|
|
THẦN HỌC GIẢI PHÓNG ĐI VỀ ĐÂU?
tác giả: Kevin P. Higgins
Tác giả là một linh mục Ḍng Tên, đang dạy triết học tại Đại Học
Công Giáo thành phố Asunción bên Paraguay. Đây là bài viết nguyên
văn tiếng Anh, tựa đề "Liberation Theology and the New World Order'"
đăng trong tạp chí America 16 (Nov.1990)389-393.
Giải Phóng Hay Giải Ḥa
Hiện nay, tại Châu Mỹ Latinh cũng như tại Bắc Mỹ và Châu Âu, đang
đọc thấy một số sách báo đưa ra những lời giải thích cho thái độ
thắc mắc hỏi rằng: "Thần học giải phóng đă sẩy chân những bước lầm
lỡ nào?"
Phần đông các tác giả cứ đinh ninh rằng v́ chủ nghĩa Mác Lê đă sụp
đổ, th́ thần học giải phóng cũng phải sụp đổ theo, và họ đang ra sức
chứng minh như thế. Họ thường nhắc đến các biến cố như: nhân dân các
nước Đông Âu khởi nghĩa chống cộng sản; nhà cầm quyền Trung Quốc tàn
sát sinh viên chống đối đ̣i phải thực thi dân chủ; nhân dân xứ
Nicaragua bỏ phiếu tẩy chay cách mạng xă hội chủ nghĩa Sanđinô; xứ
Cuba ngày càng bị cô lập và thất thế. Họ cho rằng tất cả những sự
kiện đó hẳn phải làm cho thần học giải phóng mất hết uy tín và ảnh
hưởng.
Cũng có những tác giả c̣n lên án thần học giải phóng, cho rằng nền
thần học này là nguyên nhân chính làm cho Giáo hội Công giáo phải
rơi vào t́nh trạng thoái bộ, và đồng thời c̣n làm cho đà tiến phát
của các giáo phái cuồng tín tăng lên rất nhanh khắp nơi trong Châu
Mỹ Latinh.
Các lời phê b́nh nói trên, thường dựa vào những lư lẽ có tính cách
giả định, chứ không bao giờ được chứng minh cho chỉnh cả; và nếu xét
kỹ, th́ sẽ thấy rơ đó là những lư lẽ hoàn toàn vô căn cứ. Đáng lo
hơn nữa là gần đây, văn pḥng Hội Đồng Tư Vấn Các Giám Mục Châu Mỹ
Latinh (CELAM) đă bắt đầu ủng hộ và cổ vũ một trào lưu gọi là "thần
học ḥa giải," v́ cho rằng con đường ḥa giải th́ chắc chắn hơn con
đường giải phóng, và không đ̣i hỏi phải đổi mới xă hội tận gốc rễ,
như thần học giải phóng thường đ̣i hỏi. Đối với nhiều người, thần
học ḥa giải chỉ nhằm mục đích chống lại, chứ không phải là tiếp nối
con đường của thần học giải phóng: không biết nhận định như thế có
chính xác hay không.
Những Thiếu Sót Của Thần Học Giải Phóng
Phải nh́n nhận rằng chính các nhà thần học giải phóng thực đă
làm dấy lên những phản ứng chống lại thần học giải phóng, và làm cho
nền thần học này phải lâm vào t́nh trạng như đang thấy hiện nay.
Ngay từ trước khi các biến cố bên Đông Âu xảy ra, thần học giải
phóng cũng đă cho thấy những triệu chứng kiệt sức và đang đi xuống.
Cách đây 20 năm, đó là một trào lưu thần học đầy nhựa sống, muốn
đương đầu với thách đố đem Tin Mừng hội nhập vào trong những cảnh
trạng đói khổ và bạo lực; nhưng nay th́ tỏ ra là đă lỗi thời, sa lầy
vào trong một thứ ṿng luẩn quẩn: không có thêm được một bộ mặt mới
mẻ trẻ trung nào, và những người đi trước, của thời cách đây 20 hay
15 năm, th́ h́nh như không c̣n nghĩ ra được ǵ mới mẻ đáng viết lên,
mà chỉ lặp lại những tư tưởng cũ của ngày xưa không thôi.
Các nhà thần học giải phóng lănh đạo về mặt tư tưởng đă biến thành
những nhân vật tiếng tăm, nhưng họ lại măi bận bay đi khắp nơi trên
thế giới để thuyết tŕnh, để hội thảo, đến độ làm cho nhiều người
phải đặt câu hỏi nghi ngờ không biết chính bản thân họ có thực sự
quan tâm đến dân nghèo hay không? và nếu có, th́ tới mức độ nào? Mỉa
mai nhất là trong chuyến viếng thăm Liên Xô và một số nước Đông Âu
vài ba tháng trước khi các dân tộc vùng này khởi nghĩa lật đổ các
chế độ xă hội chủ nghĩa, một nhà thần học giải phóng người gốc
Brazil, lớn tiếng tuyên bố rằng quả là tại những nơi ấy, ḿnh đă
được tận mắt nh́n thấy thiên đàng của giới lao động! Tuy nhiên,
không phải luôn luôn và tất cả đều như vậy; chẳng hạn như trường hợp
sau đây: mùa hè năm 1990, linh mục Gustavo Gutiérrez, được coi là
cha đẻ của thần học giải phóng, đă viết thư đến người tổ chức đại
hội thần học quốc tế nhóm họp tại Louvain (Bỉ) để long trọng cáo lỗi
v́ không đến tham dự được bởi bận tổ chức một cuộc phát thực phẩm
khẩn cấp cho giáo dân đói kém trong họ đạo của ḿnh, tại Perù.
Có một hiện tượng khác c̣n đáng quan ngại hơn và c̣n trọng yếu hơn
hẳn cái ngốc nghếch ngớ ngẩn của một thiểu số các nhà trí thức (hiện
tượng đó cũng chẳng có ǵ là mới mẻ cả!), đó là: đă vô phương cứu
chữa, t́nh trạng của đa số dân nghèo tại Châu MỸ Latinh lại c̣n sa
sụp thê thảm hơn nữa trong ṿng 20 năm vừa qua. Những trận đấu khẩu
hiệu giữa phe tả và phe hữu đă biến thành những trận đánh bằng súng
bằng đạn; và thành quả duy nhất trông thấy được là số xác chết của
người dân cứ chồng chất thành đống ngày càng cao hơn.
Một điều đáng tiếc là tệ nạn chia rẽ ngày càng lan dần sang cả bên
phía Giáo hội: mối xung khắc giữa "giáo hội nhân dân" và "giáo hội
phẩm trật" ngày một căng thẳng thêm, làm cho cộng đoàn tín hữu suy
yếu dần đi, không c̣n có sức để góp phần hữu hiệu vào trong công tác
đổi mới xă hội. Ngôn ngữ đôi bên dùng để đấu tố nhau, nghe ra ngày
càng chướng tai. Phái "bảo thủ" và phe "cấp tiến" kết án coi nhau là
"bù
nh́n thối nát của đế quốc," là "khí cụ ngu xuẩn của chủ nghĩa Mác
Lê."
Tại xứ Colombia, một đơn vị du kích, do một linh mục người Tây Ban
Nha chỉ huy, đă hănh diện lănh trách nhiệm ám sát một vị giám mục!
Trong bầu khí cố chấp, không đội trời chung như thế, khó mà nói lên
được những lời khôn lẽ phải, bởi v́ hễ ai nói như vậy, th́ sẽ tức
khắc bị kết án là người bỏ cuộc, đầu hàng, trốn chạy. Và rồi cứ như
lệ thường, phải chịu thiệt tḥi và thiệt hại lớn nhất là người dân
nghèo.
Tuy nhiên, ngay cả thần học giải phóng cũng bị thiệt hại. Một khi đă
đ̣i phải chấp nhận hoặc phủ nhận vô điều kiện, một lập trường, một
quan điểm, th́ không c̣n bàn căi, đắn đo ǵ được nữa. Sự việc xảy ra
như cơm bữa, là: những khi hai bên thảo luận với nhau, dù đă đề xuất
những tư tưởng khá tốt đẹp, th́ rồi cũng chẳng đi được tới đâu, v́
chỉ biết lặp đi lặp lại những khẩu hiệu phe đảng trống rỗng. Có
người lại chỉ biết nh́n thực tế theo những nhăn quan quá khích để
chỉ thấy là hoàn toàn đen hoặc là hoàn toàn trắng, chứ không biết
lưu ư đến toàn bộ các khía cạnh phức tạp trong cuộc sống. Không
thiếu chi những người dù chưa bao giờ đọc hoặc biết đến tác phẩm của
các nhà thần học giải phóng và dù chỉ mới biết qua "nghe nói," th́
cũng đă hết lời ca tụng họ; thế là v́ đối với những người này, h́nh
như điều quan trọng hơn cả là việc đứng về phe của ḿnh, và thuộc
ḷng tất cả những khẩu hiệu bè đảng của phe ḿnh.
Nếu đă có những lực lượng gian ác ngấm ngầm gây thêm chia rẽ trong
Giáo hội để mọi người quên đi các vấn đề cụ thể của dân nghèo, th́
chắn chắn bây giờ họ hết sức bằng ḷng và có thể tự hào là đă thành
công rực rỡ. Nhiều lúc, các tín hữu phân vân không hiểu được nổi tại
sao các nhà trí thức trong Giáo hội lại đi đánh đấm lẫn nhau. Ngay
cả báo chí quốc tế cũng bị lừa: các nhà báo thường viết những bài
báo nói là các nhà thần học giải phóng bị "Ṭa Thánh bách hại," chứ
không ai nói chi tới những cuộc vật lộn, nhiều khi vô vọng, của dân
nghèo để sống c̣n. Trường hợp xứ El Salvador: chỉ sau vụ 6 linh mục
Ḍng Tên bị thảm sát, các phương tiên truyền thông quốc tế mới bắt
đầu để ư tới t́nh trạng của xứ này, cho dù trong các năm trước đó,
đă có hơn 70 ngàn người dân vô danh phơi thây làm nạn nhân của cuộc
nội chiến tại xứ ấy. Hầu như không một ai trong giới truyền thông
quốc tế, đă để ư tới số người bất hạnh này.
Bất cứ phong trào nào rồi cũng hưởng được một thời kỳ "trăng mật
vàng son," lúc mà ai ai cũng cảm thấy hănh diện và hứng khởi được
góp phần vào trong những công tác mới mẻ, lư tưởng, vĩ đại, và tạm
gác lại đàng sau những vấn đề, những kế hoạch thực tế, dài hạn.
Trong trường hợp các phong trào chính trị và tôn giáo, thời kỳ hồ
hởi vừa nói, thường kết thúc khi thế hệ đế xướng và sáng lập, qua
đi. Có thể nói là thời "vàng son" của thần học giải phóng đă kéo dài
quá lâu rồi, và hiện nay, th́ rơ ràng là đă chấm dứt. Không ai t́m
được một giải pháp thần diệu nào có đủ sức để giải quyết các vấn đề
khổng lồ của dân nghèo; không ai đă động viên được nhân dân vùng dậy
tham gia cách mạng; các cơ cấu bất công của xă hội h́nh thành trong
những thế kỷ qua, vẫn thành công trong đà phản pháo chống cưỡng lại
những nỗ lực đưa ra để tức khắc loại trừ chúng đi. Nói chung, các
nhà thần học giải phóng đă thất bại, không t́m ra được những giải
pháp thần diệu hầu tức tốc thanh toán cho xong các vấn đề chính trị,
xă hội và kinh tế của vùng Châu Mỹ Latinh, như họ đă từng dự kiến.
Đứng trước một thực tại phủ phàng như thế, tất các nhà trí thức lâm
vào thế bị buộc phải xét lại các lư thuyếết và các phương án của họ.
Thần học giải phóng không c̣n có thể dựa vào tính cách mới mẻ hấp
dẫn từng có ngày trước, hoặc là vào những khẩu hiệu giật gân thuở
nào được nữa. Trong lúc này, thần học giải phóng đang phải đối phó
với một thách đố lớn, đó là làm sao để duy tŕ cho được những thành
quả tích cực dồi dào đă thu đạt được trong 20 năm qua, và để chuẩn
bị cho ổn con đường sẽ đi trong tương lai trước mắt.
Những Thử Thách Mới
Trong những năm 1988, 1989, đâu đâu người ta cũng tỏ ra nhàm chán,
không c̣n muốn nghe tới những khẩu hiệu trống rỗng nữa, và không c̣n
muốn thấy bạo lực vô bổ diễn ra nữa, nhưng lại muốn cũng như sẵn
sàng mở con đường đối thoại để thử xây dựng một nền dân chủ. Hiện
nay, hầu hết các nước Châu Mỹ Latinh đều đang sống qua cuộc thử
nghiệm xây dựng thể chế dân chủ ấy. Nhưng muốn đạt cho được kết quả
cụ thể tốt đẹp, th́ các cơ cấu dân chủ cần phải được trao về cho và
thiết đặt bởi các đại diện của nhân dân, cũng như cần phải tạo điều
kiện để đại đa số nhân dân từ xưa đến nay hằng bị bịt miệng câm nín,
có được cơ hội nói lên tiếng nói chính đáng của ḿnh. Nếu không được
như vậy, th́ các thành phần cực đoan sẽ tiếp tục thao túng, lấy cớ
rằng con đường đối thoại và xây dựng dân chủ chỉ là thủ đoạn do một
thiểu số có tiền và có quyền đưa ra nhằm ngăn chặn, bóp chết mọi
cuộc đổi mới căn bản về mặt chính trị và kinh tế. Đại đa số nhân dân
Châu Mỹ Latinh đều nghèo túng, nhưng không dễ ǵ lừa bịp họ được; và
nếu cuộc thí nghiệm dân chủ kia thất bại, th́ khó mà có được một
cuộc thử nghiệm thứ hai.
Quả vậy, trong quá khứ, một số nhà thần học giải phóng đă v́ bốc
đồng và cố chấp mà từ chối không muốn nghe nói đến việc thí nghiệm
dân chủ như thế, quan niệm rằng cách mạng là niềm hy vọng duy nhất
cho các dân nước Châu Mỹ Latinh cũng như cho cả toàn thể Thế Giới
Thứ Ba. Lập trường này đúng hay sai về mặt luân lư th́ hẳn không
phải là chuyện cần phải bàn đến ở đây; có điều chắc chắn là nhân dân
không chấp nhận đường lối cách mạng. Dù sao th́ hoàn cảnh của Châu
Mỹ Latinh vào lúc thần học giải phóng xuất hiện, cũng có thể giúp
cho hiểu được một phần nào lư do tại sao một số nhà thần học giải
phóng đă khư khư chủ trương cách mạng vũ trang.
Lịch Tŕnh Thần Học Giải Phóng
Thời đó, nhiều nhà trí thức Châu Mỹ Latinh nghĩ rằng cách mạng Cuba
là tia hy vọng duy nhất bừng lên trong con đường hầm đen tối của
nghèo nàn và bóc lột. Chẳng phải Fidel Castro và "Chê" Guêvara cùng
những người tiếp sau đó, như linh mục du kích xứ Colombia, Camilo
Torres, đă nghiễm nhiên và chớp nhoáng trở thành những vị anh hùng
dân tộc đó sao!
Dĩ nhiên, dù muốn dù không th́ Châu Mỹ Latinh cũng không tránh được
cảnh làm nạn nhân của t́nh trạng "chiến tranh lạnh." Và cũng dĩ
nhiên là không thể hoàn toàn quy trách sai lầm cho duy một bên mà
thôi, để cho bên kia là hoàn toàn đúng; nhưng cũng phải nói rằng chủ
thuyết tồi tệ gọi là "an ninh quốc gia" do Bắc Mỹ phác họa ra và
mạnh mẽ ủng hộ bằng tiền bạc hầu ngăn chặn đà phổ biến của chủ nghĩa
cộng sản đă làm cho nhiều người tại Châu Mỹ Latinh xác tín thêm là
thay v́ lo giữ đúng các nguyên tắc căn bản của hiến pháp ḿnh, th́
Hoa Kỳ cứ cố xuất cảng các nguyên tắc ngoại lai và không mấy thích
hợp ấy ra cho vùng Nam Mỹ. Nếu nhân dân Châu Mỹ Latinh có chán ghét
Hoa Kỳ, th́ đó không phải là chuyện lạ, bởi họ đă nh́n thấy sự việc
Hoa Kỳ nhúng tay vào âm mưu lật đổ các chính quyền xă hội chủ nghĩa
do nhân dân bầu lên, để đi ủng hộ các chính thể độc tài tại các nước
Guatêmala (1954) và Chilê (1973).
Việc Hoa Kỳ trợ giúp các phương án từ thiện và phát triển cũng đă
không thay đổi được h́nh ảnh tiêu cực trên đây, bởi v́ phần lớn các
ngân khoản tài trợ như thế đă ung dung lọt hẳn vào túi của một thiểu
số người thối nát và bất lương có thế thần trong tay.
Cũng nên nhớ là không phải chỉ tại Châu Mỹ Latinh mới có những hạng
trí thức đặt trọn niềm tin của ḿnh vào nơi chủ nghĩa Mác Lê ảo
tưởng thôi đâu: phần lớn các người đầu tiên chủ trương thần học giải
phóng, đều đă du học tại các đại học "cấp tiến" ở Châu Âu, đặc biệt
là ở Paris, lúc mà chủ thuyết Mác Lê được nhiều người sống ngoài thế
giới cộng sản, hâm mộ và ca tụng. Trong bầu khí đổi mới của thời
tiếp hậu Công Đồng Chung Vaticanô II, các vị lănh đạo Giáo hội cũng
đă hoặc khuyến khích, hoặc ít ra không chống đối việc đối thoại giữa
các tín hữu và người theo chủ thuyết Mác Lê. Đồng thời, lại có chiến
tranh Việt Nam và thái độ cương quyết chống Mỹ tại Châu Âu cũng như
tại Châu Mỹ nữa.
Có thể nói rằng ngọn sóng đầu tiên của trào lưu thần học giải phóng
là một giữa vô số những phương án không tưởng dồn dập xuất hiện
trong thập kỷ 60, nhằm vào việc đổi mới thế giới. Một thời gian sau,
hầu hết các kế hoạch không tưởng ấy đều trở thành lỗi thời; tuy
nhiên, không hoàn toàn đúng không có nghĩa là hoàn toàn sai: các lập
trường, các học thuyết và các phong trào th́ cũng thế. Trong các lần
đại hội tại thành phố Medellin (Colombia) vào năm 1968, và 10 năm
sau tại thành phố Puebla (Mêhicô), dù không theo chủ thuyết Mác Lê,
các giám mục trong vùng cũng đă công khai nhận định là Châu Mỹ
Latinh cần phải được triệt để đổi mới, và coi đó là một công tác hết
sức khẩn trương.
Tuy nhiên, loại thần học giải phóng thiên về chủ thuyết Mác Lê không
phải là thể loại duy nhất, cũng chẳng phải là thể loại quan trọng
nhất của trào lưu thần học giải phóng nói chung. Đối với đa số các
nhà thần học Châu Mỹ Latinh, giai đoạn chuyển tiếp đang sống qua
hiện nay là dịp thuận tiện cho việc thanh lọc mà thần học giải phóng
cần đến, hầu vứt bỏ đi gánh nặng của một ư thức hệ đă hóa ra lỗi
thời, vô hiệu và nguy hại, rồi lại c̣n làm cho những người từng tin
theo phải hổ thẹn nữa. Trong giai đoạn mới hiện nay, thần học giải
phóng bắt đầu đóng giữ một vai tṛ ở giữa xă hội, tức là gia công cổ
động các từng lớp đại đa số dân nghèo tích cực tham gia vào cuộc
sống chính trị của xứ sở ḿnh.
Có một điểm mà những người chống thần học giải phóng có lẽ chưa nhận
thức rơ hoàn toàn, đó là: nền thần học này không chỉ là một phong
trào đặt cơ sở trên các tác phẩm của một số nhà trí thức, mà c̣n là
một nỗ lực để ứng đáp nguyện vọng đổi mới của nhân dân nữa. Kết án
thần học giải phóng cho đó là khí cụ của chủ thuyết Mác Lê, lắm khi
chỉ là một cớ thoái thác để tránh cho khỏi phải đối diện với các vấn
đề kinh tế và chính trị gai góc mà cuộc sống cụ thể hằng nêu lên. Do
đó, càng bàn căi, th́ càng đi xa thực trạng đau thương của dân nghèo.
Nhiều lúc xem ra các vụ tranh luận thần học đă được coi là quan
trọng hơn t́nh trạng bi đát của người dân, để quên bẳng đi rằng
chính t́nh trạng này là khởi điểm của nền thần học kia: một phần nào
đó, các nhà thần học phải chịu trách nhiệm về hành động lệch lạc này.
Lúc đầu, các nhà thần học giải phóng đă hiểu rằng nhiệm vụ của họ là
nói lên và quảng diễn cho rơ ra nguyện vọng cùng niềm tin của các
tầng lớp thứ dân; tuy nhiên, sau đó, rơ ràng là một số thần học gia
giải phóng đă vượt ra xa khỏi phạm vi vừa nói, và đề ra thêm những
chủ thuyết xa lạ do chính họ đă nắn óc nghĩ ra; v́ vậy, thần học của
họ đă biến dạng để trở thành một thứ lư thuyết xa vời, tách rời khỏi
cuộc sống thực tế, y hệt như các nền thần học cổ thời mà chính họ đă
cực lực chỉ trích.
T́nh trạng khốn khổ của dân nghèo và nỗ lực họ đưa ra để lướt thắng
cho được t́nh trạng đó, là những sự kiện cụ thể, chứ không phải là
những lư thuyết cần phải chứng minh hay biện giải. Vấn đề căn bản
không phải là "có nên đổi mới hay không," mà là "cần phải đổi mới
thế nào cho có lợi ích nhất." Cần đến một nền thần học giải phóng
đích thực, chân chính là điều nhiều người đă nh́n nhận, và giữa
những người đó, có cả Đức Phaolô IV và Đức Gioan Phaolô II, cũng như
hầu hết các Hội đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh. Bất cứ ai đă từng
chứng kiến cuộc sống kinh hoàng của người dân nghèo tại các khu nhà
ổ chuột trong các thành thị, hay tại các vùng nông thôn, th́ cũng
đều hiểu rơ tại sao cần phải bức thiết đổi mới. Thế th́, đế quốc Xô
Viết có sụp đổ, thần học giải phóng (một nền thần học giải phóng
đích thực, chân chính), cũng vẫn là một đóng góp hợp thời và cần
thiết. Muốn đạt tới ḥa giải thực sự, th́ trước đó, cần phải giải
phóng người dân khỏi những điều kiện sống vô nhân đạo.
Từ Bỏ Chủ Nghĩa, Nh́n Vào Thực Tế
Vấn đề căn bản không nằm ở chỗ phải chọn chủ nghĩa xă hội hay chủ
nghĩa tư bản, mà là ở chỗ phải làm thế nào để đảm bảo hữu hiệu cho
sự sống c̣n của hàng triệu mạng sống con người. Dù là chủ thuyết nào
đi nữa, th́ việc đánh giá thành công hay thất bạại cũng đều tùy
thuộc ở chỗ chủ thuyết ấy có giúp cải tiến được t́nh trạng bi đát
của người dân nghèo hay không.
Trong thời gian 20 năm gần đây, đă bức thiết, vấn đề kia lại càng
trở thành bức thiết và sôi bỏng hơn nữa. Đă là một nhà suy tư chân
chính, th́ không một thần học gia nào có thể tránh né mà không lưu
tâm đến vấn đề giải phóng, chẳng những tại Châu Mỹ Latinh, mà c̣n
tại cả khắp nơi trong Giáo hội hoàn vũ nữa.
Ngay từ khi mới thành h́nh, tức là với thông điệp: Những thực tại
mới (Rerum Novarum ), của Đức Lêô XIII bàn về "quyền lợi và nhiệm vụ
của tư bản và lao động" (1891), học thuyết xă hội của Giáo hội công
giáo đă không ngừng lên tiếng chỉ trích nền tảng triết lư và hậu quả
không thể chấp nhận được của chủ thuyết tự do tư bản. Dù thế, lâu
nay người ta đă phải đặc biệt lưu tâm đến một mối đe dọa được coi là
cấp bách hơn, tức là cộng sản vô thần. Bây giờ chủ nghĩa này đă sụp
đổ, nên có thể nhận ra rơ hơn được rằng mối xung khắc trong thế giới
không c̣n phải là mối xung khắc cũ giữa Đông và Tây nữa, nhưng rồi
đây sẽ bùng lên một mối xung khắc mới giữa các giới giàu và các tầng
lớp nghèo, giữa Bắc và Nam. Trong bối cảnh đó, Giáo hội đă tỏ rơ lập
trường của ḿnh, là đứng về phía dân nghèo. Và tự hậu, không một ai
c̣n có thể viện cớ nói rằng thái độ phẫn nộ của đại đa số dân nghèo
chỉ là một thủ đoạn trong âm mưu do Mátkhơva hay Cuba nghĩ ra để làm
cho "nền văn hóa Kitô giáo Tây phương" phải lâm dần vào cảnh sụp đổ.
Thần học giải phóng là trước hết và quan trọng hơn hết, một thái độ
phản kháng bắt nguồn từ niềm tin kitô, thái độ phản kháng chống lại
t́nh trạng một thiểu số chiếm giữ độc quyền thụ hưởng hết mọi tiện
nghi, và đày đọa đại đa số suốt đời phải sống kiếp sống cùng cực, vô
vọng. Trong giai đoạn lịch sử này, nếu c̣n có ai vẫn giữ thái độ mù
ḷa đến độ chưa hiểu ra được thực trạng như thế kia của thế giới
loài người, th́ ắt người đó đang mang phải tội cố chấp, không muốn
hiểu.
Một phần tư thế kỷ đă trôi qua kể từ khi Đức Phaolô VI dùng lời lẽ
thông điệp Phát triển các dân tộc (Populorum Progressio , năm 1967)
mà công khai lên án "những cảnh trạng bất công tầy trời" (số 30)
trong xă hội; và Đức Gioan Phaolô II c̣n dùng những ngôn từ mạnh mẽ
hơn nữa trong thông điệp Mối quan tâm đối với vấn đề xă hội (Sollicitudo
Rei Socialis , năm 1987) để lưu ư mọi người về vấn đề "công b́nh xă
hội." Ngoài những lời Giáo hội gióng lên và gióng lên nhiều lần để
làm cho thấy rơ là cần phải đổi mới tận gốc, c̣n có vô số những công
tŕnh nghiên cứu, phân tích, những hội nghị quốc tế và những bản
tuyên bố; nhưng rồi t́nh trạng chênh lệch vẫn càng ngày càng tồi tệ
trầm trọng hơn, và mức phẫn nộ của các tầng lớp người nghèo đă tăng
hầu như lên đến tột đỉnh.
Lắm lần, thần học giải pḥng c̣n bị chỉ trích là nuôi ảo vọng, là cứ
muốn làm chuyện vô ích: cứ lo xây thiên đàng ở dưới cơi đất; nhưng
cần phải nói cho đúng hơn: điều mà thần học giải phóng muốn làm là
loại trừ cho được t́nh cảnh địa ngục ở trên trần thế; và đó chính là
kinh nghiệm hằng ngày mà hàng triệu con người đang sống qua. Hiện
nay, những lời lẽ nói lên t́nh trạng nghèo đói cùng khốn trong Thế
Giới Thứ Ba, có vẻ như là đă cũ kỹ, lỗi thời và vô nghĩa; nhưng có
nói hay không nói, th́ những sự kiện về nghèo đói, bất công... vẫn
c̣n sờ sờ ngay đó, không thể chối căi hay bóp méo đi được.
Sớm muộn ǵ rồi "công tác giải phóng" cũng sẽ trở thành một vấn đề
chung, chứ không c̣n phải là của riêng Thế Giới Thứ Ba nữa; đó là
một ức đoán có cơ sở. Cho tới nay, ảnh hưởng của thần học giải phóng
đối với cuộc sống Giáo hội tại các nước giàu thật hết sức nhỏ, cùng
lắm cũng chỉ được nghiên cứu qua loa trong một số phân khoa thần học
mà thôi; cho tới nay, ít có người suy nghĩ kỹ về ư nghĩa và tầm
hưởng thần học của các cơ cấu tổ chức bất công trong thế giới, bởi
lẽ đa số những người có cơ hội suy tư, đều đang được hưởng thụ những
lợi lộc do chính các cơ cấu ấy đưa lại. Có thể nói là Giáo hội đang
bị chia đôi từ trong nội bộ, và t́nh trạng chia đôi ấy ảnh hưởng đến
hết mọi người trong chúng ta: giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân.
Trong chúng ta, có người đang phung phí những tài nguyên quư báu,
giữa lúc đó có những người đang chết đói. Các tín hữu sống trong
những khu ổ chuột tại các thành phố Lima hay Săo Paulo không cần
phải đọc đến sách của các nhà thần học Gustavo Gutiérrez hay
Leonardo Boff th́ mới biết được rằng t́nh trạng chênh lệch quá mức
giữa các giới giàu và các tầng lớp dân nghèo là một điều hoàn toàn
lệch lạc sai trái, cần phải khẩn trương đổi mới, hoặc mới biết được
rằng con đường đổi mới chính con đường Phúc Âm đă đề ra. Chỉ có
những tín hữu, dù là linh mục, tu sĩ hay giáo dân, sống sung túc ở
trong các thành thị Bắc Mỹ và Tây Âu, th́ mới cảm thấy khó mà ư thức
được vấn đề và khó mà nhận ra rơ hết được tất cả những ǵ một đức
tin đích thực đ̣i hỏi.
Những h́nh ảnh trên màn truyền h́nh cho thấy các trẻ em đang chết
đói tại xứ Êtiôpia, Suđan, Ruanđa... hay các xác chết của những
người bị đánh đập, tra tấn tàn ác tại El Salvador cũng vẫn chưa có
sức đủ để thối thúc làm cho tín hữu sống trong các nước giàu thức
tỉnh và gia công đề xướng những phương án cụ thể, quy mô và dài hạn
nhằm giải quyết vấn đề. Thật ra, cũng chẳng cần phải nh́n vào màn
ảnh truyền h́nh mới thấy vấn đề, bởi v́ ngay giữa ḷng các nước giàu
cũng nh́n thấy được hàng vạn, hàng triệu người bị bỏ rơi, sống ngoài
lề xă hội, không có được một mái ấm nương thân, y hệt như những lớp
dân nghèo tại Thế Giới Thứ Ba.
Hơn nữa, càng ngày người ta càng ư thức rơ hơn về sự kiện này, là:
chính thiểu số những người sung túc ấy cũng cần được giải phóng,
cũng cần thoát cho khỏi nạn hưởng thụ quá mức và nhiều tệ đoan khác,
như ma túy, ly dị, phá thai, tự tử, v.v. Những thứ ấy hẳn không phải
là phản ánh của một cuộc sống an b́nh hạnh phúc. Ngay cả các giáo
hội tại những nước giàu cũng để lộ cho thấy một số triệu chứng phản
ánh t́nh trạng thiếu lành mạnh, như bầu khí xung khắc giữa các phe
nhóm, thái độ cực đoan, tâm trạng chán nản, v.v.: có khác chi mấy
những ǵ thấy được tại Châu Mỹ Latinh!
Bởi hằng ư thức rơ về sứ mệnh chung và dấn thân thực thi nhiệm vụ
thiêng liêng là bảo vệ phẩm giá của mọi con người, nên chỉ có Giáo
hội toàn cầu mới hội đủ sức năng và ư chí để xây dựng một liên minh
với tầm cỡ hoàn vũ nhằm kiến tạo một trật tự mới cho các lănh vực
chính trị, xă hội và kinh tế của cuộc sống trong thế giới loài người.
Sứ mệnh này không dựa lên trên cơ sở của bất cứ một chủ nghĩa chính
trị nào, nhưng bắt nguồn từ chính mệnh lệnh Chúa Kitô đă đưa ra là
cần phải "chỉ giáo cho muôn dân" và giúp cho mọi người biết đón nhận
các giá trị thiêng liêng của Nước Thiên Chúa.
Trong sứ mệnh toàn cầu này, thần học giải phóng đóng giữ một vai cốt
cán, bởi v́ công tác t́m hiểu và nêu cho thấy rơ những đ̣i hỏi cụ
thể của đức tin kitô đích thực là một giữa các nhiệm vụ chính của
nền thần học này. Việc dùng từ để đặt tên không phải là vấn đề chính:
có thể lấy danh xưng "thần học chính hành" (orthopraxis ) hay một
danh xưng nào khác để thay thế cho tên gọi "thần học giải phóng" th́
cũng được; điều chính yếu là làm sao để có thể biểu đạt được rằng
đức tin hằng không ngừng đ̣i hỏi người tín hữu phải biết làm cho
niềm tin của ḿnh biến thành hành động cụ thể: từ xưa tới nay chứ
không phải chỉ riêng trong thời đại thần học giải phóng đức tin đích
thực luôn luôn đ̣i hỏi phải được thể hiện ra trong hành động của
cuộc sống cụ thể, tức là: tin làm sao,th́ phải sống làm vậy.
Sesto Hoàng Văn Lục chuyển ư.
|
|
|
|