Cập
nhật: 12:19 GMT - thứ
năm, 6 tháng 2, 2014
Phi cơ Trung Quốc tập cất cánh trên chiến hạm ngoài khơi
Phát
biểu tại một hội nghị về an ninh
quốc tế ở thành phố Munich, nước
Đức, gần đây cựu Ngoại trưởng
Mỹ Henry Kissinger cho rằng
xung đột quân sự có thể xảy ra
tại châu Á.
Trong một bài viết trên nhật
báo The Telegraph ở Anh ngày
06/01/2014, John Everard, cựu
Đại sứ Anh ở Bắc Hàn, đă so sánh
t́nh h́nh tại Á Đông năm 2014
với bối cảnh châu Âu năm 1914 –
khi một nước Đức đang nổi (cũng
giống như Trung Quốc bây giờ)
t́m cách thay đổi hiện trạng để
khẳng định vị thế của ḿnh. Thái
độ ấy của nước Đức lúc bấy giờ
đă đẩy châu Âu và thế giới vào
Thế chiến thứ nhất.
Nhưng đó không phải là lần
đầu tiên các chính trị gia ngoài
châu Á cảnh báo nguy cơ xung đột
ở đây. Chẳng hạn, trong một bài
phát biểu tại Đại học Zurich,
Thụy Sĩ vào tháng 11/2011, Chủ
tịch Liên hiệp châu Âu (EU)
Herman Van Rompuy đă chỉ ra tâm
lư đối đầu và chi tiêu lớn cho
quốc pḥng của các nước khu vực.
Theo ông hai khuynh hướng đó
là nguyên nhân sâu xa có thể dẫn
đến một cuộc chạy đua vũ trang
toàn diện ở châu Á. Ông cũng nêu
rằng nếu trong thế kỷ trước châu
Âu là đại lục nguy hiểm nhất và
là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc
thế chiến, giờ mọi sự chú ư của
giới quan sát và các nhà chiến
lược lại hướng về những diễn
biến gần đây tại châu Á.
"Trong
thế kỷ trước
châu Âu là
đại lục nguy
hiểm nhất và
là nguyên
nhân dẫn đến
hai cuộc thế
chiến, giờ
mọi sự chú ư
của giới
quan sát và
các nhà
chiến lược
lại hướng về
những diễn
biến gần đây
tại châu Á."
Chủ tịch
EU
Herman
Van
Rompuy
Với những nhận xét như vậy,
Chủ tịch EU muốn cảnh báo rằng
nếu t́nh trạng đối đầu và chạy
đua vũ trang cứ tiếp diễn, châu
Á có thể rơi vào xung đột, thập
chí phải đối diện với những cuộc
chiến như châu Âu đă từng nếm
trải trong thế kỷ vừa qua.
Nếu quan sát những ǵ diễn ra
tại châu Á và Đông Á nói riêng
trong những năm vừa qua – đặc
biệt t́nh trạng căng thẳng và
đối đầu giữa Trung Quốc và Nhật
Bản trong thời gian gần đây –
chắc ai cũng có thể nhận ra rằng
hai khuynh hướng đó ngày càng
gia tăng và đáng lo ngại.
Câu hỏi được đặt là tại sao
hai khuynh hướng ấy càng ngày
càng mạnh tại châu Á và liệu
chúng có dẫn châu lục này vào
một cuộc xung đột quân sự như
ông Henry Kissinger cảnh báo?
Căng thẳng, đối đầu do đâu?
B52
bay trên vùng pḥng
không Trung Quốc công bố
trên biển Hoa Đông hôm
27/11/2013.
Có rất nhiều nguyên nhân –
trực tiếp hay gián tiếp – dẫn
đến t́nh trạng căng thẳng, đối
đầu giữa Trung Quốc và Nhật Bản
trong thời gian qua.
Một trong những nguyên nhân
ấy là các hiềm khích lịch sử để
lại. Thời gian gần đây những hận
thù quá khứ ấy không chỉ không
được gạt bỏ mà c̣n được khơi dậy.
Cụ thể, các cuộc ‘khẩu chiến’
mới đây giữa hai quốc gia này
đều liên quan đến chiến tranh
trong quá khứ.
Trong khi Bắc Kinh buộc Chính
phủ Nhật phải xin lỗi về những
‘tội ác chiến tranh’ trước
đây, Tokyo lại cho rằng họ đă
nghiêm túc giải quyết chuyện
quá khứ của ḿnh.
Yếu tố khác làm khơi dậy
những nghi kỵ quá khứ và gia
tăng căng thẳng giữa hai nước
láng giềng là chủ nghĩa dân tộc
hẹp ḥi – nếu không muốn nói là
hơi quá khích – càng ngày càng
trở nên phổ biến và thậm chí
được khuyến khích tại Nhật Bản
và Trung Quốc. Chuyện Thủ tướng
Shinzo Abe tới thăm đền Yasukuni
– nơi thờ những binh sĩ Nhật tử
trận trong thời chiến, trong đó
có một số tội phạm chiến
tranh của Nhật trong Thế
chiến thứ hai – và việc Trung
Quốc nổi giận lên án chuyến thăm
của ông Abe chứng minh điều đó.
Một lư do nữa – dù ít được
giới quan sát, phân tích nhắc
đến – ít hay nhiều khiến Trung
Quốc có thái độ mạnh bạo, nếu
không muốn nói là khá hung hăng,
với Nhật Bản và một số nước khu
vực khác là Trung Quốc vẫn là
một quốc gia độc đảng.
Nếu là một quốc gia dân chủ,
có thể Trung Quốc không có những
hành động hung hăng, bành trướng
– như đơn phương đưa ra đường
lưỡi ḅ hay áp đặt vùng nhận
dạng pḥng không – như nước này
đă tiến hành.
"Ông
Tập theo
đuổi ‘Giấc
mơ Trung Hoa’
một phần
cũng v́ sự
trỗi dậy của
Trung Quốc.
Và đây là
một nguyên
nhân quan
trọng nữa
dẫn đến t́nh
trạng căng
thẳng, đối
đầu giữa Bắc
Kinh và
Tokyo"
Ba lư do trên ít hay nhiều
được thể hiện qua ‘Giấc mơ Trung
Hoa’ mà ông Tập Cận B́nh khởi
xướng. Phần v́ cảm thấy đất nước
ḿnh bị làm nhục trong quá khứ,
phần v́ thấy chủ nghĩa Mác-Lê
càng ngày càng mất chỗ đứng tại
Trung Quốc, giới lănh đạo ở Bắc
Kinh đang t́m cách khơi dậy ḷng
tự tôn dân tộc nơi người dân để
tiến hành ‘cuộc phục hưng vĩ đại’
và cũng qua đó có thể duy tŕ,
củng cố tính chính danh cho ḿnh.
Ông Tập theo đuổi ‘Giấc mơ
Trung Hoa’ một phần cũng v́ sự
trỗi dậy của Trung Quốc. Và đây
là một nguyên nhân quan trọng
nữa dẫn đến t́nh trạng căng
thẳng, đối đầu giữa Bắc Kinh và
Tokyo. Nhờ sự lớn mạnh về kinh
tế, Trung Quốc càng ngày càng
hiện đại hóa quân đội và công
khai phô trương sức mạnh quân sự
của ḿnh. Chính điều này đă làm
Nhật Bản và các nước khu vực
khác quan ngại và buộc họ phải
thay đổi chiến lược quân sự hay
tăng cường quốc pḥng để pḥng
vệ hoặc để đối trọng với Trung
Quốc.
Một lư do khác làm tăng sự
hiềm khích, căng thẳng giữa
Trung Quốc với Nhật Bản và một
số quốc gia trong vùng là tại
đây có nhiều tranh chấp về lănh
thổ, lănh hải tồn tại từ lâu và
chưa được giải quyết thỏa đáng.
Có thể nói không có khu vực hay
châu lục nào phải đối diện với
nhiều tranh chấp về chủ quyền
như châu Á và Đông Á nói riêng.
Và quốc gia có nhiều tranh chấp
lănh thổ, lănh hải nhất trong
khu vực là Trung Quốc.
Hơn nữa, vùng biển tranh chấp
là vùng biển quan trọng cả về
kinh tế và chiến lược. Chẳng
hạn, Biển Đông – nơi Trung Quốc
có tranh chấp chủ quyền với một
số nước ASEAN, trong đó có Việt
Nam – không chỉ giàu tài nguyên
thủy sản, nhiều khoáng sản, nhất
là dầu khí, mà c̣n là một trong
những tuyến đường hàng hải quốc
tế chính yếu. Kiểm soát được
vùng biển này Trung Quốc sẽ có
rất nhiều thuận lợi để thực hiện
giấc mơ bá quyền, bá chủ (khu
vực) của ḿnh.
Thái độ mạnh bạo của Trung
Quốc?
Nhật
Bản tăng cường pḥng
không và quân sự trong
khi tiến hành các điều
chỉnh về chính sách quốc
pḥng.
V́ những lư do trên, trong
thời gian gần đây Bắc Kinh đă có
nhiều động thái khá hung hăng và
chính tham vọng bành trướng, bá
quyền, bá chủ khu vực ấy của họ
đă làm Nhật Bản cũng như nhiều
nước khác trong vùng quan ngại
và buộc các quốc gia này phải
lên tiếng hay thay đổi chính
sách quốc pḥng để nhằm đối phó
với Trung Quốc.
Điều đó cho thấy, dù có thể
có những yếu tố khác tác động –
như chuyện Thủ tướng Abe đi thăm
đền Yasukuni hoặc quyết định
thay đổi chính sách quốc pḥng
của ông – Trung Quốc là quốc gia
chính gây nên những căng thẳng,
đối đầu hay chạy đua vũ trang ở
Đông Á gần đây.
"Dù
muốn hay
không, Nhật
Bản và nhiều
nước khác
không thể
thụ động
ngồi im
chứng kiến
Trung Quốc
phô trương
sức mạnh
quân sự và
bất chấp
công luận,
luật pháp
quốc tế đơn
phương đưa
ra đường
lưỡi ḅ, áp
đặt vùng cấm
bay hay vùng
đánh bắt cá
tại các vùng
biển thuộc
chủ quyền
của ḿnh."
Vào tháng 12 năm ngoái, sau
khi Thủ tướng Nhật tuyên bố gia
tăng ngân sách quốc pḥng, Bắc
Kinh đă cáo buộc Tokyo viện cớ
an ninh quốc gia để mở rộng quân
đội và cho rằng hành động ấy sẽ
làm gia tăng căng thẳng trong
khu vực.
Nhưng có thể nói chính những
động thái gần đây của Trung Quốc
đă buộc Nhật Bản phải thay đổi
chính sách quốc pḥng để có thể
chủ động đối phó với Trung Quốc.
Nằm cạnh một quốc gia đang từng
ngày lớn mạnh và đặc biệt khi
quốc gia ấy lại có những động
thái mạnh bạo, hung hăng, việc
các nước láng giềng đang có
tranh chấp lănh hải với Bắc Kinh
như Nhật Bản gia tăng quốc pḥng
hay thay đổi chiến lược quốc
pḥng cũng là chuyện dễ hiểu.
Trong một bài viết trên
Bloomberg ngày 29/12/2013,
Kishore Mahbubani – Hiệu trưởng
trường Chính sách công Lư Quang
Diệu, thuộc Đại học Quốc gia
Singapore và là cựu Đại sứ
Singapore tại Liên Hợp Quốc –
nhận định rằng Tokyo rất quan
ngại về thái độ hung hăng của
Bắc Kinh và cho rằng Trung Quốc
càng gây hấn, Nhật càng nhanh
chóng tăng cường khả năng quân
sự của ḿnh và củng cố liên minh
với Mỹ và các nước khu vực khác.
Đúng vậy, dù muốn hay không,
Nhật Bản và nhiều nước khác
không thể thụ động ngồi im chứng
kiến Trung Quốc phô trương sức
mạnh quân sự và bất chấp công
luận, luật pháp quốc tế đơn
phương đưa ra đường lưỡi ḅ, áp
đặt vùng cấm bay hay vùng đánh
bắt cá tại các vùng biển thuộc
chủ quyền của ḿnh.
Lănh
đạo TQ đang nuôi 'Giấc
mơ Trung Hoa' khi nước
này trên đà trỗi dậy
Điều đáng nói là căng thẳng
giữa Trung Quốc và Nhật Bản
không chỉ diễn ra trong giới
lănh đạo mà c̣n ở được thể hiện
qua thái độ của người dân. Theo
kết quả thăm ḍ dư luận mới đây
của Pew Research Center – một
trung tâm chuyên về thăm ḍ dư
luận quốc tế đặt tại Thủ đô
Washington, Mỹ – chỉ có 5% người
Nhật được hỏi có thái độ tốt với
Trung Quốc trong khi đó có đến
90% người Trung Quốc không có
thiện cảm với Nhật.
Cũng theo kết quả của trung
tâm này, năm 2007 có đến 29%
người Nhật có thiện cảm với
Trung Quốc nhưng năm 2013 con số
đó chỉ là 5%. Điều này cũng
chứng tỏ rằng những động thái
của Trung Quốc trong những năm
qua có tác động rất lớn đến dư
luận người Nhật. Một kết quả
khác cũng đáng nêu lên là có đến
96% người Nhật và 91% người Hàn
Quốc được hỏi cho rằng sự lớn
mạnh của Trung Quốc không tốt
cho đất nước của họ.
Đối đầu sẽ dẫn đến xung đột?
Có thể nói kể từ khi kết thúc
Chiến tranh lạnh tới nay, chưa
lúc nào Đông Á rơi vào t́nh
trạng căng thẳng, đối đầu như
hiện nay. Tuy vậy, một cuộc xung
đột vũ trang giữa Trung Quốc và
Nhật Bản hay giữa Trung Quốc và
một quốc gia khu vực nào đó khó
có thể xảy ra – ít nhất là trong
những năm tới.
"Một
trong những
lư do xung
đột quân sự
như vậy khó
diễn ra
trong thời
gian tới là
v́ Trung
Quốc và Nhật
Bản phụ
thuộc vào
nhau rất
nhiều về mặt
kinh tế.
Hiện tại
Nhật Bản là
đối tác
thương mại
lớn thứ ba
của Trung
Quốc và
Trung Quốc
là đối tác
thương mại
lớn nhất của
Nhật."
Một trong những lư do xung
đột quân sự như vậy khó diễn ra
trong thời gian tới là v́ Trung
Quốc và Nhật Bản phụ thuộc vào
nhau rất nhiều về mặt kinh tế.
Hiện tại Nhật Bản là đối tác
thương mại lớn thứ ba của Trung
Quốc và Trung Quốc là đối tác
thương mại lớn nhất của Nhật.
Ước tính kim ngạch mậu dịch giữa
hai nước lên tới 340 tỷ đôla. V́
vậy, bất cứ một cuộc xung đột
nào sẽ gây hậu quả nghiêm trọng
đến kinh tế hai nước. Giới phân
tích thường nêu lập luận này để
loại trừ khả năng xung đột vũ
trang Trung-Nhật.
Về phía Trung Quốc, dù đang
trở thành cường quốc thứ hai thế
giới và số một khu vực về quân
sự và có những động thái mạnh
bạo trong thời gian qua, có thể
giới lănh đạo nước này vẫn chưa
muốn hay không thể có một hành
động khiêu chiến nào đó lúc này
v́ nếu làm như vậy Trung Quốc sẽ
chịu rất nhiều tổn thất. Như bài
viết của John Everard nhận định,
nếu một cuộc xung đột vũ trang
giữa Trung Quốc với Nhật hay một
quốc gia nào đó trong khu vực
xảy ra, Mỹ sẽ vào cuộc v́
Washington đă thiết lập các liên
minh quân sự với Nhật và nhiều
nước trong vùng. Đây là một điều
Bắc Kinh không muốn.
Hơn nữa, ngoài Bắc Hàn và một
số ít quốc gia khác như
Pakistan, đến giờ Trung Quốc vẫn
không có nhiều đồng minh tại
châu Á và hầu hết các nước trong
khu vực đều có tranh chấp lănh
thổ với Trung Quốc.
Do vậy, nếu Bắc Kinh tiến
hành một cuộc chiến hay có một
hành động hung hăng quá trớn nào
đó lúc này, không chỉ Mỹ vào
cuộc mà các nước trong khu vực
cũng sẽ liên minh với nhau để
đối phó với Trung Quốc. Chẳng
hạn, trước những động thái gần
đây của Bắc Kinh, một ủy ban
thuộc Chính phủ Nhật dự kiến kêu
gọi nước này cho phép quân đội
giúp đỡ các đồng minh trong khu
vực nếu các đồng minh bị tấn
công.
Hàn
Quốc đang điều chỉnh
chiến lược quân sự ở khu
vực trong lúc tiếp tục
đối phó với Bắc Hàn.
Và trên hết, Mỹ, Liên hiệp
châu Âu và cộng đồng quốc tế nói
chung và các nước khác tại Đông
Á nói riêng cũng hiểu rơ rằng
một cuộc xung đột vũ trang giữa
Trung Quốc và Nhật sẽ tác động
xấu lên nền kinh tế thế giới và
có thể đẩy đưa không chỉ Đông Á
mà cả thế giới vào một cuộc
chiến. Do đó, không ai muốn
chuyện đó xảy ra và sẽ t́m cách
ngăn ngừa nó.
Không loại trừ hoàn toàn
xung đột
Nói thế không có nghĩa là
loại trừ hoàn toàn khả năng xung
đột quân sự tại Đông Á. Chẳng
hạn, trong một bài viết được
đăng trên Tạp chí Foreign Policy
hôm 04/10/2012, Michael Auslin
nhắc lại rằng vào năm 1909,
Norman Angell – một chính trị
gia người Anh và cũng là một nhà
báo – quả quyết rằng v́ phụ
thuộc lẫn nhau về kinh tế, các
nước châu Âu không thể đánh
chiếm lẫn nhau. Nhưng chỉ năm
năm sau đó, chiến tranh bùng nổ
tại châu lục này.
Một bài viết của Michael
Crowley trên tạp chí Time ngày
02/12/2013 cho rằng v́ những
hiềm khích quá khứ và đối đầu
hiện tại giữa Trung Quốc và Nhật
Bản một cuộc chiến có thể xảy ra.
"Khác
hẳn với châu
Âu và thậm
chí cả châu
Phi, châu Á
không có một
cơ chế nào
có thể giúp
giải quyết
ổn thỏa
tranh chấp,
xung đột
giữa các
nước"
John
Everard,
cựu Đại
sứ Anh ở
Bắc Hàn
Dù không nghĩ những căng
thẳng, tranh chấp hiện tại sẽ
biến thành một cuộc đối đầu quân
sự, John Everard nhận định rằng
những tranh chấp ấy cũng không
thể giải quyết một cách ḥa b́nh
trong tương lai ngắn và như vậy
căng thẳng, đối đầu sẽ tiếp diễn.
Một lư do ông đưa ra là khác hẳn
với châu Âu và thậm chí cả châu
Phi, châu Á không có một cơ chế
nào có thể giúp giải quyết ổn
thỏa tranh chấp, xung đột giữa
các nước.
Nhận định ấy ít hay nhiều có
cơ sở v́ đến giờ các cơ chế như
Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF),
Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS)
hay Hội nghị bộ trưởng quốc
pḥng ASEAN mở rộng (ADMM+) – ba
diễn đàn quy tụ 10 nước ASEAN,
Mỹ, Nga và các nước lớn trong
khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản,
Ấn Độ, Hàn Quốc – được các nước
ASEAN khởi xướng để đối thoại về
các vấn đề an ninh khu vực không
làm giảm hay giải quyết được các
tranh chấp, căng thẳng ở Đông Á.
V́ vậy, dù xung đột vũ trang
khó hay không xảy ra – như
Michael Auslin đă từng dự đoán
cách đây gần hai năm – những
căng thẳng, đối đầu hiện tại có
thể đây đưa châu Á vào ‘một cuộc
chiến tranh lạnh’ trong những
năm hay thậm chí những thập niên
tới. Và điều này cũng có nghĩa
là khu vực này vẫn phải luôn đối
diện với nhiều nguy cơ xung đột,
bất ổn.
Bài viết phản ánh quan
điểm riêng và lối hành văn của
tác giả, một người đang làm
nghiên cứu tại Global Policy
Institute, London.
BBC