhất ở nơi cái hấp dẫn của thuyết
bất khả thần tri (gnosticism), một đức tin thuần chủ quan
chỉ có một quan tâm duy nhất đó là cái cảm nghiệm nào đó hay
một số ư nghĩ hay một chút tín liệu nào đó mang ư nghĩa an ủi và
soi sáng, nhưng thực sự lại là những ǵ giam hăm con người ở nơi
những ư nghĩ và cảm xúc của riêng họ. Cách khác ở nơi thuyết
the self-absorbed promethean
neopelagianism của những ai trên hết chỉ biết tin vào
quyền lực của họ và cảm thấy ḿnh trổi vượt hơn người khác v́ họ
tuân giữ một số qui luật nào đó hay trung thành một cách dứt
khoát với một mẫu Công giáo đặc biệt nào đó trong quá khứ.
95- Cái tính chất trần tục xảo
quyệt này là những ǵ tỏ tường ở nơi một số thái độ có vẻ đảo
nghịch nhưng tất cả đều có chung một
chiêu bài "chiếm chỗ của Giáo Hội". Nơi một số người
chúng ta thấy một thứ bận tâm một cách phô trương đến phụng vụ,
đến tín lư cũng như đến thế giá của Giáo Hội, nhưng lại không
quan tâm ǵ đến chuyện Phúc Âm có thực sự ảnh hưởng đến dân Chúa
cũng như đến các nhu cầu cụ thể của thời hiện đại. Theo chiều
hướng như thế th́ đời sống của Giáo Hội trở thành một thứ đồ vật
quí ở trong bảo tàng viện hay một cái ǵ đó thuộc tài sản của
một thiểu số ưu đăi. Nơi những người khác th́ tính chất trần tục
thiêng liêng này ẩn nấp ở đằng sau một thứ say mê chiếm đoạt về
xă hội và chính trị, hay một thứ kiêu hănh về khả năng của họ
trong việc điều hành những vụ việc thực tế, hoặc một thứ ám ảnh
với các chương tŕnh tự biên tự diễn. Nó cũng có thể chuyển
thành một mối quan tâm có thể thấy được, thành một cuộc sống xă
hội đầy những bề ngoài, hội họp, tiệc tùng. Nó cũng có thể dẫn
đến một thứ tâm thức mậu dịch, dính chặt với việc hành chính,
thống kê, phác định và thẩm định mà lợi ích chính yếu của nó
không phải là dân Chúa nhưng là một Giáo Hội như là một thứ cơ
cấu tổ chức. Dấu tích của Đức Kitô, nhập thể, tử giá và phục
sinh, không c̣n nữa; mà là những nhóm khép kín và thiểu số ưu tú
được thành h́nh, không có một nỗ lực nào dấn thân t́m kiếm những
ai xa cách hay vô vàn đám đông đang khát vọng Chúa Kitô. Nhiệt
t́nh phúc âm được thay thế bằng những ǵ là khoái lạc trống rỗng
của ḷng tự măn và mê đắm bản thân.
96- Đường lối suy nghĩ này cũng
nuôi dưỡng cả cái vinh quang hư ảo
của những ai chấp nhận một chút quyền lực và thà làm
một vị tướng chỉ huy một đạo binh bại trận hơn là đóng vai một
tên binh nh́ quèn ở một đơn vị tiếp tục chiến đấu. Biết bao
nhiêu lần chúng ta mơ ước những dự án tông đồ lớn lao, được phác
họa một cách hết sức tinh vi kỹ lưỡng, giống như những viên
tướng bại trận! Thế nhưng đó lại là những ǵ chối bỏ lịch sử của
chúng ta như là một Giáo Hội, một Giáo Hội vinh quang chính v́
có một lịch sử hy sinh, một lịch sử hy vọng và chiến đấu hằng
ngày, một lịch sử của những cuộc sống dấn thân phục vụ và trung
thành hoạt động, cho dù mệt nhọc đến đâu, v́ tất cả mọi công
việc đều làm đổ ra "mồ hôi trán của chúng ta".
2-
Niềm Vui Phúc Âm - một sứ vụ bất khả thiếu và bất khả châm chước
của Kitô hữu
(Chương Ba:
Việc loan báo Phúc Âm;
Mục I: Toàn Thể Dân Chúa loan báo Phúc Âm;
Mục II: Bài
Giảng - từ đoạn 135.
Biệt chú:
dường như chưa có một văn
kiện nào của Đức Thánh Cha từ trước tới nay lại nói vừa dài vừa
kỹ về vấn đề Bài Giảng và Soạn Giảng như trong Tông Huấn này,
một vấn đề liên quan đến cả giảng thuyết viên lẫn cách thức
giảng, bao gồm cả ngôn từ và hành vi cử chỉ v.v. Có những chỗ
liên quan đến giảng thuyết viên, như ở dưới đây, trong phần đầu
về tác nhân truyền bá phúc âm hóa, và có những chỗ liên quan đến
chính bài giảng và soạn giảng là những ǵ thuộc về đường lối mới
truyền bá phúc âm hóa thuộc phần thứ hai)
111- Việc truyền bá
phúc âm hóa
là công việc của Giáo Hội. Giáo Hội, với tư cách là một tác nhân
của việc truyền bá phúc âm hóa, không phải chỉ là một tổ chức về
cơ cấu và phẩm trật; trước hết và trên hết Giáo Hội là một dân
đang tiến bước trên con đường hành tŕnh về với Thiên Chúa...
112- Ơn cứu độ Thiên
Chúa cống hiến cho chúng ta là công cuộc của t́nh Ngài xót
thương...
114- ... Giáo Hội
cần phải trở thành một nơi của t́nh thương được tự do trao tặng,
là nơi hết mọi người đều cảm thấy được đón nhận, yêu thương, tha
thứ và phấn khích để sống một đời sống tốt lành của Phúc Âm.
120- Bởi phép rửa
của ḿnh, tất cả mọi phần tử thuộc Dân Chúa đă trở thành môn đệ
thừa sai (cf Mt 28:19). Tất cả mọi người đă lănh nhận phép rửa,
ở bất cứ vị thế nào trong Giáo Hội hay ở bất cứ tầm mức kiến
thức nào về đức tin của ḿnh, đều là tác nhân của việc truyền bá
phúc âm hóa, và thật là thiếu sót khi phác họa dự án truyền bá
phúc âm hóa được thực hiện bởi các chuyên viên trong khi phần
tín hữu c̣n lại chỉ là thành phần lănh nhận thụ động. Việc tân
truyền bá phúc âm hóa cần đến chuyện cá nhân tham gia về phía
mỗi một người đă lănh nhận phép rửa.... Hết mọi Kitô hữu đều là
một vị thừa sai ở chỗ họ đă gặp gỡ t́nh yêu của Thiên Chúa nơi
Đức Giêsu Kitô: chúng ta không c̣n nói rằng chúng ta là 'môn đệ'
và là 'thừa sai', trái lại, chúng ta bao giờ cũng là 'môn đề
thừa sai'. Nếu chúng ta vẫn chưa chịu th́ hăy quan sát những môn đệ
tiên khởi, thành phần ngay sau khi gặp gỡ ánh mắt của Chúa Giêsu
liền hân hoan đi loan báo về Người: 'Chúng tôi đă gặp Đấng Thiên
Sai' (Gioan 1;41). Người phụ nữ Samaritanô đă trở thành một nhà
thừa sai ngay sau khi nói chuyện với Chúa Giêsu, và nhiều người
Samaria đă tin vào Người 'v́ chứng từ của người đàn bà này' (Gioan
4:39). Thánh Phaolô cũng thế, sau cuộc khi ngài gặp gỡ Đức Giêsu
Kitô, 'liền loan truyền Chúa Giêsu' (Acts 9:20;cf 22:6-21). Vậy
th́ chúng ta c̣n chờ đợi ǵ chứ?
121- T́nh trạng chưa trọn lành không được trở thành lư do từ chối;
trái lại, sứ vụ truyền giáo là một kích tố liên tục không cho
phép được tiếp tục sống tầm thường, trái lại phải tiếp tục tăng
trưởng. Chứng từ đức tin mà mỗi một Kitô hữu được kêu gọi cống
hiến dẫn chúng ta đến chỗ cùng với Thánh Phaolô mà rằng: 'Không
phải tôi đă đạt tới điều ấy hay đă trọn hảo; thế nhưng tôi đang
theo đuổi để chiếm lấy nó, v́ Đức Giêsu Kitô đă biến tôi thành
của Người' (Phil 3:12-13).
127- ... Là một người môn đệ có nghĩa là liên lỉ sẵn sàng mang t́nh
yêu thương của Chúa Giêsu đến cho người khác, và điều này có thể
xẩy ra bất ngờ và ở bất cứ nơi đâu: trên đường phố, ở công viên
thành phố, trong khi làm việc, trong một cuộc hành tŕnh.
135- ... Bài giảng là tiêu chuẩn thẩm định một vị mục tử có gần gũi
và với dân chúng và có khả năng truyền đạt cho dân chúng hay
chăng....
145- ... Một vị giảng thuyết không soạn dọn th́ chẳng có ǵ là "thiêng
liêng"; họ không trung thực và vô trách nhiệm với các tặng ân đă
lănh nhận.
149- Vị giảng thuyết "trước hết cần phải phát triển tính chất thật
quen thuộc riêng tư với lời Chúa. Kiến thức về những khía cạnh
ngôn ngữ học hay chú giải cho dù cần thiết vẫn không đủ... "Mức
độ thánh thiện hơn kém của thừa tác viên mới có tác dụng thực sự
nơi việc loan truyền lời Chúa" [John
Paul II, Post-Synodal Apostolic Exhortation
Pastores Dabo Vobis
(25 March 1992), 25: AAS 84 (1992), 696].... Các bài
đọc Chúa Nhật sẽ tỏa rạng hết sức rạng ngời nơi tâm can của tín
hữu nếu trước hết chúng diễn ra như thế ở tâm hồn của vị mục tử.
150- Ai muốn giảng dạy th́ cần phải là người đầu tiên để cho lời
Chúa sâu xa tác động ḿnh và để cho lời Ngài trở thành hiện thực
trong đời sống hằng ngày của họ. Có thế th́ việc giảng dạy mới
nhất trí nơi hoạt động này, một việc giảng dạy rất mạnh mẽ và
hiệu quả, đó là "truyền đạt cho người khác những ǵ ḿnh đă
chiêm ngắm" (Saint Thomas Aquinas, S. Th. II-II, q. 188,
a. 6.). V́ tất cả những lư do đó mà trước khi soạn dọn những ǵ
chúng ta thực sự nói khi giảng dạy, chúng ta cần để cho ḿnh
được thấm nhiễm những lời cũng sẽ thấm nhiễm người khác, v́ nó
là lời sống động và linh động, như một lươi gươm "xuyên cách hồn
thiêng với tâm linh, xương tủy, và thấy rơ được những ư nghĩ và
ư hướng của tâm can" (Heb 4:12).
151- Nếu họ không
có giờ để cởi mở nghe lời Chúa, nếu họ không để cho lời Chúa
chạm đến đời sống của họ, thách đố họ, thúc đẩy họ, và nếu họ
không dành giờ để cầu nguyện theo lời Chúa, th́ họ thực sự sẽ
trở thành một ngụy ngôn sứ, một thứ lường gạt, một kẻ mạo danh
nông cạn. Thế nhưng, bằng việc nh́n nhận t́nh trạng bần cùng của
ḿnh và mong muốn gia tăng trong việc dấn thân, th́ họ bao giờ
cũng có thể bỏ ḿnh cho Chúa Kitô, lập lại lời của Thánh Phêrô:
"Tôi chẳng có vàng bạc nhưng cái tôi có th́ tôi hiến tặng cho
anh" (Acts 3:6). Chúa muốn sử dụng chúng ta như là những con
người sống động, tự do và sáng tạo, để cho lời của Người tiến
vào tâm hồn của chúng ta trước khi truyền đạt sang cho người
khác. Sứ điệp của Chúa Kitô cần phải thực sự thẩm thấu và chiếm
hữu vị giảng thuyết, không phải chỉ về tri thức mà là toàn thể
con người của họ.
153- Trước nhan Thiên Chúa, trong trầm tư xem bài đọc, cần phải đặt
vấn đề, chẳng hạn, "Lạy Chúa, bài đọc này nói ǵ
với con đây? Qua bài
đọc này Chúa muốn đời sống của con thay đổi ra sao? Cái ǵ trong
bài đọc làm tôi cảm thấy không ổn? Tại sao tôi không hào hứng ǵ
nơi bài đọc này? Hay cũng có thể đặt vấn đề: Tôi cảm thấy hứng
thú ǵ ở bài đọc ấy? Lời Chúa tác động nơi tôi những ǵ? Đâu là
cái thu hút tôi? Tại sao nó lại lôi cuốn tôi?" Khi chúng ta cố
gắng lắng nghe Chúa th́ những chước cám dỗ thường xẩy ra. Một
trong các chước cám dỗ đó là chỉ cảm thấy bất ổn hay nặng nề và
muốn tránh né đi. Một chước cám dỗ thông thường nữa đó là nghĩ
về ư nghĩa của bài đọc là để cho người khác, và v́ vậy không áp
dụng nó vào đời sống của chúng ta. Cũng có thể xẩy ra trường hợp
là chúng ta t́m cách xóa bỏ ư nghĩa rơ ràng của bài đọc. Hay
chúng ta có thể ngẫm nghĩ rằng Thiên Chúa ḍi hỏi chúng ta quá
nhiều, yêu cầu một quyết định mà chúng ta chưa sẵn sàng thực
hiện. Điều này dẫn nhiều người đến chỗ thôi không thích gặp gỡ
lời Chúa nữa; thế nhưng như vậy có nghĩa là chúng ta quên rằng
không ai nhẫn nại bằng Thiên Chúa là Cha của chúng ta, không ai
thông cảm và muốn đợi chờ hơn Ngài. Ngài luôn mời gọi chúng ta
hăy bước từng bước một, chứ không đ̣i hỏi một đáp ứng trọn vẹn
nếu chúng ta chưa sẵn sàng. Ngài chỉ yêu cầu chúng ta thành thật
nh́n vào cuộc đời của chúng ta và chân t́nh ra tŕnh diện trước
nhan Ngài, và chúng ta muốn tiếp tục tăng triển, xin Ngài những
ǵ chính chúng ta chưa thể đạt được.
154- Một vị giảng dạy cần phải chiêm niệm lời Chúa, nhưng đồng thời
cũng phải chiêm ngắm con người nữa... Họ cần phải làm sao có thể
liên kết sứ điệp của một bài đọc thánh kinh với hoàn cảnh của
con người, với một thứ cảm nghiệm cần đến ánh sáng của lời Chúa...
Những ǵ chúng ta cần t́m kiếm đó là "những ǵ Chúa cần phải nói
ở trường hợp đặc biệt này nọ" [Paul VI, Apostolic Exhortation
Evangelii Nuntiandi (8 December 1975), 43: AAS 68
(1976), 33.]
155- ... Chúng ta cũng nên nhớ rằng chúng ta không bao giờ trả lời
cho những vấn nạn không ai hỏi tới. Hay được cho rằng thích hợp
để nói về các tin tức mới nhất hầu gây hứng cho dân chúng; chúng
ta đă có các chương tŕnh truyền h́nh về vấn đề ấy rồi. Tuy
nhiên, vẫn có thể bắt đầu bằng một số sự kiện hay truyện tṛ để
lời Chúa có thể âm vang một cách mạnh mẽ nơi việc kêu gọi hoán
cải của lời này, kêu gọi tôn thờ, kêu gọi dấn thân cho t́nh
huynh đệ và việc phục vụ v.v. Tuy nhiên, bao giờ cũng có một số
người muốn lắng nghe những nhận định của vị giảng thuyết về các
sự việc đang xẩy ra, trong khi đó họ lại không muốn ḿnh bị rắc
rối.
3-
Niềm Vui Phúc Âm - một sứ vụ cần
phải được tràn đầy Thần Linh mới có thể hoàn thành
(Chương Năm: Thành
phần truyền bá phúc âm hóa tràn đầy Thần Linh;
Mục I: Những lư do cho một động
lực truyền giáo mới)
259- Thành phần
truyền bá phúc âm hóa tràn đầy thần linh nghĩa là thành phần
truyền bá phúc âm hóa hiên ngang cởi mở cho hoạt động của Thánh
Linh ... Chúa Giêsu muốn thành phần truyền bá phúc âm hóa loan
báo tin mừng chẳng những bằng lời nói mà trên hết bằng một đời
sống được biến đổi bởi sự hiện diện của Thiên Chúa.
264- Lư do chính yếu
cho việc truyền bá phúc âm hóa đó là t́nh yêu của Chúa Giêsu mà
chúng ta đă lănh nhận, một cảm nghiệm về ơn cứu độ là những ǵ
thôi thúc chúng ta càng yêu mến Người hơn nữa....
265- Tất cả đời sống
của Chúa Giêsu, đường lối Người đối xứ với người nghèo, các hành
động của Người, tính chất nguyên tuyền của Người, các tác động
quảng đại giản dị hằng ngày của Người, và sau cùng là việc Người
hoàn toàn hy hiến bản thân ḿnh, là những ǵ quí báu và cho thấy
mầu nhiệm sự sống thần linh của Người... "Nhà truyền giáo tin
tưởng rằng, nhờ hoạt động của Thần Linh, vẫn hiện hữu nơi cá
nhân cũng như dân chúng một niềm mong đợi, cho dù là niềm mong
đợi thiếu ư thức, trong việc nhận biết sự thật về Thiên Chúa, và
về cách thức làm sao chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và sự
chết. Ḷng nhiệt thành của nhà truyền giáo trong việc loan
truyền Chúa Kitô xuất phát từ niềm xác tín rằng Người đang đáp
ứng niềm mong đợi ấy" [John Paul II, Encyclical Letter
Redemptoris Missio (7 December 1990), 45: AAS 83 (1991),
292.]
268- ... Để trở
thành những viên truyền bá phúc âm hóa các linh hồn, chúng ta
cần khai triển một thứ vị giác thiêng liêng về việc gần với đời
sống của dân chúng cũng như cần phải khám phá ra rằng đó chính
việc làm này là một nguồn vui hơn nữa. Sứ vụ truyền giáo vừa là
một thứ say mê đối với Chúa Giêsu và là một thứ say mê đối với
dân của Người...
269- ... Chính Chúa
Giêsu là mô phạm của phương pháp truyền giáo này, một phương
pháp đưa chúng ta đến chính tâm can của dân chúng. Tốt đẹp biết
bao khi chúng ta chiêm ngưỡng thấy sự gần gũi Người tỏ ra đối
với hết mọi người! Khi nói với ai th́ Người ưu ái quan tâm nh́n
vào mắt của họ: "Chúa Giêsu tŕu mến nh́n anh ta, tỏ ḷng ưu ái
với anh ta" (Mk 10:21) ... Được đánh động bởi gương của Người,
chúng ta tiến vào tầng lớp xă hội một cách trọn vẹn, bằng cách
chia sẻ với đời sống của tất cả mọi người, bằng việc lắng nghe
các quan tâm của họ, bằng việc giúp đỡ các nhu cầu về thể lư và
thiêng liêng của họ, bằng việc vui với người vui khóc với người
khóc; chung tay góp sức với nhau chúng ta dấn thân xây dựng một
thế giới mới. ...
270- Đôi khi chúng
ta thiên về một loại Kitô hữu giữ trong ṿng tay ḿnh các thương
tích của Chúa. Thế nhưng Chúa Giêsu lại muốn chúng ta đụng chạm
tới nỗi khốn cùng của nhân loại, đụng chạm tới xác thịt khổ đau
của người khác. Người hy vọng rằng chúng ta sẽ thôi t́m kiếm các
thứ hốc tường chung hay riêng là nơi có thể che khuất chúng ta
khỏi vũng xoáy bất hạnh của con người, thay vào đó, tiến vào
thực tại của đời sống dân chúng và biết được cái quyền lực của
sự dịu dàng. Bất cứ khi nào chúng ta làm như thế th́ đời sống
của chúng ta trở thành phức hợp diệu vợi và chúng ta mạnh mẽ cảm
thấy đâu là quần chúng, thuộc về quần chúng.
272- ... Nếu chúng
ta thăng tiến trên đời sống thiêng liêng, th́ chúng ta cần phải
liên lỉ là thành phần thừa sai. Công việc truyền bá phúc âm hóa
là những ǵ làm phong phú trí khôn và cơi ḷng; nó làm cho chúng
ta nhậy cảm mỗi ngày một hơn với các hoạt động của Thánh Linh,
và nó mang chúng ta vượt ra ngoài những cấu trúc thiêng liêng
hữu hạn của chúng ta ...
273- Sứ vụ truyền
giáo của tôi nơi cơi ḷng của dân chúng không phải chỉ là một
phần đời của tôi hay chỉ là một thứ phù hiệu tôi có thể tháo cởi;
nó không phải là một "thứ thêm thắt" hay chỉ là một lúc nào đó
trong đời. Trái lại, nó là một cái ǵ đó tôi không thể nào làm
bật gốc nó khỏi con người của tôi mà không hủy hoại chính bản
thân tôi. Tôi là một sứ vụ
(I am a mission)
ở trên mặt đất này; đó là lư do tại sao tôi ở trên thế gian này...
275- Một số người
không dấn thân cho sứ vụ truyền giáo là v́ họ nghĩ rằng chẳng có
ǵ sẽ đổi thay đâu nên cố gắng làm ǵ cho mất công. Họ nghĩ rằng:
"Tại sao tôi lại phải tự bỏ đi những thoải mái và vui thú nếu
tôi không thấy bất cứ một thành quả đáng kể nào chứ?" Thái độ
này khiến họ không thể nào trở thành một nhà truyền giáo. Nó chỉ
là một thứ che đậy độc địa để bám víu lấy những ǵ là thoải mái,
biếng nhác, những bất măn mơ hồ và cái vị kỷ trống rỗng. Nó là
một thái dộ tự hủy, bởi v́ "con người không thể sống mà không hy
vọng: đời sống sẽ trở nên vô nghĩa và bất khả chịu đựng" (Second
Special Assembly for Europe of the Synod of Bishops, Final
Message, 1: L’Osservatore Romano, Weekly English-language
edition, 27 October 1999, 5). ....
276-
Cuộc phục sinh của Chúa Kitô không phải là một biến cố thuộc về
quá khứ; nó chất chứa một quyền lực sống động đă thấm nhập vào
thế giới này. Ở nơi đâu mà tất cả mọi sự dường như chết đi th́
các dấu hiệu của sự phục sinh đột nhiên bừng nở. Nó là một thứ
quyền lực bất khả chống cưỡng. Thường th́ dường như Thiên Chúa
không hiện hữu, ở chỗ tất cả mọi sự xẩy ra chung quanh ḿnh
chúng ta thầy toàn là bất công, sự dữ, lạnh lùng và tàn ác. Thế
nhưng cũng rất thật nữa đó là ở giữa tăm tối th́ một cái ǵ đó
mới mẻ luôn xuất hiện cho đời, để rồi không sớm th́ muộn sẽ sinh
hoa kết trái. Sự sống nẩy lên ở một mảnh đất bị phá trơ trụi,
một cách gan ĺ nhưng bất khả bại. Cho dù các thứ có đen tối đến
đâu chăng nữa th́ sự thiện bao giờ cũng tái diễn và lan tràn. Vẻ
mỹ lệ được tái sinh từng ngày trên thế giới chúng ta đây, nó
được biến đổi vươn lên qua các cơn băo tố lịch sử. Các thứ giá
trị bao giờ cũng có khuynh hướng tái diễn dưới những dáng vẻ mới,
và nhân loại từ thời này đến thời kia đă vươn lên khỏi những
t́nh trạng dường như đă bị tàn tạ. Quyền lực của phục sinh là
thế đó, và tất cả những ai truyền bá phúc âm hóa đều là dụng cụ
của quyền lực ấy.
280- Việc giữ làm
sao cho nhiệt t́nh truyền giáo của chúng ta sống động cần phải
mạnh mẽ tin tưởng vào Thánh Linh, v́ chính Ngài là Đấng "giúp
chúng ta nơi nỗi yếu hèn của chúng ta" (Rm 8:26). Thế nhưng ḷng
tin tưởng lớn lao này cần phải được nuôi dưỡng, và v́ thế chúng
ta cần liên lỉ kêu xin Thần Linh. Ngài có thể chữa lành bất cứ
những ǵ khiến chúng ta suy yếu đi nhiệt t́nh truyền giáo. Quả
thực niềm tin tưởng vào đấng vô h́nh này có thể khiến cho chúng
ta cảm thấy lạc hướng làm sao ấy: nó giống như bị nhận ch́m
xuống thẳm sâu và không biết đâu là những ǵ chúng ta t́m kiếm.
Chính tôi cũng thường cảm nghiệm thấy điều này. Tuy nhiên, không
c̣n tự do nào hơn là thứ tự do để cho ḿnh được hướng dẫn bởi
Thánh Linh, bỏ đi cái nỗ lực phác họa và kiểm soát hết mọi sự
từng ly từng tí, trái lại, hăy để cho Ngài soi sáng, hướng dẫn
và điều khiển chúng ta, dẫn chúng ta đến bất cứ nơi nào Ngài
muốn. Thánh Linh biết rơ những ǵ cần thiết ở mọi lúc và mọi nơi.
Đó là ư nghĩa của việc diệu huyền trổ sinh hoa trái vậy!
285- Chúa Giêsu lưu
lại cho chúng ta Mẹ của Người để trở nên Mẹ của chúng ta. Chỉ
sau khi làm thế Chúa Giêsu mới phán "mọi sự đă hoàn tất" (Jn
19:28). Dước chân thập tự giá, vào thời điểm tột đỉnh của việc
tân tạo, Chúa Kitô đă dẫn chúng ta đến với Mẹ Maria. Người mang
chúng ta lại cùng Mẹ v́ Người không muốn chúng ta hành tŕnh mà
lại thiếu mẹ, và dân của chúng ta đọc thấy nơi h́nh ảnh mẫu thân
này tất cả mọi mầu nhiệm của Phúc Âm. Chúa không muốn xa rời
Giáo Hội mà lại thiếu vắng h́nh ảnh của vai tṛ người nữ này. Mẹ
Maria, vị đă mang Người vào trần gian bằng một đức tin cao cả,
cũng đồng hành với "phần gịng dơi c̣n lại của ḿnh, những người
tuân giữ mệnh lệnh của Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu"
(Rev 12:17). Mối liên hệ chặt chẽ giữa Mẹ Maria, Giáo Hội và
từng phần tử tín hữu, căn cứ vào sự kiện là mỗi phần hạ sinh
Chúa Giêsu theo kiểu cách của ḿnh, đă được Chân Phước Isaac
Stella tuyệt vời diễn tả như sau: "Trong các Sách Thánh được
linh ứng, những ǵ nói theo nghĩa phổ quát về người mẹ đồng
trinh là Giáo Hội th́ cũng được hiểu theo nghĩa cá thể về Trinh
Nữ Maria... Một cách nào đó hết mọi Kitô hữu cũng được tin là
hôn thê của lời Chúa, mẹ của Đức Kitô, nữ rử và chị em của Người,
vừa trinh trắng vừa sinh sản... Chúa Kitô chín tháng đă ở trong
nhà tạm là cung dạ của Mẹ Maria. Người cư ngụ cho đến tận thế
nơi nhà tạm là đức tin của Giáo Hội. Người sẽ cư ngụ muôn đời
nơi sự nhận biết và t́nh yêu của từng linh hồn tín hữu" (Isaac
of Stella, Sermo 51: PL 194, 1863, 1865).
288- Có một "kiểu cách" Thánh Mẫu cho công cuộc truyền bá phúc âm
hóa của Giáo Hội. Bất cứ ở đâu chúng ta nh́n vào Mẹ Maria, chúng
ta tiến đến chỗ tin tưởng một lần nữa vào bản chất cách mạng của
t́nh yêu và sự dịu dàng. Nơi Mẹ, chúng ta thấy rằng ḷng khiêm
nhượng và nỗi dịu dàng không phải là các nhân đức của người hèn
yếu mà là của kẻ mạnh, thành phần không cần phải đối xử tàn tệ
với người khác để tỏ ra quan trọng hóa bản thân ḿnh. Khi chiêm
ngưỡng Mẹ Maria, chúng ta nhận thấy rằng Mẹ là người đă chúc
tụng Thiên Chúa v́ Ngài "hạ kẻ quyền thế xuống khỏi ngai ṭa của
họ" và "biến người giầu có trở thành tay không" (Lk 1:52-53)
cũng là Đấng mang lại hơi ấm gia đ́nh cho việc theo đuổi công lư
của chúng ta. Mẹ cũng là vị cẩn thận lưu giữ "tất cả những sự ấy
mà suy niệm chúng trong ḷng" (Lk 2:19). Mẹ Maria có thể nhận ra
những dấu vết Thần Linh của Thiên Chúa nơi các biến cố lớn nhỏ.
Mẹ liên lỉ chiêm ngưỡng mầu nhiệm của Thiên Chúa trên thế gian
này, trong lịch sử loài người và trong đời sống hằng ngày của
chúng ta. Mẹ là người nữ của nguyện cầu và làm việc ở Nazarét,
và Mẹ cũng là Đức Bà Cứu Giúp, vị đă "vội vă" bỏ nhà lên đường (Lk
1:39) để phục vụ người khác. Việc tác động lẫn nhau giữa công lư
và nỗi dịu dàng, giữa chiêm niệm và mối quan tâm cho kẻ khác, là
những ǵ khiến cộng đồng giáo hội nh́n lên Mẹ Maria như là một
mẫu gương của việc truyền bá phúc âm hóa. Chúng ta van xin lời
chuyển cầu từ mẫu của Mẹ để Giáo Hội được trở nên một ngôi nhà
cho nhiều người, một người mẹ cho tất cả mọi người, và để mở
đường cho việc hạ sinh của một thế giới mới. Chính Chúa Kitô
Phục Sinh là Đấng đă nói với chúng ta, bằng một quyền lực làm
cho chúng ta tràn đầy tin tưởng và niềm hy vọng không lay chuyển
rằng: "Này đây, Ta canh tân tất cả mọi sự" (Rev 21:5).
Phần Hai
Đường
lối mới loan truyền
Niềm Vui Phúc Âm
Như câu đầu tiên và đoạn đầu tiên của Tông Huấn Niềm vui Phúc Âm
cho thấy nội dung chính yếu của toàn bản văn liên quan tới cả 1-
thành phần tác nhân truyền bá phúc âm hóa: "Kitô hữu trung thành
khai mở một chương mới của việc truyền bá phúc âm hóa mang đặc
tính của niềm vui ấy"; lẫn 2- các chủ trương và công cuộc thực
hiện việc truyền bá phúc âm hóa: "những đường lối mới cho cuộc
hành tŕnh tương lai của Giáo Hội".
Nếu đối với tác nhân thực hiện việc truyền bá phúc âm hóa cần phải
hội đủ điều kiện tiên quyết và tối cần bất khả thiếu và bất khả
châm chước đó là Niềm Vui Phúc Âm: "Niềm Vui Phúc Âm tràn đầy
tâm hồn và đời sống của tất cả những ai được gặp gỡ Chúa Giêsu",
th́ "những đường lối mới cho cuộc hành tŕnh tương lai của Giáo
Hội", liên quan đến chính sứ vụ và công cuộc truyền bá phúc âm
hóa, cũng phải phản ảnh Niềm Vui Phúc Âm này mới thật sự có thể
sinh hoa kết trái trong một thời đại quá tân tiến với đầy những
biến đổi và biến động ngoài dự tưởng hiện nay về tâm thức cũng
như về văn hóa, kinh tế và xă hội.
Đó là lư do đường lối mới để Giáo Hội có thể thực hiện sứ vụ và
công cuộc truyền bá phúc âm hóa cho thích đáng và hiệu năng liên
quan tới những lănh vực sau đây:
Trước hết là vấn đề đối nội, một vấn đề liên quan tới chủ trương
then chốt đó là tất cả mọi sự trong Giáo Hội, bao gồm chính hoạt động
mục vụ của Giáo Hội, phải làm sao nhất trí theo chiều hướng
truyền giáo, và v́ thế nên, về việc thực hiện, tất cả mọi sự
phải làm sao có tính cách truyền giáo và nhắm đến việc truyền
giáo, nhờ đó mà cơ cấu tổ chức của Giáo Hội và toàn bộ tín lư
của Giáo Hội mới đạt được ư nghĩa và giá trị của ḿnh đúng như
dự án của Thiên Chúa và cốt lơi của sứ điệp Phúc Âm là t́nh yêu
thương cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta sẽ đọc thấy những nhận định
tóm gọn này ở trong mục: 1- Niềm Vui Phúc Âm – cần một cuộc hoán cải về mục vụ.
Sau nữa là vấn đề đối ngoại, một vấn đề liên quan tới t́nh h́nh của
thế giới và nhân loại ngày nay, những ǵ chẳng những trở thành
thách đố cho sứ vụ và công cuộc truyền bá phúc âm hóa mà c̣n
chính là chính đối tượng của việc truyền bá phúc âm hóa, là động
lực thôi thúc phải truyền bá phúc âm hóa và là nhu cầu đ̣i hỏi
phải được truyền bá phúc âm hóa nữa. Những biến đổi và biến động
ngoài dự tưởng hiện nay về tâm thức và niềm tin, cũng như về văn
hóa, kinh tế, tài chính và xă hội v.v. đang diễn tiến ra sao và
cần phải được truyền bá phúc âm hóa hơn bao giờ hết, đều ở trong
mục: 2- Niềm
Vui Phúc Âm - trước những thách đố của thế giới ngày nay.
Sau hết là vấn đề giải quyết, một vấn đề liên quan đến chính cách
thức cần phải có và thích đáng cho sứ vụ và công cuộc truyền bá
phúc âm hóa, bao gồm đường lối hội nhập văn hóa, thậm chí cả
những phương cách gặp gỡ riêng tư, thích hợp với mỗi tâm hồn,
hơn là cứ áp dụng theo công thức, nhất là làm sao để có thể thực
hiện việc giảng dạy đến độ chinh phục ḷng người v.v. như được
đề cập đến ở mục
3- Niềm Vui Phúc Âm -
Những cách thức để truyền đạt.
Thế nhưng, một đường
lối truyền bá phúc âm hóa luôn mới mẻ và không bao giờ lỗi thời
đối với Giáo Hội đó là tỏ ra ưu ái riêng người nghèo, như ở mục 4- Niềm Vui Phúc Âm - đặc biệt cho người nghèo hèn.
1- Niềm Vui Phúc Âm –
cần một cuộc hoán cải về mục vụ
(Chương Một: Việc biến đổi truyền giáo của Giáo
Hội; Mục II- Hoạt động và việc hoán cải về mục vụ; Mục
III- Từ tâm điểm của Phúc Âm; Mục IV- Một
sứ vụ được thể hiện trong giới hạn con người; Mục V- Một
người mẹ mở rộng con tim)
26- ... Có
những cơ cấu giáo hội có thể gây ngăng trở cho các nỗ lực truyền
bá phúc âm hóa, thế nhưng cho dù là những cơ cấu tốt đẹp cũng
chỉ bổ ích khi chất chứa một sự sống liên lỉ thúc đẩy, nâng đỡ
và định vị chúng. Bất cứ một cấu trúc nào cũng sẽ chóng trở
thành vô hiệu nếu thiếu mất sự sống mới và tinh thần phúc âm
chân thực, thiếu vắng "tính chất trung thành với ơn gọi của
ḿnh" là Giáo Hội.
27- Tôi mơ đến "hướng
chiều
truyền giáo -
missionary option", tức là một thứ thôi thúc truyền giáo có khả
năng biến đổi hết mọi sự, nhờ đó những tục lệ của Giáo Hội,
những đường lối hành sự, thời gian tính và các chương tŕnh,
ngôn ngữ và các cơ cấu đều có thể xứng hợp trở thành phương tiện
truyền bá phúc âm hóa cho thế giới ngày nay hơn là việc Giáo Hội
cứ
bám lấy
bản thân ḿnh. Việc canh tân các cơ cấu cần đến việc
hoán cải về mục vụ chỉ hợp lư theo chiều hướng ấy mà thôi: nó
thuộc về nỗ lực làm cho chúng hướng nhiều hơn nữa về sứ vụ
truyền giáo, làm cho hoạt động truyền giáo b́nh thường ở mọi
mức độ bao hàm và cởi mở hơn nữa, tác động nơi thành phần mục vụ
viên một ước muốn liên lỉ tiến bước, nhờ đó khơi động
một đáp ứng tích cực từ tất cả những ai được Chúa Giêsu
kêu gọi sống
thân t́nh với Người. Như Đức Gioan Phaolô II có
lần đă nói với các vị Giám Mục Đại Dương Châu rằng: "Tất cả mọi
cuộc canh tân trong Giáo Hội cần phải lấy sứ vụ truyền giáo làm
mục đích của ḿnh, bằng không sẽ bị rơi vào cạm bẫy của một thứ
tụt hậu Giáo Hội"
[John Paul II, Post-Synodal Apostolic Exhortation Ecclesia
in Oceania (22 November 2001), 19: AAS 94 (2002), 390.]
32- V́ tôi được kêu
gọi để áp dụng thực hành những ǵ tôi yêu cầu người khác
mà tôi
cũng phải nghĩ đến một cuộc hoán cải về vai tṛ giáo hoàng
nữa. Nhiệm vụ của tôi, với tư cách Giám Mục Rôma,
đó là cởi mở đón
nhận các ư kiến đề nghị có thể giúp cho việc thi hành thừa tác
vụ của tôi một cách trung thực hơn với ư nghĩa được Chúa Giêsu
mong muốn nơi vai tṛ này cũng như trung thực với các nhu cầu
hiện nay của việc truyền bá phúc âm hóa... Vai tṛ giáo hoàng và
các cơ cấu tổ chức trung ương của Giáo Hội hoàn vũ cũng cần nghe
thấy tiếng gọi hoán cải về mục vụ này... Việc tập quyền trung
ương thái quá, hơn là cống hiến hữu ích, là những ǵ gây rắc rối
cho đời sống của Giáo Hội cũng như cho việc vươn ḿnh truyền
giáo của Giáo Hội.
34-... Vấn đề lớn nhất đó là lúc sứ điệp chúng ta rao giảng lúc bấy
giờ dường như được đồng hóa với các khía cạnh phụ thuộc mà cho
dù chúng có quan trọng đến đâu, tự chúng và bởi chúng, cũng
không chuyển đạt cốt lơi của sứ điệp Chúa Kitô. Chúng ta cần
phải thiết thực và đừng cho rằng thính giả của chúng ta hiểu
được tất cả cái bối cảnh về những ǵ chúng ta đang nói, hay có
thể liên hệ đến những ǵ chúng ta nói với chính cốt lơi của Phúc
Âm, một cốt lơi cống hiến ư nghĩa, vẻ đẹp và sự hấp dẫn cho
những ǵ chúng ta nói tới.
35- Vấn đề thừa tác mục vụ theo
một cung cách truyền giáo (a missionary style) không thể
bị ám ảnh
bởi việc truyền đạt rời rạc một đống các thứ tín lư
cần phải được
nhất trí áp đặt. Khi chúng ta chấp nhận một mục tiêu mục vụ và
kiểu cách truyền giáo thực sự vươn tới hết mọi người không trừ
ai hay loại trừ ai, th́ sứ điệp này cần phải tập trung vào những
ǵ là thiết yếu, vào những ǵ đẹp đẽ nhất, cao cả nhất, thu hút
nhất và đồng thời cũng cần thiết nhất. Sứ điệp này được đơn giản
hóa mà vẫn không
bị mất đi một chút ǵ cái sâu xa và sự thật của nó,
nhờ đó nó càng trở nên mănh liệt và có sức chinh phục.
38- Cần phải rút tỉa những thành quả nơi giáo huấn của Công Đồng là
những ǵ phản ảnh niềm xác tín cổ kính của Giáo Hội. Trước hết,
cần phải nói rằng trong việc giảng dạy Phúc Âm cần phải bảo tŕ
một cảm quan xứng hợp về tính cách cân đối. Thường thấy có những
đề tài được đề cập đến và nhấn mạnh nơi việc giảng dạy. Chẳng
hạn, nếu trong tiến tŕnh của phụng niên, vị linh mục coi xứ nói
về sự điều độ chừng mực 10 lần nhưng chỉ đề cập đến đức bác ái
hay đức công chính có hai ba lần là xẩy ra chuyện bất quân bằng
rồi đó, mà chính những nhân đức này mới cần phải được tŕnh bày
hơn hết trong việc giảng dạy và trong vấn
đề giáo lư nhưng đă bị coi nhẹ. Xẩy ra
tương tự như thế đó là khi chúng ta nói nhiều về luật lệ hơn là
về ân sủng, nhiều về Giáo Hội hơn về Chúa Kitô, nhiều về Giáo
Hoàng hơn về lời Chúa.
39- V́ một mối hiệp
nhất về cơ cấu giữa các nhân đức mà không một nhân đức nào trong
số đó bị loại trừ khỏi lư tưởng Kitô giáo thế nào th́ cũng không
một sự thật nào có
thể bị chối bỏ. Hơn nữa, mỗi một sự thật
sẽ được hiểu rơ
khi liên kết với cái tổng thể ḥa hợp của sứ điệp Kitô giáo;
theo đó th́ tất cả mọi sự thật đều quan trọng và soi chiếu lẫn
nhau. Khi việc giảng dạy trung thực với Phúc Âm th́ tâm điểm của
một số sự thật nào đó là những ǵ hiển nhiên và rơ ràng cho thấy
rằng luân lư Kitô giáo không phải là một h́nh thức tác hành khắc
kỷ, hay chối bỏ bản thân ḿnh, hoặc chỉ là một thứ triết lư cụ
thể hay là một bản liệt kê các thứ tội lỗi. Trước hết Phúc Âm
mời gọi chúng ta hăy đáp ứng Vị Thiên Chúa của t́nh yêu là Đấng
cứu độ chúng ta, hăy nh́n thấy Thiên Chúa nơi người khác và hăy
dấn thân t́m kiếm sự thiện của người khác. Lời mời gọi này không
thể trở thành lu mờ trước bất cứ một hoàn cảnh nào! Tất cả mọi
nhân đức đều giúp vào việc đáp ứng yêu thương ấy. Nếu lời mời
gọi này không được tỏa chiếu một cách mănh liệt và thu hút, th́
lâu đài giáo huấn về luân lư của Giáo Hội có nguy cơ trở thành
một thứ chồng chất lên nhau
ở trên một nền móng lung lay (a house
of cards), và đó là cái nguy cơ lớn nhất của chúng ta. Nghĩa là
không phải Phúc Âm là những ǵ được giảng dạy, mà là những điểm
nào đó về tín lư hay luân lư được căn cứ vào những chọn lựa
theo các ư hệ riêng. Sứ điệp này sẽ có nguy cơ
bị mất đi cái tươi mới của nó
và sẽ không c̣n là "hương thơm của Phúc Âm" nữa.
41- ... Theo ư hướng
thánh hảo trong việc truyền đạt chân lư về Thiên Chúa và nhân
loại, đôi khi chúng ta cống hiến cho tín hữu một thứ ngụy thần
hay một lư tưởng nhân bản không thực sự là Kitô giáo. Như thế là
chúng ta đă bám chặt lấy những ǵ công thức
chứ không chuyển đạt chính
cái bản chất của nó .....
43- Trong việc liên
tục nhận thức của ḿnh, Giáo Hội cũng có thể thấy được rằng có
một số tục lệ không trực tiếp liên hệ với tâm điểm của Phúc Âm,
thậm chí một số đă sâu xa bén rễ trong lịch sử, không c̣n được
hiểu và cảm nhận một cách xác đáng nữa. Một số trong những tập
tục ấy th́ đẹp đẽ nhưng không c̣n là phương tiện truyền đạt Phúc
Âm nữa. Chúng ta không được sợ hăi trong việc tái xét chúng.
Đồng thời Giáo Hội có những qui luật hay qui tắc có thể đă rất
hiệu năng trong thời điểm của chúng, nhưng không c̣n giữ được
tác dụng như thế trong việc hướng dẫn và h́nh thành đời sống của
con người
nữa...
44- ... Tôi muốn
nhắc nhở các vị linh mục rằng ṭa giải tội không phải là một
pḥng tra tấn mà là một cuộc hội ngộ t́nh thương của Chúa,
những ǵ thúc đẩy chúng ta cố gắng hết sức ḿnh. Một bước tiến
nhỏ nhoi, giữa những hạn hữu lớn lao của con người, có thể làm
hài ḷng Thiên Chúa hơn là một đời sống bề ngoài có vẻ đàng
hoàng tử tế nhưng lại không phải đương đầu ǵ với những khó khăn
cả thể trong ngày. Hết mọi người cần phải được chạm đến bởi
những ǵ là an ủi và thu hút từ t́nh yêu cứu độ của Thiên Chúa,
một t́nh yêu cứu độ nhiệm mầu hoạt động nơi từng người, vượt lên
trên và vượt ra ngoài các lỗi lầm và thiếu sót của họ.
46- Một Giáo Hội "xông
pha - goes forth" là một Giáo Hội mở cửa. Xông pha đến với những
người khác để vươn tới những b́a mép nhân loại không có nghĩa là
hấp tấp nhào đầu vào đời một cách buông quơ. Thường th́ tốt hơn hăy
cứ chầm chậm, gạt ra ngoài cái háo hức của ḿnh trong việc thấy
người khác và nghe người khác, không vội vàng làm hết điều này
đến điều
kia, và cứ ở với một ai đó đă nản chí dừng chân mỏi
bước. Có những lúc chúng ta cần phải như người cha của đứa con
hoang đàng, luôn mở cửa để khi đứa con trở về nó có thể tiến vào
bên trong.
47- Giáo Hội được
kêu gọi trở thành nhà Cha, cửa luôn mở. Một dấu hiệu cụ thể của
việc mở cửa này đó là các cửa ở các nhà thờ của chúng ta bao giờ
cũng phải mở ra để nhỡ có ai đó, được Thần Linh tác động, đến đó
mà t́m kiếm Thiên Chúa, th́ họ sẽ không đụng phải cánh cửa đóng
kín. Cũng không được đóng các cánh cửa khác. Hết mọi người đều
có thể tham dự một cách nào đó vào đời sống của Giáo Hội; hết
mọi người đều có thể thuộc về cộng đồng này, các cửa ngơ bí tích
không được đóng lại v́ bất cứ lư do nào. Điều này đặc biệt đúng
về bí tích được gọi là "cửa" đó là phép rửa. Bí tích Thánh Thể,
mặc dù bí tích này là
tất
cả
sự sống về bí tích, không
phải là một thứ phần thưởng cho thành phần trọn hảo mà là một
phương dược mănh liệt và là thứ dưỡng thực cho kẻ hèn yếu (Cf.
Saint Ambrose, De Sacramentis, IV, 6, 28: PL 16, 464:
“Tôi cần phải luôn lănh nhận lấy Thánh Thể, nhờ đó Thánh Thể
luôn có thể tha thứ tội lỗi của tôi. Nếu tôi cứ tiếp tục phạm
tội th́ tôi lúc nào cũng cần phải có một phương dược”; ID., op.
cit., IV, 5, 24: PL 16, 463: “Những ai ăn manna th́ đă chết;
những ai ăn thân thể này th́ sẽ được ơn thứ tha tội lỗi của họ”;
Saint Cyril of Alexandria, In Joh. Evang., IV, 2: PG 73,
584-585: “Tôi xét ḿnh và tôi thấy ḿnh bất xứng. Tôi bảo những
người nói như thế rằng: thế th́ bao giờ bạn mới xứng đáng chứ? Cuối
cùng th́ tới khi nào bạn mới tŕnh diện trước Chúa Kitô chứ? Nếu
tội lỗi của bạn ngăn bạn đến gần và bạn cứ sa đi ngă lại hoài - v́
như Thánh Vịnh nói 'con người biết ǵ về lỗi lầm của ḿnh?' -
th́ chẳng lẽ bạn sẽ không tham dự vào việc thánh hóa là những ǵ
hiến ban sự sống cho cơi vĩnh hằng hay sao?"). Những niềm xác
tín có những hệ quả về mục vụ này kêu gọi chúng ta hăy khôn
ngoan và mạnh dạn cứu xét. Thường chúng ta tác hành như thành
phần độc thủ ân sủng (arbiter of grace) hơn là phân phối ân sủng
(its facilitator). Thế nhưng Giáo Hội không phải là một nơi thu
lộ phí; mà là nhà Cha, nơi có chỗ cho hết mọi người, với tất cả
mọi vấn đề của họ.
49- Bởi vậy chúng ta
hăy xông pha (go forth), chúng ta hăy xông pha để cống hiến cho hết mọi
người sự sống của Chúa Giêsu Kitô. Ở đây tôi muốn lập lại cho
toàn thể Giáo Hội những ǵ tôi đă thường nói với các linh mục và
giáo dân ở Buenos Aires rằng: Tôi thích một Giáo Hội bị bầm dập,
đớn đau và lem luốc v́ xuống đường hơn là một Giáo Hội thiếu
lành mạnh bởi bị giam hăm và dính chặt với cái an toàn của ḿnh
(I
prefer a Church which is bruised, hurting and dirty because it
has been out on the streets, rather than a Church which is
unhealthy from being confined and from clinging to its own
security).
Tôi không muốn một Giáo Hội chỉ quan tâm tới vấn đề trở thành
tâm điểm để rồi đi đến
chỗ bị
rơi vào một mạng lưới đầy những thứ ám ảnh và phương thức.
Nếu một điều ǵ đó có lư quấy rầy chúng ta
và khiến cho lương tâm của chúng ta cảm thấy áy náy, th́ đó là
sự kiện là có rất nhiều anh chị em của chúng ta đang sống không
có sức mạnh, ánh sáng và niềm ủi an là những ǵ xuất phát từ
t́nh thân hữu với Chúa Giêsu Kitô, không có một cộng đồng đức
tin để nâng đỡ họ, không có ư nghĩa và mục đích trong đời.
Niềm
hy vọng của tôi đó là chúng ta sẽ được
tác động bởi nỗi lo
sợ, hơn cái sợ bị lầm đường lạc lối, trong việc cứ khép kín
trong các thứ cơ cấu cống hiến cho chúng ta một cảm giác sai lầm
về sự an toàn, trong các thứ luật lệ khiến chúng ta có những
phán đoán thô lỗ,
trong những thứ thói quen khiến cho chúng ta cảm thấy an toàn,
trong khi đó th́ ở ngay cửa nhà của ḿnh, dân chúng đang chết
đói và Chúa Giêsu vẫn không ngừng nói với chúng ta rằng: "Các
con hăy cho họ ăn ǵ đi" (Mk 6:37).
2- Niềm Vui Phúc Âm - trước
những thách đố của thế giới ngày nay
(Chương Hai:
Giữa Cuộc Khủng Hoảng về Việc Dấn Thân Chung; Mục
I - Một số thánh đố của thế giới ngày nay)
53- Giống như giới
răn "các
ngươi không được giết người" đă nêu lên một giới hạn rơ
ràng để bảo toàn giá trị của sự sống con người thế nào th́ ngày
nay chúng ta cần phải nói rằng "các người không được" thực hiện
một thứ kinh tế loại trừ và bất quân b́nh. Đó là một thứ kinh tế
sát hại. Tại sao có thể xẩy ra chuyện một người già lăo vô gia
cư bị chết phơi thây ra đó th́ không phải là một tin tức cần
được loan báo trong khi đó lại loan tin thị trường chứng khoán
xuống 2 điểm chứ? Đó là một trong những trường hợp bị
loại trừ. Chúng ta có thể nào tiếp tục chịu đựng được cảnh lương
thực đổ đi trong khi dân chúng đang chết đói hay chăng? Đó là
vấn đề bất quân b́nh. Ngày nay tất cả đều bị chi phối bởi luật
đấu tranh và thành phần khá nhất sẽ sống c̣n (the survival of
the fittest), thành phần quyền lực dung dưỡng trên thành phần
bất lực. Bởi đó mà đa số dân chúng cảm thấy ḿnh bị loại trừ và
bị hất ra ngoài: không có công ăn việc làm, không có cơ hội vươn
lên, không có bất cứ một phương tiện nào để vượt thoát.
Chính con người bị
coi là những sản vật tiêu thụ được sử dụng rồi sau đó bị thải đi.
Chúng ta đă tạo nên một thứ văn hóa "disposable - thải trừ
/ loại
bỏ" là
thứ văn hóa hiện nay đang lan tràn. Không phải chỉ là vấn đề khai
thác và đàn áp mà là một cái ǵ đó mới mẻ. Vấn đề loại trừ cuối
cùng có liên quan tới những ǵ thuộc về xă hội chúng ta sống;
những ai bị loại trừ không c̣n ở dưới đáy của xă hội hay ở ngoài
ŕa của xă hội
hoặc bị tước lột - họ thậm chí không c̣n thuộc về xă hội nữa.
Thành phần bị loại trừ không bị 'khai thác' mà là thành phần bị
ruồng bỏ (outcast), thành phần "cặn bă dư thừa" (leftover)
54- Trong bối cảnh
ấy, một số người vẫn tiếp tục bênh vực cho các thứ thuyết nhỏ
giọt (trickle-down theories) chủ trương rằng việc tăng trưởng về
kinh tế được kích thích bởi vấn đề tự do mậu dịch sẽ chắc chắn
thành đạt trong việc mang lại sự công bằng và sự bao gồm hơn nữa
trên thế giới. Ư nghĩ này, một ư nghĩ chưa bao giờ được chứng
thực bằng các sự kiện, cho thấy một thứ tin tưởng sống sượng và
ngớ ngẩn vào ḷng tốt lành của thành phần nắm giữ quyền lực về
kinh tế cũng như vào những hoạt động được thần thánh hóa của
guồng máy kinh tế đang thịnh hành. Trong khi đó th́ thành phần
bị loại trừ vẫn đang chờ mong. Trong việc bảo tŕ một lối sống
loại trừ người khác, hay trong việc bảo tŕ nhiệt huyết sống cho
lư tưởng vị kỷ như thế đă phát triển một thứ toàn cầu hóa trạng
thái dửng dưng lạnh lùng. Hầu như không thấy được điều ấy, chúng
ta tiến đến chỗ không c̣n cảm thấy thương cảm trước tiếng kêu
gào của người nghèo khổ nữa, không c̣n khóc thương nỗi đớn đau
của người khác và cảm thấy cần giúp đáp họ, như thể tất cả những
sự ấy là trách nhiệm của ai đó chứ không phải của chúng ta. Thứ
văn hóa giầu thịnh này đă khiến cho chúng ta trở thành u mê;
chúng ta cảm thấy kích động khi thị trường cống hiến cho chúng
ta một cái ǵ đó mới mẻ để mua; trong khi đó tất cả những cuộc
sống lăn lộn bởi thiếu cơ hội vươn lên chỉ như là một thứ cảnh
tượng bàng quan; chúng không làm cho chúng ta cảm thấy rung động.
55- Lư do duy nhất
về t́nh trạng này liên quan tới tiền bạc, vị chúng ta âm thầm
chấp nhận quyền thống trị của nó nơi bản thân ḿnh cũng như
trong xă hội. Cuộc khủng hoảng về tài chính hiện nay có thể
khiến chúng ta không để ư tới sự kiện là nó xuất phát từ một
cuộc khủng hoảng sâu xa về nhân bản, đó là việc chối bỏ cái vị
thế chính yếu của con người! Chúng ta đă tạo nên những thứ ngẫu
tượng mới. Việc tôn thờ con ḅ vàng ngày xưa (cf Ex 32:1-35) đă
được tái diễn dưới một h́nh thức mới và tàn nhẫn ở nơi việc thần
tượng tiền bạc và ở nơi vai tṛ độc tài chuyên chính của thứ
kinh tế phi nhân thiếu hẳn mục đích thực sự nhân bản. Cuộc khủng
hoảng toàn cầu ảnh hưởng đến vấn đề tài chính và kinh tế đă lột
trần những ǵ là bất quân b́nh của chúng, nhất là vấn đề chúng
không quan tâm ǵ tới nhân loại; con người bị biến thành một
trong những nhu cầu của họ đó là việc tiêu thụ.
60- Guồng máy kinh
tế ngày nay là những ǵ cổ vơ cho việc tiêu thụ thái quá, tuy
nhiên vấn đề hiển nhiên ở đây là chủ nghĩa hưởng thụ buông thả
kèm theo t́nh trạng bất b́nh đẳng đang cho thấy cơ cấu xă hội bị
hư hại gấp đôi. T́nh trạng bất b́nh đẳng dần dần gây ra một thứ
bạo động vơ trang không thể nào và sẽ không thể nào có thể giải
quyết được. T́nh trạng này chỉ cống hiến những niềm hy vọng sai
lạc cho những ai ḥ hét đề cao an ninh, cho dù ngày nay chúng ta
biết rằng các thứ vũ khí và bạo lực, hơn là đưa ra các giải
quyết, đều tạo nên các cuộc xung đột mới mẻ và trầm trọng hơn.
Một số người chỉ biết vui vẻ trách cứ người nghèo và các xứ sở
nghèo đă gây rắc rối; thích vỡ đũa cả nắm một cách vô lư, số
người ấy cũng cho rằng việc giải quyết đó là một "thứ giáo dục"
làm cho người nghèo và các xứ sở nghèo trầm lắng xuống, khiến họ
trở thành thuần thục và vô hại. Tất cả những điều ấy thậm chí
càng trở nên trầm trọng hơn đối với thành phần bị đẩy ra ngoài
lề xă hội, gây ra bởi t́nh trạng băng hoại tràn lan và đâm rễ
sâu xa nơi nhiều xứ sở - ở chính quyền của họ, ở các thứ thương
vụ của họ và ở các cơ cấu tổ chức của họ - nghĩa là bởi bất cứ ư
hệ chính trị nào nơi thành phần lănh đạo họ.
61- ... Ở nhiều nơi,
vấn đề này c̣n là vấn đề lan tràn t́nh trạng dửng dưng và tương
đối chủ nghĩa, những ǵ liên hệ tới cơn mộng vỡ và khủng hoảng
của các ư hệ, nó đă xẩy ra như là một thứ phản ứng đối với bất
cứ cái ǵ có vẻ độc tài chuyên chế. Vấn đề này chẳng những tác
hại cho Giáo Hội mà c̣n cho cơ cấu của xă hội nói chung. Chúng
ta cần nhận thấy là ở một nền văn hóa mà mỗi người muốn trở
thành kẻ ôm ấp lấy cái sự thật chủ quan của họ th́ nó trở thành
khó khăn cho những người công dân trong việc hoạch định một dự
án chung vượt lên trên lợi lộc cá nhân và các tham vọng riêng
tư.
62- Trong nền văn
hóa thịnh hành này th́ ưu tiên là những ǵ bề ngoài, những ǵ
tức khắc, những ǵ hữu h́nh, những ǵ mau chóng, những ǵ nổi
nang và những ǵ tạm bợ. Những ǵ thực hữu nhường bước cho những
ǵ là h́nh thức. Ở nhiều xứ sở vấn đề toàn cầu hóa đă tiến đến
chỗ mau chóng trở nên suy đồi về những căn gốc văn hóa của họ và
tới chỗ xẩy ra một cuộc xâm lược của những đường lối suy tư và
tác hành thích hợp với các nền văn hóa khác đang phát triển về
kinh tế nhưng lại trở nên yếu kém về đạo lư....
63- Đức tin Công
giáo của nhiều người ngày nay đang bị thử thách bởi t́nh trạng
trăm hoa đua nở nơi các phong trào tôn giáo mới, một số có
khuynh hướng cực bảo thủ, trong khi một số khác dường như đề ra
một thứ linh đạo phi Thiên Chúa. Về phương diện khác th́ đây là
một thứ phản ứng của con người trước một xă hội duy vật, hưởng
thụ và cá nhân chủ nghĩa, thế nhưng nó đồng thời cũng có nghĩa
là t́nh trạng khai thác những nỗi yếu kém của những con người
sống nghèo khổ hay ngoài lề xă hội, những người cùng cực trong
nỗi đớn đau lớn lao của con người và đang t́m kiếm những giải
quyết tức khắc cho những nhu cầu của họ. Những phong trào tôn
giáo này, một cách tinh khôn, đă đến để làm đầy, trong một thứ
văn hóa chính yếu là cá nhân chủ nghĩa, cái trống rỗng c̣n tồn
tại bởi chủ nghĩa duy lư trần tục. Chúng ta cần phải nh́n nhận
rằng nếu một phần những người lănh nhận phép rửa thiếu cảm quan
thuộc về Giáo Hội th́ cũng là v́ những cấu trúc nào đó và bầu
không khí đôi khi dửng dưng ở một số giáo xứ và cộng đồng của
chúng ta, hay v́ đường lối quan liêu trong việc giải quyết các
vấn đề, dù chúng đơn giản hay phức tạp, nơi đời sống của dân
chúng ta. Ở nhiều nơi đường lối quản trị qua mặt đường lối mục
vụ, cũng như vấn đề tập trung vào việc ban phát các bí tích tách
khỏi những h́nh thức truyền bá phúc âm hóa khác.
64- Tiến tŕnh tục
hóa này có khuynh hướng biến đức tin và Giáo Hội trở thành những
ǵ thuộc về lănh vực riêng tư và cá nhân. Hơn nữa, bằng cách
hoàn toàn chối bỏ siêu việt tính nên xẩy ra t́nh trạng càng ngày
càng suy yếu, càng yếu kém về cảm quan tội lỗi chung riêng và
càng gia tăng hơn nữa chủ nghĩa tương đối ...
3-
Niềm Vui Phúc Âm - Những
cách thức
để truyền đạt
(Chương
Ba:
Việc loan truyền Phúc Âm; Mục I
- Toàn thể dân Chúa loan báo Phúc Âm;
Mục II
- Bài Giảng, từ khoản 137)
115- ... Con
người bao giờ cũng được định vị ở một nền văn hóa nào đó: "bản
tính và văn hóa là những ǵ thân mật liên hệ" (Cf. Second
Vatican Ecumenical Council, Pastoral Constitution on the Church
in the Modern World
Gaudium et Spes, 36). Ân sủng là những ǵ giả định văn
hóa, và tặng ân của Thiên Chúa hóa thành nhục thể nơi văn hóa
của những ai lănh nhận ân sủng.
116- Kitô giáo
không chỉ có thuần một thể hiện văn nào, trái lại, "vẫn hoàn
toàn trung thực với ḿnh, kiên định trung thành với việc loan
báo Phúc Âm và truyền thống của Giáo Hội, Kitô giáo cũng sẽ phản
ảnh các khuôn mặt khác nhau về văn hóa và về con người mà nó
được đón nhận và đâm rễ" [John Paul II, Apostolic Letter
Novo Millennio Ineunte (6 January 2001), 40: AAS 93
(2001), 295.]... Nhờ việc hội nhập văn hóa, Giáo Hội "dẫn con
người, cùng với văn hóa của họ, vào cộng đồng của ḿnh" [John
Paul II, Encyclical Letter
Redemptoris Missio (7 December 1990), 52: AAS 83
(1991), 300; cf. Apostolic Exhortation
Catechesi Tradendae
(16 October 1979) 53: AAS 71 (1979), 1321], v́ "hết mọi nền văn
hóa đều cống hiến những thứ giá trị và h́nh thức tích cực có thể
làm phong phú đường lối rao giảng, hiểu biết và sống Phúc Âm"
[John Paul II, Post-Synodal Apostolic Exhortation
Ecclesia in Oceania (22 November 2001), 16: AAS 94 (2002),
383].
117- ... Chúng ta
sẽ không trung thực với lư lẽ của vấn đề nhập thể nếu chúng ta
nghĩ về Kitô giáo như là những ǵ độc canh (monocultural) và độc
điệu (monotonous). Thật sự là có một số nền văn hóa đă từng liên
hệ chặt chẽ với việc rao giảng Phúc Âm và việc phát triển tư
tưởng Kitô giáo, tuy nhiên sứ điệp mạc khải không được đồng hóa
với bất cứ nền văn hóa nào như thế; nội dung của sứ diệp mạc
khải là những ǵ xuyên văn hóa (transcultural). Bởi thế, trong
việc truyền bá phúc âm hóa cho các nền văn hóa mới, hay các nền
văn hóa chưa được lănh nhận sứ điệp Kitô giáo, th́ vấn đề thiết
yếu là không áp đặt, cùng với Phúc Âm, một h́nh thức văn hóa
riêng biệt nào, cho dù nền văn hóa ấy có đẹp đẽ hay cổ kính đến
đâu chăng nữa. Sứ điệp chúng ta loan truyền bao giờ cũng mặc một
thứ văn hóa nào đó, thế nhưng trong Giáo Hội đôi khi chúng ta
lại rơi vào một thứ thần thánh hóa vô bổ nền văn hóa của chúng
ta, và v́ thế để lộ ra tính chất cuồng tín hơn là nhiệt t́nh
thực sự truyền bá phúc âm hóa.
128- Trong việc
rao giảng này, một việc rao giảng luôn tỏ ra trân trọng và dịu
dàng, bước đầu tiên đó là việc đối thoại riêng tư, khi người
khác nói và chia sẻ niềm vui, hy vọng và quan tâm của họ đối với
những ai thân yêu hay đối với nhiều nhu cầu chân thành khác của
họ. Chỉ sau đó mới có thể đề cập đến lời Chúa, có thể bằng việc đọc
một câu Thánh Kinh hay kể một câu truyện, nhưng bao giờ cũng nhớ
rằng sứ điệp cốt yếu đó là t́nh yêu bản vị của Thiên Chúa là Đấng đă
hóa thân làm người, đă hiến ḿnh cho chúng ta, đang sống và cống
hiến cho chúng ta ơn cứu độ của Người và t́nh hữu nghị của Người.
Sứ điệp
này cần phải được chia sẻ một cách khiêm tốn như là một chứng từ
nơi ai lúc nào cũng muốn học hỏi, ư thức rằng sứ điệp này quá
phong phú và quá sâu xa đến độ nó bao giờ cũng vượt quá khả năng
nắm bắt của chúng ta. Có lúc sứ điệp này có thể được tŕnh bày
một cách trực tiếp, có lúc bằng chứng từ hay cử chỉ riêng tư,
hoặc bằng một cách nào đó được Thánh Linh gợi lên tùy từng hoàn
cảnh. Tùy khôn ngoan và hoàn cảnh thích hợp, cuộc gặp gỡ huynh
đệ và truyền giáo này có thể kết thúc bằng một lời nguyện ngắn
liên hệ tới những quan tâm được người ấy đă bày tỏ. Nhờ đó họ
cảm thấy ḿnh được lắng nghe và cảm thông; họ sẽ thấy rằng
trường hợp đặc biệt của họ đă được tŕnh bày cùng Thiên Chúa và
lời Chúa thực sự nói với cuộc đời của họ.
129- Tuy nhiên,
chúng ta không được nghĩ rằng sứ điệp Phúc Âm bao giờ cũng cần
phải được truyền đạt bằng những công thức ấn định không thay đổi
thuộc ḷng hay bằng những ngôn từ đặc biệt diễn tả một nội dung
tuyệt đối bất khả đổi thay. Việc truyền đạt này diễn ra bằng rất
nhiều cách thức khác nhau đến độ không thể diễn tả hay liệt kê
hết tất cả được, và dân Chúa, với tất cả bao nhiêu là cử chỉ và
dấu hiệu của ḿnh, là chủ thể tổng hợp của nó. Nếu Phúc Âm được
gắn vào một nền văn hóa nào đó th́ sứ điệp này không c̣n được
truyền đạt hoàn toàn từ người sang người nữa.
Ở những xứ
sở Kitô giáo chỉ là thiểu số th́, kèm theo việc phấn khích mỗi
một người lănh nhận phép rửa loan truyền Phúc Âm, các Giáo Hội
riêng cần phải chủ động đề cao ít là những h́nh thức sơ khởi của
việc hội nhập văn hóa. Mục đích tối hậu là ở chỗ Phúc Âm, khi
được rao giảng theo những cung cách hợp với từng văn hóa, sẽ tạo
nên một tổng hợp mới nơi nền văn hóa riêng biệt ấy. Điều này bao
giờ cũng là một tiến tŕnh chầm chậm và chúng ta có thể cảm thấy
lo sợ thái quá về nó. Tuy nhiên, nếu chúng ta để cho những mối
ngờ vực và sợ hăi làm nản chí can trường của chúng ta, thay v́
trở nên sáng tạo, chúng ta sẽ bám víu lấy những ǵ là thoải mái
và không đạt được bất cứ một tiến bộ nào. Trong trường hợp ấy,
chúng ta sẽ không lănh phần chủ động trong các tiến tŕnh lịch
sử mà trở thành những kẻ chỉ biết quan sát khi thấy Giáo Hội dần
dần bị tŕ trệ.
137- ... Bài
giảng có một tầm vóc quan trọng đặc biệt v́ bối cảnh thánh thể
của nó: nó vượt trên tất cả mọi h́nh thức về giáo lư như là một
giây phút cao điểm trong cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và dân
Ngài, một cuộc đối thoại dẫn đến việc hiệp thông bí tích...
138- Bài giảng
không thể trở thành một h́nh thức giúp vui như những thứ giúp
vui được truyền thông tŕnh diễn, mà cần phải cống hiến sự sống
và ư nghĩa cho việc cử hành. Nó là một thể loại chuyên biệt, v́
việc giảng dạy được đặt vào trong cơ cấu của việc cử hành
phụng vụ; bởi thế nó
cần phải vắn gọn và tránh cái h́nh thức giống như một bài diễn
văn hay một bài thuyết tŕnh. Một nhà giảng thuyết có thể kéo
chú ư của thành phần thính giả nghe ḿnh nói cả một tiếng đồng
hồ, thế nhưng, trong trường hợp này th́ ngôn từ của họ trở thành
quan trọng hơn là việc cử hành đức tin. Nếu bài giảng quá dài,
nó sẽ gây ảnh hưởng đến hai yếu tố đặc biệt của việc cử hành
phụng vụ đó là yếu tố quân b́nh của nó và nhịp độ của nó. Khi
việc giảng dạy diễn ra trong bối cảnh phụng vụ th́ nó là một
phần của việc hiến dâng lên Cha và là một thứ dàn xếp của thứ ân
sủng được Chúa Kitô tuôn đổ xuống trong việc cử hành này. Môi
trường phụng vụ ấy cần đến việc giảng dạy phải làm sao hướng dẫn
cộng đồng cùng với vị giảng thuyết đến một mối hiệp thông đổi
đời với Chúa Kitô trong Thánh Thể. Điều ấy có nghĩa là những
ngôn từ của vị giảng thuyết cần phải được thận trọng, để làm sao
Chúa, hơn là thừa tác viên của Người, trở thành tâm điểm của sự
lưu tâm chú ư.
140- Môi trường
này, vừa có tính chất mẫu thân vừa có tính chất giáo hội, trong
đó cuộc đối thoại giữa Chúa và dân Ngài diễn ra, cần phải được
phấn khích bởi việc gần gũi của vị giảng thuyết, bởi cái nồng
nàn nơi cung giọng của họ, bởi sự chân t́nh nơi cung cách nói
năng của họ, bởi niềm vui nơi các cử chỉ của họ. Cho dù có những
lúc bài giảng trở nên buồn tẻ làm sao ấy, nếu tinh thần mẫu thân
và giáo hội này có đó, nó sẽ luôn luôn sinh hoa kết trái, giống
như lời khuyên nhủ buồn tẻ của một người mẹ sinh hoa kết trái
khi tới lúc của nó trong ḷng của con cái vậy.
142- ... Trong
bài giảng, sự thật đi liền với sự mỹ và sự thiện. Bài giảng
chẳng những liên quan tới các sự thật trừu tượng hay những suy
diễn lạnh lùng, mà c̣n truyền đạt sự mỹ của các thứ h́nh ảnh
được Chúa dùng để phấn khích việc thực hành sự thiện. Kư ức của
tín hữu, như kư ức của Mẹ Maria, cần phải tràn trề những điều lạ
lùng do Chúa thực hiện. Tâm can của họ, gia tăng nơi niềm hy
vọng từ việc hân hoan và cụ thể thực hành t́nh yêu họ đă lănh
nhận, sẽ cảm thấy rằng mỗi một lời Thánh Kinh là tặng ân trước
khi nó trở thành một đ̣i hỏi.
157- ... Một
trong những điều quan trọng nhất đó là biết làm sao sử dụng các
h́nh ảnh trong khi giảng dạy, làm sao gợi óc tượng tượng. Đôi
khi sử dụng những thí dụ để làm sáng tỏ một điểm nào đó, thế
nhưng các thí dụ này thường chỉ thu hút trí khôn; trái lại, h́nh
ảnh giúp dân chúng thấm thía hơn và chấp nhận sứ điệp được chúng
ta truyền đạt. Một h́nh ảnh hấp dẫn làm cho sứ điệp dường như
quen thuộc, gần gũi, cụ thể và liên hệ tới cuộc sống hằng ngày.
Một h́nh ảnh tác hiệu có thể làm cho con người thưởng thức được
sứ điệp, làm bừng lên ước muốn và thúc đẩy ư muốn hướng về Phúc
Âm. Một bài giảng hay cần phải có "ư tưởng, cảm thức, h́nh ảnh".
158- ... Nếu
chúng ta thích ứng ngôn ngữ của con người và vươn tới họ bằng
lời Chúa, chúng ta cần phải tham phần vào đời sống của họ và ưu
ái chú trọng tới họ. Tính chất giản dị và sáng tỏ là hai điều
khác nhau. Ngôn ngữ của chúng ta có thể đơn giản nhưng việc
giảng dạy của chúng ta có thể không được rơ ràng cho lắm. Nó có
thể đi đến chỗ khó hiểu v́ nó không được hệ thống hóa, thiếu
tính chất triển khai hợp lư hay cố gắng nói nhiều điều một lúc.
Vậy chúng ta cần làm sao để có thể bảo đảm là bài giảng có một
sự thống nhất theo đề tài, rơ ràng thứ tự và ăn khớp với nhau
giữa các câu cú, nhờ đó dân chúng mới có thể theo dơi vị giảng
thuyết một cách dễ dàng và mới nắm bắt được chiều hướng lập luận
của vị này.
159- Một đặc điểm
khác về một bài giảng hay đó là tính chất tích cực của nó. Nó
không quan tâm nhiều đến việc vạch ra những ǵ không được làm,
mà là đến việc gợi ư những ǵ chúng ta có thể làm tốt đẹp hơn.
Dù sao nếu nó cần phải lưu ư đến một cái ǵ đó tiêu cực th́ nó
cũng phải cố gắng nêu lên một giá trị tích cực và thu hút nào đó,
kẻo nó bị lọ lem nơi những lời phàn nàn trách móc, những than
văn, những phê b́nh chỉ trích cùng những trách cứ. Việc giảng
dạy một cách tích cực bao giờ cũng cống hiến niềm hy vọng, hướng
đến tương lai, chứ không lưu lại những ǵ là tiêu cực lẩn quẩn
nơi chúng ta. Tốt đẹp biết bao khi các vị linh mục, phó tế và
giáo dân cùng nhau từng giai đoạn một khám phá ra những nguồn
liệu có thể giúp cho việc giảng dạy trở nên hấp dẫn hơn!
4- Niềm Vui Phúc Âm - đặc biệt cho người nghèo hèn
(Chương Bốn: Chiều kích xă hội của việc truyền bá phúc âm hóa; Mục II:
Vấn đề bao gồm thành phần
nghèo khổ trong xă hội. Biệt chú:
Tuy thành phần đối tượng của
việc truyền bá phúc âm hóa này không có ǵ là mới mẻ đối với
đường lối truyền bá phúc âm hóa mới của bức Tông Huấn này, nhưng
v́ đối tượng này bao giờ cũng là đối tượng trước hết và trên hết
của sứ vụ này mà nó luôn luôn mới, không bao giờ cũ, không trở
thành cũ)
189- T́nh đoàn kết
là phản ứng bột phát của những ai nhận thấy rằng vai tṛ xă hội
của tài sản và mục đích phổ quát của các sản vật là những thực
tại có trước tài sản riêng tư. Quyền tư hữu về các sản vật được
công chính hóa bởi nhu cầu bảo vệ và gia tăng chúng, nhờ đó
chúng có thể giúp ích hơn cho công ích; đó là lư do cần phải
sống t́nh đoàn kết như một dứt khoát phục hồi cho người nghèo
những ǵ thuộc về họ. Những niềm xác tín và thói quen của t́nh
liên kết này, khi chúng được mang ra áp dụng thực hành, sẽ mở
đường cho những cuộc biến đổi khác về cơ cấu và khiến chúng trở
thành khả dĩ. Việc thay đổi về cơ cấu không sản sinh ra các niềm
xác tín và thái độ mới th́ cứ nắm chắc là những thứ cấu trúc ấy
không sớm th́ muộn sẽ trở nên bại hoại, ngột ngạt và vô hiệu.
190- ... Đôi khi vấn
đề là ở chỗ lắng nghe tiếng kêu của toàn thể dân chúng, những
con người nghèo nhất trên trái đất này, v́ "ḥa b́nh được xây
dựng chẳng những trên việc tôn trọng các quyền lợi của con người,
mà c̣n trên sự tôn trọng các quyền lợi của dân chúng nữa"
(Pontifical Council for Justice and Peace,
Compendium of the Social Doctrine of the Church, 157.)
Thảm thương thay, thậm chí chính quyền lợi của con người có thể
được sử dụng để biện minh cho một việc bênh vực thái quá quyền
lợi cá nhân hay quyền lợi của thành phần của những người giầu có
hơn. Vẫn tôn trọng quyền tự lập và văn hóa của hết mọi dân nước,
chúng ta vẫn không được quên rằng hành tinh này là những ǵ
thuộc về toàn thể nhân loại và để cho tất cả loài người; nguyên
sự kiện là có một số người được sinh ra ở những nơi có ít nguồn
lợi hơn và ít phát triển hơn cũng không biện minh cho sự kiện về
t́nh trạng họ sống ở mức độ phẩm giá thua kém hơn. Cần phải tái
khẳng định rằng "thành phần may mắn hơn cần phải từ bỏ một số
quyền lợi của họ để quảng đại lấy các sản vật của họ phục vụ
người khác" [Paul VI, Apostolic Letter
Octogesima Adveniens (14 May 1971), 23: AAS 63 (1971),
418]........
193- Chúng ta hiện
thực hóa nhiệm vụ nghe thấy tiếng kêu la của người nghèo khi
chúng ta bị tác động sâu xa bởi nỗi khổ đau của người khác....
194- ... Chúng ta
không được chỉ quan tâm đến vấn đề lầm lẫn về tín lư mà c̣n về
cả việc trung thành với con đường sự sống tràn đầy ánh sáng và
khôn ngoan này. V́ "những người bênh vực cho tính chất chính
thống đôi khi bị tố cáo về tính cách thụ động, khoái thú hay
đồng lơa đáng trách đối với những trường hợp bất công bất khả
chấp và những chế độ chính trị dung dưỡng chúng" [Congregation
for the Doctrine of the Faith, Instruction
Libertatis Nuntius (6 August 1984), XI, 18: AAS 76
(1984), 907-908].
195- ... Chúng ta
không bao giờ có thể suy niệm thích đáng vẻ đẹp của Phúc Âm, thế
nhưng có một dấu hiệu chúng ta không bao giờ được thiếu đó là
vấn đề ưu tiên cho những ai hèn mọn nhất, những ai bị xă hội
loại trừ.
197- Cơi ḷng của
Thiên Chúa dành một chỗ đặc biệt cho người nghèo, đến độ chính
Ngài "đă trở nên nghèo" (2Cor 8:9). Toàn thể lịch sử công cuộc cứu
chuộc của chúng ta được ghi dấu bằng sự hiện diện của người
nghèo. Việc cứu độ đến với chúng ta từ tiếng "xin vâng" được
thốt lên bởi một tỳ nữ thấp hèn ở một tỉnh nhỏ bên lề của một
đại đế quốc. Đấng Cứu Thế của chúng ta được sinh ra trong một
máng cỏ, giữa các thú vật, như những con trẻ của các gia đ́nh
nghèo khó; Người được dâng trong Đền Thờ cùng với một cặp bồ câu,
một thứ của lễ thuộc những ai không có được một con chiên (cf.
Lk 2:24; Lev 5:7); Người được nuôi dưỡng ở một ngôi nhà của
những người thợ b́nh thường và làm việc với đôi tay của ḿnh để
sinh nhai. Khi Người bắt đầu rao giảng Nước Trời th́ nhiều đám
dân chúng bị truất hữu đă theo Người, đúng như lời Người phán: "Thần
Linh của Chúa xuống trên Tôi, v́ Ngài đă xức dầu cho Tôi để Tôi
rao giảng tin mừng cho người nghèo khó" (Lk 4:18). Người đă trấn
an những ai cảm thấy nặng gánh bởi buồn thương và bị quằn quại
nghèo khốn th́ Thiên Chúa đă dành cho họ một chỗ đặc biệt trong
cơi ḷng của Ngài: "Phúc cho các con là kẻ nghèo khó, v́ Nước
Thiên Chúa thuộc về các con" (Lk 6:20); Người đă biến ḿnh thành
một người trong họ: "Ta đói các người đă cho Ta ăn", và Người
dạy họ rằng t́nh thương đối với tất cả những người này là ch́a
khóa mở cửa thiên đàng vậy (cf. Mt 25:5ff).
198- ... Đó là lư do
tại sao tôi muốn một Giáo Hội nghèo và cho người nghèo. Họ có
nhiều điều để dạy chúng ta. Không phải họ thông
phần vào cảm quan đức tin - fidei sensus, mà họ c̣n nhận
biết Chúa Kitô khổ đau nơi những khó khăn của họ nữa. Chúng ta
cần để ḿnh được họ truyền bá phúc âm hóa cho. Việc tân truyền
bá phúc âm hóa là một lời mời gọi nhận biết quyền lực cứu độ ở
nơi đời sống của họ và đặt chúng vào tâm điểm của con đường Giáo
Hội hành tŕnh. Chúng ta được kêu gọi t́m gặp Chúa Kitô nơi họ,
lên tiếng cho lợi ích của họ, nhưng cũng được kêu gọi để trở nên
bạn hữu của họ, lắng nghe họ, nói cho họ và chú trọng tới sự
khôn ngoan huyền diệu Thiên Chúa muốn chia sẻ với chúng ta qua
họ.
199- ... Không đối
xử ưu ái với người nghèo th́ "việc loan truyền Phúc Âm, tự nó là
một h́nh thức chính yếu của đức bác ái, có cơ nguy bị hiểu lầm
hay bị ch́m đắm trước một đại dương ngôn từ hằng ngày nhận ch́m
chúng ta trong cái xă hội truyền thông đại chúng ngày nay" [John
Paul II, Apostolic Letter
Novo Millennio Ineunte (6 January 2001), 50: AAS 93
(2001), 303]
Niềm Vui
Phúc Âm - Chia Sẻ Kiểm Nghiệm
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Hằng năm, Nhóm Tông Đồ
Chúa T́nh Thương (TĐCTT), một nhóm được h́nh thành để hưởng
ứng và tích cực đáp ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II ngày 17-18/8/2002 ở Balan về sứ vụ làm chứng cho
Ḷng Thương Xót Chúa và loan truyền Ḷng Thương Xót Chúa,
đều thực hiện các cuộc tĩnh tâm về Ḷng Thương Xót Chúa ở
các nơi khác nhau, cùng một chủ đề, và chủ đề cho năm 2014
là "Người động ḷng thương"
(Matheu 9:36
&
14:14; Marco
6 :34 & 1:41; Luca 7:13; Gioan 11:33,35).
Tuy nhiên,
trong các buổi họp định kỳ hằng tháng của nhóm ở những nơi
khác nhau, nhất là ở Nam California, chủ đề này đă được chia
sẻ học hỏi theo từng đề tài một, những đề tài được lấy từ
trong Tông Huấn Niềm Vui - Gaudium Fidei của Đức Thánh Cha
Phanxicô, một văn kiện rất thích hợp với chủ đề "Người động
ḷng thương" của Nhóm TĐCTT cho Năm 2014, một văn kiện ban
hành ngày 24/11/2013, thời điểm kết thúc Năm Đức Tin từ
11/10/2013. Sau đây là các đề tài của từng nhóm và cho từng
lần cùng với các gợi ư mở đầu và chia sẻ chung của anh chị
em tham dự viên trong Tháng 1/2014 (ngày 2, 11 và 16).
Đề tài 1
(đoạn Tông Huấn 53)
"Chính
con người bị coi là những sản vật tiêu thụ được sử dụng rồi
sau đó bị thải đi. Chúng ta đă tạo nên một thứ văn hóa
'disposable - thải trừ' là thứ văn hóa hiện nay đang lan
tràn. Không phải chỉ là vấn đề khai thác và đàn áp mà là một
cái ǵ đó mới mẻ. Vấn đề loại trừ cuối cùng có liên quan tới
những ǵ thuộc về xă hội chúng ta sống; những ai bị loại trừ
không c̣n ở dưới đáy của xă hội hay ở ngoài ŕa của xă hội
hoặc bị tước lột - họ thậm chí không c̣n thuộc về xă hội nữa.
Thành phần bị loại trừ không bị 'khai thác' mà là thành phần
bị ruồng bỏ (outcast), thành phần 'cặn bă dư thừa' (leftover)".
Gợi
ư đầu:
1- Về ư nghĩa của
câu đề tài:
- Ở đây Đức Thánh Cha Phanxicô
nhấn mạnh đến "thành phần bị ruồng bỏ
(outcast), thành phần 'cặn bă dư thừa' (leftover)"
- Theo Đức Thánh Cha, những
người anh chị em này c̣n tệ hơn cả những ai: "ở
dưới đáy của xă hội hay ở ngoài ŕa của xă hội hoặc bị tước
lột"
-
Người "ở dưới đáy của xă hội", như
trường hợp buôn người, buôn gái măi dâm, hay nô lệ t́nh dục
v.v., nhưng vẫn c̣n giá trị lợi dụng;
-
Người "ở ngoài ŕa xă hội", như
trường hợp của những ai di dân hoặc tị nạn bị hất hủi không được
tiếp đón v.v., nhưng vẫn c̣n được thế giới quan tâm;
-
Người "bị tước lột",
như
trường hợp của những ai bị tước đoạt
các thứ quyền làm người v.v., nhưng vẫn c̣n được các cơ quan
nhân quyền bênh vực.
- C̣n
"thành phần bị ruồng bỏ (outcast), thành phần 'cặn bă dư
thừa' (leftover)" là thành phần
"không c̣n thuộc về xă hội nữa".
- Chẳng hạn trường hợp được Đức Thánh
Cha nói đến trong cùng một đoạn 53 của bức Tông Thư:
"Tại sao có thể xẩy ra chuyện một
người già lăo vô gia cư bị chết phơi thây ra đó th́ không
phải là một tin tức cần được loan báo trong khi đó lại loan
tin thị trường chứng khoán xuống 2 điểm chứ? Đó là một trong
trường hợp bị loại trừ".
2- Về cảm nghiệm từ
câu đề tài:
- Muốn biết chúng ta có bị
ảnh hưởng hay lây nhiễm "thứ văn hóa
'disposable - thải trừ' là thứ văn hóa hiện nay đang lan
tràn" này chúng ta hăy căn cứ vào câu ĐTC nói ở đoạn
54 trong cùng Bức Tông Huấn ấy, nguyên văn như sau:
- "Thứ
văn hóa giầu thịnh này đă khiến cho chúng ta trở thành u mê;
chúng ta cảm thấy kích động khi thị trường cống hiến cho
chúng ta một cái ǵ đó mới mẻ để mua; trong khi đó tất cả
những cuộc sống lăn lộn bởi thiếu cơ hội vươn lên chỉ như là
một thứ cảnh tượng bàng quan; chúng không làm cho chúng ta
cảm thấy rung động".
3- Về áp dụng theo câu đề tài
- Căn cứ vào
lời trên đây của ĐTC Phanxicô, vừa có
tính cách cảnh giác vừa kêu gọi, chúng ta hăy tự kiểm xem
trong vấn đề ăn uống, phục sức và đồ dùng của chúng ta, ở
chỗ:
- Khi ăn uống chúng ta có
ăn uống một cách phung phí trong khi có biết bao nhiêu người
anh chị em của chúng ta đang đói khát không có ǵ để ăn để
uống, thậm chí chết đói!
- Khi mua sắm (quần áo,
trang sức hay đồ dùng) chúng ta có thích (hơn là cần) là mua
(chẳng hạn đang có I-phone 4 bỏ đi mua I-phone 5), mua cho
nhiều (rồi không biết ḿnh có bao nhêu, hoặc mặc không hết
hay không biết mặc bộ nào v.v.), trong khi đó biết bao người
không ǵ để mặc, không đồ để xài!
- Nếu chúng ta như "Người động ḷng
thương", chúng ta cần phải ra tay hành động giúp đáp một
cách cụ thể những người anh chị em bị xă hội loại trừ, những
người anh chị em bị coi là phế thải.
- Chúng ta theo tự nhiên dễ động ḷng
thương khi nghe tin một anh chị em homeless ở San Jose
California cuối năm trước bị chết mấy ngày mà không ai biết,
hay có những người anh chị em homeless cũng ở Bắc California
bị chết v́ trời đột nhiên trở lạnh quá sức.
- Chúng ta động ḷng thương thực sự, chứ
không phải chỉ động ḷng thương xuông vậy thôi, ở chỗ mỗi
khi biết được trời trở lạnh quá độ, chúng ta có thể chạy báo
tin cho những người anh chị em homeless của chúng ta để họ
là những người không có phương tiện để theo dơi tin tức biết
mà t́m cách trú ẩn.
- Chúng ta động ḷng thương hơn nữa khi
chúng ta t́m cách đưa những người anh chị em homeless của
chúng ta vào một chỗ trú ẩn an toàn nào đó, kẻo chính họ
cũng không biết đâu mà nương ẩn để thoát khỏi thiên tai khắc
nghiệt.
- Chúng ta động ḷng thương một cách thực
tế và thiết thực rất thích đáng với trường hợp của hầu hết
trong chúng ta đó là chúng ta ăn uống và mua sắm một cách vừa
đáp ứng nhu cầu của ḿnh vừa có thể giúp đáp cho biết bao
người anh chị em bần cùng khốn khổ đang cần chúng ta giúp đáp.
Chia
sẻ chung:
Về người
homeless:
Có những người homeless rất giầu, nhưng
thích sống thoải mái như vậy; hay có những người homeless
rất thành thực, vớ được tiền bạc của ai th́ đi trả lại,
không tham lam; tại Việt Nam một trong những miền nghèo khổ
nhất đó là ở Sapa Miền Bắc gần biên giới Trung Hoa, nơi có
các gia đ́nh anh chị em thiểu số tuy không homeless nhưng
cũng hết sức đáng thương.
Về việc làm từ
thiện:
Chở người quá giang trên xe có thể nguy
hiểm; có người nghèo khổ sử dụng cùng một mánh khóe ở các
nơi khác nhau để làm tiền; tuy nhiên có những trường hợp
thức ăn dư thừa phải đổ đi chứ không được cho dù chính người
nghèo xin, v́ sợ trách nhiệm gây ngộ độc; một khi giúp ai
nên giúp ngay kẻo lỡ cơ hội v́ họ không thể chờ đợi ḿnh
v.v.
Về trường hợp mất
trộm:
Một khi bị mất trộm tất nhiên ai cũng
tiếc xót và giận kẻ trộm, nhưng nên nghĩ rằng nếu họ xin
chắc ḿnh không cho và v́ họ nghèo khổ nên mới lấy trộm th́
thôi kể như tặng cho họ; có trường hợp ăn trộm mà không có
tội, đó là khi ai đó gần chết mà xin chúng ta không cho th́
họ có quyền ăn trộm để có thể sống c̣n, v́ của cải vật chất
là để phục vụ con người chứ không phải con người làm nô lệ
cho vật chất.
Đề tài 2
(đoạn Tông
Huấn 193)
"Chúng
ta hiện thực hóa nhiệm vụ nghe thấy tiếng kêu la của người
nghèo khổ đó là khi chúng ta tỏ ra sâu xa cảm kích trước khổ
đau của người khác".
Gợi ư đầu:
1- Về ư nghĩa
của câu đề tài
- Câu này nghe có vẻ
như b́nh thường và đơn giản, chẳng có ǵ là đặc biệt,
sâu xa và quan trọng cho lắm, thế mà lại liên quan đến
phần rỗ đời đời của Kitô hữu chúng ta đó.
- Câu này có 2 phần rơ
ràng: phần đầu là thái độ "nghe
thấy tiếng kêu la của người nghèo khổ",
và phần sau là phản ứng "sâu
xa cảm kích trước khổ đau của người khác".
- "Tiếng
kêu la của người nghèo khổ" có
thể là h́nh ảnh trên TV về cảnh những trẻ em Phi Châu được
trông thấy toàn thân chỉ là một bộ xương, hay là một mẫu
tin tức về những người homeless bị chết lạnh, hoặc một
lời nhắc khéo của ai đó về người nghèo khi thấy chúng ta
tiêu xài có vẻ xa xỉ hoang phí v.v. Chúng ta có "nghe
thấy" hay chăng? Nếu có th́ phải tiến đến chỗ:
-
"Sâu xa cảm kích trước khổ đau của
người khác",
bằng không, cho dù chúng ta có "nghe
thấy" mà như không nghe, mà chỉ "nghe thấy" cái nhu cầu
cá nhân của ḿnh, chỉ "nghe theo" cái đ̣i hỏi thái quá
và vị kỷ của ḿnh, như trường hợp của người phú hộ trong
Phúc Âm Thánh Luca 16:19-31).
2- Về tác hiệu
của câu đề tài
- Bài Phúc Âm về Lazarô
và người phú hộ cho thấy người phú hộ quả thực có "nghe
thấy tiếng kêu la" của Lazarô, cho dù Phúc Âm
không thuật lại một lời nào của Lazarô ǵ cả, nhưng sự
kiện hiện diện của Lazarô "ở trước cổng" của nhà người
phú hộ cũng đủ là một tiếng "kêu la" vang lừng rồi vậy,
nếu người phú hộ có ḷng thương yêu thật sự.
- Thế nhưng người phú
hộ, "ăn mặc lụa là" và "yến tiệc linh đ́nh" ấy vẫn không "sâu
xa cảm kích trước khổ đau của người khác"
là Lazarô, ở chỗ, cho dù Lazarô
bần cùng đến độ thèm thuồng những mảnh vụn rơi xuống từ
bàn tiệc của người phú hộ mà chẳng ai cho, trái lại, ông
c̣n bị chó đến liếm ghẻ chốc ở trên thân thể của ông,
thế mà người phú hộ vẫn IGNORE Lazarô, vẫn không thèm
lưu ư tới, vẫn lạnh lùng dửng dưng "bay chết mặc bay".
- Bởi thế, mặc dù người
phú hộ may mắn được giầu sang phú quí hơn Lazarô ấy
chẳng hề chửi rủa và hất hủi đuổi Lazarô đi cho khuất
mắt ḿnh, thế mà, sau khi chết, người phú hộ này cũng bị
hư đi đời đời, phải ở một nơi "không thể từ đây (nơi
Lazarô đang hưởng phúc trong ḷng Abraham) qua đó (nơi
người phú hộ đang chịu cực h́nh) hay từ đó qua đây" được
nữa.
- Quả đúng như tiêu
chuẩn chung thẩm của Chúa Giêsu về cả chiên lẫn dê, như
Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại ở đoạn 25, ở chỗ, những
ai tỏ ra cố t́nh KHÔNG (= IGNORE / NEGLECT) với những
người anh chị em hèn mọn của ḿnh sẽ vĩnh viễn hư đi:
KHÔNG cho ăn, KHÔNG cho uống, KHÔNG tiếp rước, KHÔNG cho
mặc, KHÔNG an ủi, KHÔNG thăm viếng, chưa cần phạm những
tội ác như phá thai, hiếp dâm, khủng bố, cướp phá v.v.
- Đó là lư do ngay từ
đầu của mục chia sẻ mới có nhận định là câu "Chúng
ta hiện thực hóa nhiệm vụ nghe thấy tiếng kêu la của
người nghèo khổ đó là khi chúng ta tỏ ra sâu xa cảm kích trước
khổ đau của người khác"
liên quan đến phần rỗi đời đời của chúng ta vậy.
Cha Sẻ Chung:
1- Về những
người anh chị em homeless:
Cho dù có những người
sử dụng tiền bạc chúng ta cho họ để uống rượu hay hút
thuốc, nhưng một số người vẫn cứ cho họ chỉ v́ lương tâm
của ḿnh hơn là căn cứ vào một số người như vậy. Bởi v́
đa số anh chị em nghèo khổ homeless này cũng chỉ v́ bất
đắc dĩ (hoặc v́ một lư do đặc biệt nào đó mà ḿnh không
biết, chẳng hạn một trường hợp cụ thể Chi Hồng kể lại về
người chị biết), và coi thường phẩm giá làm người của
ḿnh để mà đi ăn xin hay sống một cuộc đời bần cùng khốn
khổ như vậy mà thôi. Biết đâu v́ một cử chỉ được giúp
đáp của chúng ta v́ ḷng bác ái mà vào một lần nào đó mà
họ nhận biết Chúa trước khi họ qua đời hay sao v.v.
2- Về những ǵ
để cho:
Không nên cho tiền mà
là cho thực phẩm. Nhưng khi cho thực phẩm th́ đừng cho
họ những ǵ ḿnh thích hay hợp với ḿnh mà lại không hợp
hay chưa chắc đă hợp với người và chưa chắc họ thích dù
họ cần. Có trường hợp cho họ ăn cơm kiểu Việt Nam nhưng
đă hoàn toàn thất bại. Cũng nên pḥng hờ những nhu cầu
bất thường không ngờ khác. Chẳng hạn trong chuyến tặng
quà Giáng Sinh ở Downtown Los Angeles trước Giáng sinh
2013 vừa rồi của Nhóm TĐCTT, có một người nữ Việt Nam
c̣n trẻ đến chẳng những nhận phần quà thực phẩm mà c̣n
xin thêm cả băng vệ sinh đàn bà nữa...
3- Về việc phục
vụ anh chị em nghèo khổ homeless:
Ở West Covina
California, Nhà Thờ Saint Christopher, nơi có cộng đoàn
Công Giáo Việt Nam Thánh Giuse, theo truyền thống từ mấy
năm nay, hằng năm cứ vào dịp Thanksgiving, anh chị em
homeless sẽ được ăn ở trong khu vực nhà xứ 3 tuần lễ
liền cho tới cuối tháng 11, chưa kẻ được tắm rửa và được
có xe chở đi chơi đây đó. Anh chị em trong cộng đoàn
Việt Nam này cũng hợp tác với nhà xứ để phục vụ anh chị
em homeless này tùy theo khả năng và hoàn cảnh của ḿnh.
Cũng tại khu vực gần nhà xứ này, ở ngay bên cạnh, cách 1
con đường, trong khu tiệm dịch vụ, có một bụi cây có một
số anh chị em homeless chui rúc sống ở đó!
4- Về một số
trường hợp homeless thiêng liêng:
Có hai trường hợp về hai
tâm hồn (một Mễ một Việt) đă từng sống đời tội lỗi nay đang
t́m về với Chúa qua việc tỏ ḷng kính mến Đức Mẹ và đọc
Sách Thánh (Mễ) hay thường xuyên tham dự Thánh Lễ mà
chưa được Rước Lễ (Việt). Đây là những tâm hồn mà Chúa
gần gũi nhất, gần gũi nhất không phải như những Kitô hữu có
Ơn Thánh Sủng, mà v́ được Chúa quan tâm đến hơn cả thành
phần công chính tốt lành. Không phải Chúa hằng đi t́m
kiếm từng con chiên lạc như họ, tức đến gần với họ, hơn
là với những người thuộc về 99 con chiên không cần đi
t́m hay sao?
5- Về vấn đề áp
dụng thực hành về đề tài chia sẻ:
Điểm thứ nhất, chúng ta
phải tạ ơn Chúa về tất cả những ǵ Ngài đă ban cho chúng
ta cả hồn lẫn xác may lành hơn nhiều người. Điểm thứ hai,
thế nhưng, theo ư định tối hậu và phổ quát của ḿnh th́
Thiên Chúa ban cho con người ân phúc là để chia sẻ và
phục vụ ích chung chứ không phải để cho riêng một ḿnh
ai. Điểm thứ ba, bởi thế, chúng ta phải làm sao để vừa
hưởng dùng tất cả những ǵ chúng ta có (tức được ban cho) theo đúng như
ư Chúa, ở chỗ phải làm sao để "chúng
ta hiện thực hóa nhiệm vụ nghe thấy tiếng kêu la của
người nghèo khổ đó là khi chúng ta tỏ ra sâu xa cảm kích trước
khổ đau của người khác".
Đề tài 3
(đoạn
Tông Huấn 54)
"Trong việc bảo tŕ một lối
sống loại trừ người khác, hay trong việc bảo tŕ nhiệt
huyết sống cho lư tưởng vị kỷ như thế đă phát triển một
thứ toàn cầu hóa trạng thái dửng dưng lạnh lùng. Hầu như
không thấy được điều ấy, chúng ta tiến đến chỗ không c̣n
cảm thấy thương cảm trước tiếng kêu gào của người nghèo
khổ nữa, không c̣n khóc thương nỗi đớn đau của người
khác và cảm thấy cần giúp đáp họ, như thể tất cả những
sự ấy là trách nhiệm của ai đó chứ không phải của chúng
ta. Thứ văn hóa giầu thịnh này đă khiến cho chúng ta trở
thành u mê; chúng ta cảm thấy kích động khi thị trường
cống hiến cho chúng ta một cái ǵ đó mới mẻ để mua;
trong khi đó tất cả những cuộc sống lăn lộn bởi thiếu cơ
hội vươn lên chỉ như là một thứ cảnh tượng bàng quan;
chúng không làm cho chúng ta cảm thấy rung động".
Gợi ư đầu:
1- Về ư nghĩa của câu đề tài
- Bài
Phúc Âm Thánh Luca đoạn 12 câu 13-21 được chọn đọc trong
đó có lời Chúa dạy cảnh báo liên quan đến số phận
của "kẻ nào thu tích của
cải cho ḿnh mà không lo làm giầu trước mặt Thiên
Chúa th́..."
- Bài
Phúc Âm này có liên quan tới đề tài được chia sẻ,
nhất là câu cuối cùng: "Thứ
văn hóa giầu thịnh này đă khiến cho
chúng ta trở thành
u mê;
chúng ta cảm thấy kích động khi thị trường cống hiến
cho chúng ta một cái ǵ đó mới mẻ để mua; trong khi
đó tất cả những cuộc sống lăn lộn bởi thiếu cơ hội
vươn lên chỉ như là một thứ cảnh tượng bàng quan;
chúng
không làm cho
chúng ta cảm thấy rung động".
- Người
giầu trong bài Phúc Âm đă "trở
thành u mê" đến độ bị Chúa phán là "đồ
ngốc". Thật vậy, về tinh thần và tâm
lư, thường người giầu phải nói là nghèo nhất, v́
ḷng tham vô đáy của họ, bao nhiêu cũng không vừa,
cũng vẫn cứ thiếu thốn và h́nh như càng "đói" khát
hơn bao giờ hết và hơn ai hết, đến độ "ăn" hiếp cả
chính người người nghèo khổ cần họ giúp đỡ và bố thí,
chia sẻ những ǵ họ có được là do Chúa ban hơn là
chỉ do công lao của họ.
1- Về thực hiện theo câu đề tài
- Tuy
chúng ta không nghèo khổ và homeless thực sự như
nhiều anh chị em của chúng ta mà chúng ta biết được
hay gặp thấy, chúng ta vẫn c̣ thể sống tinh thần
nghèo khổ và homeless ở một nghĩa nào đó, một lúc
nào đó, một chỗ nào đó. Chẳng hạn sống thiếu thốn
như người nghèo khổ, thay v́ bỏ tiền mua sắm đồ dùng
và đồ đạc đầy đủ tiện nghi, th́ sử dụng những thứ
vừa phải hay tầm thường hơn, hoặc chịu khó mất giờ
và mất công hơn v.v.
-
Chúng ta cứ hưởng dùng những ǵ Chúa ban cho chúng
ta nhưng chúng ta vẫn không quên anh chị em bất hạnh
của ḿnh, vẫn lưu ư tới những người anh chị em nghèo
khổ thiếu thốn bần cùng của chúng ta, để làm sao
chúng ta vẫn sống một cách công bằng với họ, ở chỗ
không xa xỉ, không sang trọng, không dư thừa v.v.
trong khi nhiều người anh chị em của chúng ta thật
sự đang sống trong cảnh túng thiếu và bần cùng cả về
thể lư lẫn tâm lư.
Chia sẻ chung:
1-
Câu truyện người nhà giầu trong bài Phúc Âm và gợi ư
đầu liên quan đến khuynh hướng tham lam của người
giầu có trong xă hội quả thực xẩy ra ở Orange County
California liên quan đến một người Việt Nam ở Mỹ
khoảng 10 năm nay, nhà ở giá cả mấy triệu đôla,
nhưng keo kiệt đến độ thuê một anh Mễ bị tật ở tay
cắt cỏ hằng tuần cho một căn nhà rộng lớn rất mất
công mà anh đ̣i 75 Mỹ kim một tuần mới đáng công và
bơ công, th́ người gia chủ giầu có này chẳng những
đă hạ xuống c̣n 60 Mỹ kim mà c̣n muốn anh làm thêm
đủ thứ khác cho vườn của ḿnh nữa v.v.
2-
Hăy cho bằng tất cả tấm ḷng thương người thực sự
của ḿnh và bởi thế phải cho làm sao (bao gồm cả của
cho lẫn cách cho) thật là xứng đáng với nhân phẩm
làm người của thành phần anh chị em nghèo khổ đáng
thương chúng ta.
3-
Theo nguyên tắc phổ quát này, th́ đừng mang cho
những đồ ăn dư thừa, ăn không hết, để mấy ngày đến
gần thiu, mà đổ đi th́ tiếc và sợ tội nên đem cho
người nghèo đói. Việc làm này có thể nói là một hành
động coi người anh chị em nghèo đói của ḿnh chỉ là
đồ dư thừa trong xă hội, chỉ đáng ăn những thứ dư
thừa của ḿnh mà thôi.
4- Để
tránh điều này th́ đừng nấu dư quá, nếu lỡ dư th́ cố
mà ăn từ từ đến hết cho dù không thích, thậm chí cho
dù ḿnh có nhỡ bị đau bụng, c̣n hơn đối xử với người
khác như thứ đồ bỏ và c̣n làm cho họ bị đau bụng
thay ḿnh nữa.
5-
Tuy nhiên, những đồ dư thừa khác trong nhà, c̣n
nguyên trong bịch, trong bao, trong loong v.v., c̣n
xài được, c̣n dùng được, hay quần áo cũ được giặt
sạch sẽ, vẫn có thể mang cho, nhưng chớ nói theo
thói quen cụm từ "phát quà cho người nghèo"
(distribution of gift to the poor) mà là "tặng quà"
(presentation of gift to the poor) cho có vẻ trân
trọng và tỏ ra quí mến những người anh chị em ḿnh
chia sẻ những ǵ có thể.
6-
Đừng bao giờ nhân danh việc bác ái để lỗi đến chính
đức bái ái, chẳng hạn tranh giành nhau gây quĩ một
cách vô kỷ luật hay đấu đá nhau v́ quyền lợi, hoặc
nói xấu nhau khi bị động đến quyền lợi của ḿnh, hay
tỏ ra ghen tị với quyền lợi và mối lợi hơn của người
khác; và nhất là đừng bao giờ nhân danh người nghèo,
nhất là thành phần nạn nhân bị thiên tai để làm tiền,
để thủ lợi, để moi tiền từ những tấm ḷng hảo tâm
đóng góp dâng cúng cứu trợ v.v.
Hy vọng những
gị chất chứa trong bài viết được trở thành diễn đàn
chung này, dù liên quan đến
một nhóm anh chị em Công giáo,
cũng mang lại phần nào lợi ích sống đạo cho một số tâm hồn
nào chưa có dịp đọc Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm và áp dụng những
ǵ được kêu gọi và phấn khích từ chính Vị Đại Diện Chúa Kitô
trên trần gian rất khẩn trương vào lúc này đây, để mỗi người
đều thực sự cảm thấy Niềm Vui Phúc Âm nhờ đó chia sẻ cho mọi
người anh chị em của ḿnh Niềm Vui Phúc Âm của Chúa!
- "Tôi mời
gọi tất cả mọi Kitô hữu, ở khắp mọi nơi, vào chính lúc này
đây, hăy thực hiện một cuộc tái tấu gặp gỡ riêng tư với Chúa
Giêsu Kitô, hay ít là hăy cởi mở để cho Người gặp gỡ ḿnh.
Tôi xin tất cả anh chị em hăy không ngừng làm như thế mỗi
ngày. Không ai được nghĩ rằng lời mời gọi này không nhắm đến
họ, v́ 'không ai bị loại trừ ra khỏi niềm vui được Chúa mang
đến cho'
[Paul VI,
Apostolic Exhortation
Gaudete in
Domino
(9 May 1975), 22: AAS
67 (1975), 297.]"
(khoản 3);
- "Chỉ nhờ có cuộc gặp gỡ này - hay
cuộc tái tấu gặp gỡ - với t́nh yêu của Thiên Chúa, một cuộc
gặp gỡ làm bừng nở một thứ thân t́nh phong phú, chúng ta mới
được giải phóng khỏi cảnh hạn hẹp và bám chặt lấy bản thân
ḿnh của chúng ta… V́ nếu chúng ta đă lănh nhận được thứ
t́nh yêu phục hồi ư nghĩa cho cuộc sống của chúng ta th́ tại
sao chúng ta lại không chia sẻ t́nh yêu ấy cho người khác
chứ?" (khoản 8).