SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Bài Ðọc I: G 38, 1. 8-11
"Sóng cồn của ngươi phải dừng lại đây".
Trích sách Gióp.
Bấy giờ từ cơn gió lốc, Chúa đáp lời Gióp rằng: "Khi nước chảy mạnh vỡ bờ như sinh ra bởi lòng mẹ, ai đã lấy cửa mà ngăn lại, lúc Ta lấy mây làm áo che nó, và lấy u tối che phủ nó như khăn bọc con trẻ? Ta đã vạch biên giới chung quanh nó, đã đặt khung cửa và then chốt mà phán rằng: "Ngươi chảy đến đây mà thôi, không được chảy xa nữa và vỗ sóng ba đào cũng phải dừng tại đây".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 106, 23-24. 25-26. 28-29. 30-31
Ðáp: Hãy tán tạ Chúa, bởi đức từ bi Người còn muôn thuở (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Những người xuống tàu vượt biển ra khơi, làm nghề thương mại trên nơi nước cả, họ đã nhìn thấy những kỳ công của Chúa, và những việc huyền diệu của Người ở chỗ thâm uyên. - Ðáp.
2) Chúa lên tiếng, và Người đã khiến phong ba nổi dậy, Người đã khiến cho sóng biển dâng cao. Những người đó lên tới trời xanh, xuống lòng biển thẳm, tâm hồn họ bủn rủn trong cảnh gian nguy. - Ðáp.
3) Họ đã kêu cầu Chúa trong cơn khốn khó, và Người đã giải thoát họ khỏi chỗ lo âu. Người biến đổi phong ba thành gió thổi hiu hiu, và bao làn sóng biển đều im lặng. - Ðáp.
4) Họ mừng vui vì thấy sóng biển yên, và Chúa đã đưa họ cập bến ước mong. Những người đó hãy cảm ơn Chúa vì lòng nhân hậu, và những điều kỳ diệu của Người đối với con người ta! - Ðáp.
Bài Ðọc II: 2 Cr 5, 14-17
"Ðây mọi cái mới đã được tạo dựng".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, lòng mến của Ðức Kitô thúc bách chúng ta; chúng ta xác tín điều này là một người đã chết vì mọi người, vậy mọi người đều đã chết. Và Ðức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, thì không còn sống cho chính mình nữa, mà là sống cho Ðấng đã chết và sống lại vì họ.
Vì thế, từ nay chúng ta không còn biết ai theo xác thịt nữa. Mặc dù nếu chúng ta đã biết Ðức Kitô theo xác thịt, thì giờ đây chúng ta không còn biết như thế nữa. Vậy nếu ai đã trở nên một tạo vật mới trong Ðức Kitô, thì những gì cũ đã qua rồi, vì đây mọi sự đều được trở nên mới.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 1, 14 và 12b
Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 4, 35-40
"Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ". Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người. Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?" Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi". Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?" Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
Ðó là lời Chúa.
Phải công nhận là các tông đồ yếu đức tin thật đó. Bởi vì, theo lập luận và
nhận định tự nhiên thì chẳng có ai ngủ say đến độ sóng gió bão bùng ào ào
khiến con thuyền chập chùng nhào lên lộn xuống như vậy, khiến các môn đệ hò
hét om sòm như thế mà Chúa Giêsu vẫn cứ ngủ như chết chẳng hay biết gì, thì
có thể là Người chỉ giả vờ ngủ? Bằng không Người bị bệnh ngủ, hay Người là
một con người ngủ vô địch thế giới, không ai lại có thể ngủ như Người.
Nếu Chúa Giêsu muốn thử thách các môn đệ, thì các môn đệ lúc ấy, nếu tinh ý
biết rằng Ngưòi giả vờ ngủ say như chết, cũng thách đố Người ngược lại, bằng
cách không đánh thức Người mà cứ để Người ngủ, thử xem Người ngủ say đến mức
nào, cho tới khi Người tự chỗi dậy khiến bão tố lặng im, hay Người âm thầm
làm cho sóng gió tự nhiên ngưng hẳn trong khi Người vẫn cứ ngủ.
Các môn đệ, trong trường hợp này, cũng có thể, thay vì đánh thức Người dạy
thì bảo nhau ngồi quanh Người, hay ôm lấy Người, thế thôi, như thể nếu chúng
con chết thì Thày cũng không sống được, bằng không thì chính Thày là phao
cứu sống của chúng con.
1) Những người xuống tàu vượt biển ra khơi, làm nghề thương mại trên nơi nước cả, họ đã nhìn thấy những kỳ công của Chúa, và những việc huyền diệu của Người ở chỗ thâm uyên.
2) Chúa lên tiếng, và Người đã khiến phong ba nổi dậy, Người đã khiến cho sóng biển dâng cao. Những người đó lên tới trời xanh, xuống lòng biển thẳm, tâm hồn họ bủn rủn trong cảnh gian nguy.
3) Họ đã kêu cầu Chúa trong cơn khốn khó, và Người đã giải thoát họ khỏi chỗ lo âu. Người biến đổi phong ba thành gió thổi hiu hiu, và bao làn sóng biển đều im lặng.
4) Họ mừng vui vì thấy sóng biển yên, và Chúa đã đưa họ cập bến ước mong. Những người đó hãy cảm ơn Chúa vì lòng nhân hậu, và những điều kỳ diệu của Người đối với con người ta!
Thứ Hai
Bài Ðọc I: (Năm II) 2 V 17, 5-8. 13-15a. 18
"Chúa xua đuổi Israel khỏi mặt Chúa và chỉ còn lại chi họ Giuđa".
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Salmanassar, vua dân Assyria, xâm chiếm khắp miền và bao vây Samaria trong ba năm. Năm thứ chín đời vua Hôsê, vua Assyria chiếm được Samaria, và đem dân Israel sang Assyria, định cư họ ở Hala và ở Habor, gần sông Gozan, và trong các thành thuộc nước Mêđia.
Xảy ra như thế, vì con cái Israel phạm đến Chúa là Thiên Chúa họ, Ðấng đã đưa họ ra khỏi Ai-cập, khỏi quyền lực Pharaon, vua nước Ai-cập. Họ đã thờ các thần ngoại bang; họ noi theo các tập tục của dân ngoại mà Chúa đã xua đuổi trước bước tiến của con cái Israel, và họ đã theo các nghi lễ mà vua Israel đã quy định.
Chúa đã dùng các tiên tri, các vị tiên kiến mà khuyến cáo Israel và Giuđa rằng: "Các ngươi hãy cải tà quy chính, hãy tuân giữ các điều răn và nghi lễ, theo đúng lề luật Ta đã dùng các tiên tri tôi tớ Ta mà truyền cho cha ông các ngươi, và chuyển lại cho các ngươi". Nhưng họ không muốn nghe. Họ cứ cứng đầu cứng cổ như cha ông họ, không muốn vâng phục Chúa là Thiên Chúa. Họ chối bỏ các huấn lệnh của Chúa và lời giao ước Người đã ký kết với cha ông họ, và cả những mệnh lệnh rõ ràng Người đã truyền, nên Chúa nổi giận dân Israel, và xua đuổi họ khỏi mặt Chúa. Chỉ còn lại chi họ Giuđa mà thôi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 59, 3. 4-5. 12-13
Ðáp: Lạy Chúa, xin Chúa ra tay hữu phù trợ và nhậm lời chúng con (c. 7b).
Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa, Ngài đã hất hủi chúng con, Ngài đã làm cho hàng ngũ chúng con tan rã, Ngài đã thịnh nộ, nhưng xin cho chúng con được phục hồi! - Ðáp.
2) Ngài đã rung động đất nước và xâu xé, xin hàn lại chỗ đổ vỡ, vì nó đang xiêu té. Chúa để dân Ngài gặp những thử thách cam go, Ngài cho chúng con uống thứ rượu say mê choáng váng. - Ðáp.
3) Ôi Thiên Chúa, há không phải Ngài đã hất hủi chúng con ư? Ôi Thiên Chúa, Ngài đã không xuất trận cùng quân đội chúng con. Xin Chúa giúp đỡ chúng con chống lại quân thù, vì sự hỗ trợ của người trần là vộ hiệu quả. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 7, 1-5
"Hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy. Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: "Ðể tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh", và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Ðồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Sự sống mù quáng
Chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh vẫn tiếp tục sang Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh, như trong phần phụng vụ Lời Chúa cho ngày Thứ Hai Tuần XII Thường Niên hôm nay cho thấy.
"Sự sống" đây là sự sống công chính, như giáo huấn Chúa Kitô dạy cho các môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay (Mathêu 7:1-5), một bài phúc âm tiếp tục về Bài Giảng Trên Núi của Người cho các môn đệ của Người liên quan đến các Phúc Đức Trọn Lành mà các vị cần phải cảm nghiệm và theo đuổi mới xứng đáng làm môn đệ của Người và nhờ đó mới có thể làm chứng nhân cho Người.
Vấn đề được đặt ra ở đây là, với cương vị lãnh đạo sau này của mình trong Giáo Hội, các vị không thể nào không đoán xét để bảo vệ Giáo Hội cũng như để phân xử công minh, thế mà ở đây, Chúa Giêsu lại dạy các vị rằng: "Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét".
Tuy nhiên, lời khuyên của Chúa Giêsu ở đây không áp dụng vào việc quản trị Giáo Hội của các vị mà chỉ nhắm đến đời sống đức ái trọn hảo của bản thân các vị thôi. Đó là lý do Chúa Giêsu đã đề cập đến luật nhân quả, gieo gió gặt bão: "Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy".
Trên thế gian này đã xẩy ra đầy giẫy những chứng cớ về định luật "ác giả ác báo" này. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng ở đây là phạm nhân có nhận ra lỗi lầm cũ của mình để mà ăn năn thống hối và cải thiện đời sống hay chăng mới là những gì đáng quan tâm. Trong đường tu đức cũng thế, Thiên Chúa hay để cho những tâm hồn sốt sắng đạo đức mà lại hay khinh thường những người khô khan hơn mình, xa tránh những người tội lỗi xấu xa ở chung quanh mình, bị sa ngã phạm tội, cho dù cố gắng, nhờ đó họ biết cảm thương những người họ vốn khinh bỉ và xa tránh.
Một khi chúng ta xét đoán xấu cho người khác, chấp nhất người khác và chê trách người khác về những gì tiêu cực của họ, hay những gì vô tội nơi họ (tính tình hay tâm tưởng hoặc lối sống v.v.) nhưng chướng tai gai mắt chúng ta, chúng ta như thể ở trong trạng thái mù lòa không biết mình, đúng như lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người, khi Người đi từ chất vấn đến trách móc thành phần này trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: 'Để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh', và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Đồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi".
"Cái đà" trong mắt của chúng ta đây là gì, nếu không phải là thành kiến, là ác cảm, là nghi kỵ... những gì khiến chúng ta không thể nào nghĩ tốt cho người khác, nhất là thành phần đối phương của mình, trái lại, chỉ toàn nghĩ xấu cho họ và luôn luôn nghĩ xấu về họ, thậm chí còn tự chế ra những gì họ không có theo óc tự suy của mình để hận thù oán ghét họ, lên án họ, nói hành nói xấu họ, ném đá họ...
Đối với tha nhân, con người không được mù quáng đoán xét nhau, vì họ chẳng những không biết được thâm tâm của nhau, mà nhất là không có quyền đoán xét nhau nữa. Thế nhưng, đối với Thiên Chúa, Đấng vô cùng khôn ngoan và nhân hậu, con người cần phải tỏ ra mù quáng hơn ai hết và hơn bao giờ hết, ở chỗ hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Ngài ở mọi nơi, trong mọi lúc và hết mọi sự.
Một trong những điều Chúa Giêsu dạy các tông đồ trong Bài Phúc Âm hôm nay là "các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy", thực sự đã ứng nghiệm hơn bao giờ hết và hơn ai hết nơi trường hợp của thành phần dân được Ngài tuyển chọn để tỏ mình ra cho họ, xuyên suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, Ngài là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, ngoài Ngài ra không còn một Chúa tể nào khác, và chỉ có mình Ngài mới đáng họ tin tưởng và tôn thờ thôi. Thế nhưng, Ngài càng tỏ mình ra họ lại càng bất xứng với Ngài, họ vẫn cứ tiếp tục ương bướng chối bỏ Ngài mà gian dâm ngoại tình với các tà thần của dân ngoại hay như dân ngoại hoặc với chính các thứ ngẫu tượng họ tạo ra. Và đó là lý do họ đong đấu nào cho Thiên Chúa của họ thì họ cũng bị Ngài đong lại cho chính đấu ấy, đúng hơn họ phải hứng chịu hậu quả của chính đấu họ đối xử với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ.
Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Các Vua quyển thứ hai, đã chứng thực việc trao đổi đấu cho nhau rất tương xứng và công bằng giữa thành phần dân được ưu tuyển với Thiên Chúa của họ, trước hết là thành phần dân thuộc vương quốc Israel ở Miền Bắc (sau thời Vua Solomon, nước Do Thái được chia thành đôi, vương quốc Giuđa chỉ còn 2 chi tộc Giuđa và Lêvi ở miền nam) - biến cố lịch sử họ bị dân Assyria xâm chiếm và đầy ải vô cùng khốn nạn gây ra bởi chính tội bỏ Chúa của họ như sau:
"Trong những ngày ấy, Salmanassar, vua dân Assyria, xâm chiếm khắp miền và bao vây Samaria trong ba năm. Năm thứ chín đời vua Hôsê, vua Assyria chiếm được Samaria, và đem dân Israel sang Assyria, định cư họ ở Hala và ở Habor, gần sông Gozan, và trong các thành thuộc nước Mêđia. Xảy ra như thế, vì con cái Israel phạm đến Chúa là Thiên Chúa họ, Ðấng đã đưa họ ra khỏi Ai-cập, khỏi quyền lực Pharaon, vua nước Ai-cập. Họ đã thờ các thần ngoại bang; họ noi theo các tập tục của dân ngoại mà Chúa đã xua đuổi trước bước tiến của con cái Israel, và họ đã theo các nghi lễ mà vua Israel đã quy định.
Thậm chí trước khi vì bất đắc dĩ Thiên Chúa đã nhẫn nại nhịn nhục sử dụng đến các ngôn sứ của Ngài sai đến cảnh giác họ và kêu gọi họ trở về với Ngài nhưng hoàn toàn vô hiệu trước tình trạng lòng chai dạ đó thật là mù quáng ngông cuồng của họ:
"Chúa đã dùng các tiên tri, các vị tiên kiến mà khuyến cáo Israel và Giuđa rằng: "Các ngươi hãy cải tà quy chính, hãy tuân giữ các điều răn và nghi lễ, theo đúng lề luật Ta đã dùng các tiên tri tôi tớ Ta mà truyền cho cha ông các ngươi, và chuyển lại cho các ngươi". Nhưng họ không muốn nghe. Họ cứ cứng đầu cứng cổ như cha ông họ, không muốn vâng phục Chúa là Thiên Chúa. Họ chối bỏ các huấn lệnh của Chúa và lời giao ước Người đã ký kết với cha ông họ, và cả những mệnh lệnh rõ ràng Người đã truyền, nên Chúa nổi giận dân Israel, và xua đuổi họ khỏi mặt Chúa. Chỉ còn lại chi họ Giuđa mà thôi".
Thiên Chúa là tình yêu vô cùng nhân hậu đâu có vui thích gì khi thấy con cái của mình phải khổ đau chết chóc, thế nhưng Ngài chỉ còn cách "của độc giải độc" và "gậy ông đập lưng ông" mà thôi, theo đường lối loài người. Chẳng những đối với thành phần dân ưu tuyển của Ngài, mà còn với những tâm hồn nào bất chấp lương tâm và các ơn soi động của Ngài, đều đi đến ngõ cụt "no way out", nơi một là họ thà tự tử chết, thà hư đi đời đời chứ nhất định không chịu quay đầu trở lại, hai là hoàn toàn tuyệt vọng không còn tin tưởng gì nữa, và ba là họ tỉnh giấc với những tâm tình giác ngộ như Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Ôi Thiên Chúa, Ngài đã hất hủi chúng con, Ngài đã làm cho hàng ngũ chúng con tan rã, Ngài đã thịnh nộ, nhưng xin cho chúng con được phục hồi!
2) Ngài đã rung động đất nước và xâu xé, xin hàn lại chỗ đổ vỡ, vì nó đang xiêu té. Chúa để dân Ngài gặp những thử thách cam go, Ngài cho chúng con uống thứ rượu say mê choáng váng.
3) Ôi Thiên Chúa, há không phải Ngài đã hất hủi chúng con ư? Ôi Thiên Chúa, Ngài đã không xuất trận cùng quân đội chúng con. Xin Chúa giúp đỡ chúng con chống lại quân thù, vì sự hỗ trợ của người trần là vộ hiệu quả.
Thứ Ba
Bài Ðọc I: (Năm II) 2 V 19, 9b-11. 14-21. 31-35a. 36
"Ta sẽ che chở và cứu thành này vì danh Ta cùng vì Ðavít".
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong các ngày ấy, Sennakêrib, vua dân Assyria, đã phái các sứ giả đến với vua Êdêkia và dặn rằng: "Các ngươi hãy nói với Êdêkia, vua Giuđa như thế này: "Chớ để Thiên Chúa, mà vua tin cậy, mê hoặc vua nghĩ rằng: Thành Giêrusalem sẽ không bị lọt vào tay vua dân Assyria. Vì chưng chính đức vua đã nghe biết những gì các vua Assyria đã làm khắp mọi nơi, đã tàn phá các nơi đó thế nào. Có lẽ nào một mình vua sẽ thoát khỏi?". Vua Êdêkia đã nhận và đọc thư do các sứ giả trao cho, vua lên đền thờ Chúa, trải bức thư đó ra trước mặt Chúa, và cầu nguyện cùng Chúa rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel, Ðấng ngự trên các Vệ Binh thần, chỉ một mình Chúa là Thiên Chúa các vua trên mặt đất, Chúa đã dựng nên trời đất, xin lắng tai nghe; lạy Chúa, xin mở mắt nhìn xem. Chúa hãy nghe các lời vua Sennakêrib đã gửi đến, để lăng mạ Chúa hằng sống của chúng con. Lạy Chúa, quả thật các vua dân Assyria đã huỷ diệt các dân và đất đai chúng, đã vất các tượng thần của chúng vào lửa: vì các tượng thần đó không phải là Chúa, song là sản phẩm bằng gỗ đá do tay người phàm làm ra, nên bị họ huỷ diệt. Vậy giờ đây, lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cứu chúng con khỏi tay vua Sennakêrib, để mọi vương quốc hoàn cầu biết rằng: chỉ có mình Chúa là Thiên Chúa".
Vậy Isaia con trai Amos sai người đến tâu vua Êdêkia rằng: "Ðây là những điều Chúa là Thiên Chúa Israel phán: Ta đã nghe các điều ngươi cầu xin Ta về Sennakêrib, vua dân Assyria. Ðây là lời Thiên Chúa phán về vua ấy: Trinh nữ Sion khinh chê và cười ngạo ngươi; thiếu nữ Giêrusalem chế diễu sau lưng ngươi. Từ Giêrusalem sẽ còn lại một số người, và từ núi Sion sẽ có một số người được cứu thoát: Ðó là điều mà lòng nhiệt thành của Chúa các đạo binh sẽ thực hiện. Bởi thế, Chúa phán những điều này về vua dân Assyria: Vua sẽ không vào được thành này, sẽ chẳng bắn được một mũi tên nào vào thành, chẳng dùng thuẫn mà vây hãm thành, chẳng đắp lũy quanh thành: vua tới lối nào thì sẽ về lối ấy, và sẽ không vào được thành này, đó là lời sấm của Chúa. Ta sẽ che chở và cứu thành này, vì danh Ta cùng vì Ðavít tôi tớ Ta".
Chính đêm ấy, thiên thần Chúa đến giết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân Assyria. Sennakêrib, vua dân Assyria, trở về và ở lại thành Ninivê.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 47, 2-3a. 3b-4. 10-11
Ðáp: Thiên Chúa kiên thủ thành của Người tới muôn đời (c. 9d).
Xướng: 1) Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, trong thành trì của Thiên Chúa chúng ta. Núi thánh của Ngài là ngọn đồi duyên dáng, là niềm hoan lạc của khắp cả địa cầu. - Ðáp.
2) Núi Sion là cùng kiệt Phương Bắc, là thành trì của Ðức Ðại Ðế. Thiên Chúa ngự trong thành quách của Người, tự chứng tỏ Người là an toàn chiến luỹ. - Ðáp.
3) Ôi Thiên Chúa, chúng con tưởng nhớ lại lòng thương của Chúa, ngay trong nơi đền thánh của Ngài. Ôi Thiên Chúa, cũng như thánh danh Ngài, lời khen ngợi Ngài sẽ vang cùng cõi đất. Tay hữu Ngài đầy đức công minh. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 27
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 7, 6. 12-14
"Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì hãy làm cho người ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ðừng lấy của thánh mà cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con.
"Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế! Ðấy là điều mà lề luật và các tiên tri dạy.
"Các con hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy; cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy".
Ðó là lời Chúa.
Con đường sự sống
Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XII Thường Niên hôm nay vẫn tiếp tục Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu được Thánh ký Mathêu (7:6,12-14) ghi lại 3 nguyên tắc sống khôn ngoan sau đây:
Nguyên tắc thứ nhất: "Đừng lấy của thánh mà đem cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt loài heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con".
Tại sao vậy? Tại vì chó hay heo là loài thú vật chẳng biết giá trị của những gì loài người vốn trân quí. Bởi thế, "lấy của thánh mà đem cho chó, và vất ngọc trai trước mặt loài heo" là một hành động hoàn toàn ngu xuẩn, phí của và vô ích, thậm chí còn nguy hiểm đến bản thân nữa là đàng khác, ở chỗ chúng cứ tưởng là chúng bị tấn công bằng các viên ngọc trai chẳng khác gì những cục đá vậy, nên chúng có thể "quay lại cắn xé các con".
Ở đây, nếu chú ý chúng ta thấy được hai con thú tiêu biểu được Chúa Giêsu sử dụng trong bài Phúc Âm, đó là con chó và con heo: "chó" có vẻ tinh khôn hơn nên liên quan đến "của thánh" linh thiêng và đến động từ "cho" có vẻ trân trọng chứ không phải là động từ "quẳng" có vẻ khinh bỉ; còn "heo" có vẻ xác thịt hơn nên liên quan đến "ngọc trai" là những gì thuần vật chất và đến động từ "quẳng".
Nhưng dù tinh khôn như "chó" cũng chẳng biết "của thánh" là gì, cũng chẳng nhờ đó mà được linh thiêng hơn, và cho dù xác thịt như "heo" cũng chẳng cần trang điểm bằng "ngọc trai" cho đẹp hơn và hãnh diện hơn. Phải chăng ở đây Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ rằng giáo huấn của Người là những gì "thánh hảo" vô giá và quí báu hơn cả vàng bạc và "ngọc trai", được ban cho các vị để các vị mặc lấy và trang sức cho xứng với vai trò là môn đệ của Người?
Có thể áp dụng lời khuyên này của Chúa Giêsu về của thánh và loài thú bất xứng với của thánh vào những hành động tục hóa của chúng ta. Chẳng hạn chúng ta lên rước lễ chỉ vì cho người ta khen mình là đạo đức. Nghĩa là chúng ta biến Thánh Thể là một Bí Tích Cực Thánh thành phương tiện cho thỏa mãn đam mê nhục dục đê hèn như loài thú của chúng ta, lấy Thánh Thể làm tòa cho chúng ta lên ngôi vinh hiển....
Nguyên tắc thứ hai: "Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế! Đấy là điều mà lề luật và các tiên tri dạy".
Nguyên tắc thứ hai này là nguyên tắc "tri kỷ tri bỉ - biết mình biết người", có vẻ tích cực hơn nguyên tắc của Khổng giáo: "đừng làm cho người khác những gì mình không muốn họ làm cho mình".
Nguyên tắc thứ hai này thường được gọi là luật vàng - golden rule, vì nó chất chứa trong tất cả "lề luật và các tiên tri dạy", vì nó phản ảnh giới luật bác ái "yêu người như thể thương thân - ái nhân như kỷ": yêu nhau như bản thân mình.
Nguyên tắc này thật sự là "của thánh", là viên "ngọc trai" quí báu đối với những ai kính sợ Chúa, nhưng lại là những gì quái gở đối với những kẻ gian ác bất chấp thủ đoạn trong mưu đồ thỏa mãn ý riêng và đam mê nhục dục của họ, dù giá phải trả cho những gì họ muốn chiếm đoạt chính là tha nhân.
Nguyên tắc thứ ba: "Các con hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy; cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy".
Đúng thế, muốn sống nguyên tắc thứ hai là yêu nhau như chính bản thân mình, con người cần phải bỏ mình đi, thậm chí cần phải coi người khác hơn mình. Như vậy thì chẳng khác nào con người cần phải "vào qua cửa hẹp", hoàn toàn đi ngược chiều với đa số phàm nhân luôn coi mình hơn tha nhân, không bao giờ chịu thua thiệt, nếu bị thua thiệt thì tìm cách triệt hạ đối phương hay lấy lại.
Trong các lời dạy của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm nay, có một lời đã ứng nghiệm nơi câu chuyện của Bài Đọc 1 hôm nay, đó là lời: "Ðừng lấy của thánh mà cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con". Đúng thế, nếu "của thánh" và "ngọc trai" đây là chung thành phần dân tuyển chọn của Thiên Chúa là Chúa Tể trời đất, và riêng vị vua Edekia hoàn toàn tin tưởng vào Ngài trong một thời điểm lịch sử vô cùng nguy biến bất khả tránh cho vương quốc Giuđa của vua bấy giờ, thì có thể nói "chó" và "heo" đây là thành phần sống theo bản năng thú tính của mình, vô thần và hung ác, được tiêu biểu nơi nhân vật lịch sử "Sennakêrib, vua dân Assyria", một nhân vật đầy ngạo mạn coi trời bằng vung khi tung ra những lời đe dọa Vua Xứ Giuđa là Edekia thế này:
"Các ngươi hãy nói với Êdêkia, vua Giuđa như thế này: 'Chớ để Thiên Chúa, mà vua tin cậy, mê hoặc vua nghĩ rằng: Thành Giêrusalem sẽ không bị lọt vào tay vua dân Assyria. Vì chưng chính đức vua đã nghe biết những gì các vua Assyria đã làm khắp mọi nơi, đã tàn phá các nơi đó thế nào. Chẳng lẽ nào chỉ có một mình vua sẽ thoát khỏi hay sao?".
Biết sức mình bất khả thoát khỏi quyền lực hung tán của nhân vật đầy bản lãnh đệ nhất thiên hạ bấy giờ, Vua Edekia chỉ còn biết chạy đến với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình, hoàn toàn tin tưởng vào Ngài là Đấng duy nhất có thể cứu vương quốc của vua khỏi bị xâm chiếm và đầy ải như vương quốc Israel trong Bài Đọc 1 hôm qua, trái lại, qua vương quốc của mình, Thiên Chúa còn có thể tỏ mình ra cho cả dân Assyria biết Ngài là ai nữa:
"Vua Êdêkia đã nhận và đọc thư do các sứ giả trao cho, vua lên đền thờ Chúa, trải bức thư đó ra trước mặt Chúa, và cầu nguyện cùng Chúa rằng: 'Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel, Ðấng ngự trên các Vệ Binh thần, chỉ một mình Chúa là Thiên Chúa các vua trên mặt đất, Chúa đã dựng nên trời đất, xin lắng tai nghe; lạy Chúa, xin mở mắt nhìn xem. Chúa hãy nghe các lời vua Sennakêrib đã gửi đến, để lăng mạ Chúa hằng sống của chúng con. Lạy Chúa, quả thật các vua dân Assyria đã huỷ diệt các dân và đất đai chúng, đã vất các tượng thần của chúng vào lửa: vì các tượng thần đó không phải là Chúa, song là sản phẩm bằng gỗ đá do tay người phàm làm ra, nên bị họ huỷ diệt. Vậy giờ đây, lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cứu chúng con khỏi tay vua Sennakêrib, để mọi vương quốc hoàn cầu biết rằng: chỉ có mình Chúa là Thiên Chúa'".
Quả thực, Thiên Chúa đã áp dụng nguyên tắc được chính Con của Ngài dạy trong Bài Phúc Âm hôm nay là "Ðừng lấy của thánh mà cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con" - "cắn xé các con" ở chỗ nếu Ngài để cho vua Assyria ngạo mạn chiếm Xứ Giuđa thì hắn lại càng ngạo mạn hơn nữa, coi như hắn là chúa tế, không có chúa nào khác ngoài hắn, và vì thế lại càng nhục cho Chúa. Do đó, Ngài đã ra tay bảo tồn "của thánh" là dân của Ngài và "ngọc trai" là lòng tin tưởng của Vua Xứ Giuđa, bằng cách: "Chính đêm ấy, thiên thần Chúa đến giết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân Assyria. Sennakêrib, vua dân Assyria, trở về và ở lại thành Ninivê", đúng như Ngài đã báo cho Vua Xứ Giuđa qua miệng tiên tri Amos: "Vua dân Assyria sẽ không vào được thành này, sẽ chẳng bắn được một mũi tên nào vào thành, chẳng dùng thuẫn mà vây hãm thành, chẳng đắp lũy quanh thành: vua tới lối nào thì sẽ về lối ấy, và sẽ không vào được thành này, đó là lời sấm của Chúa. Ta sẽ che chở và cứu thành này, vì danh Ta (vốn là "của thánh" - theo suy diễn của người viết) cùng vì Ðavít tôi tớ Ta (quí như "ngọc trai" - theo suy diễn của người viết)".
Bài Đáp Ca hôm nay là tâm tình nhận biết đầy tin tưởng và ngợi khen cảm tạ của Thánh Vịnh gia, hoàn toàn phản ảnh tâm tình của những ai tin vào Chúa như Vua Xứ Giuđa trong Bài Đọc 1 hôm nay nói riêng, cũng như của chung dân mỗi khi chứng kiến thấy bàn tay toàn năng của Chúa luôn ở với mình cho dù mình bất trung với Ngài song biết ăn năn thống hối trở về với Ngài:
1) Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, trong thành trì của Thiên Chúa chúng ta. Núi thánh của Ngài là ngọn đồi duyên dáng, là niềm hoan lạc của khắp cả địa cầu.
2) Núi Sion là cùng kiệt Phương Bắc, là thành trì của Ðức Ðại Ðế. Thiên Chúa ngự trong thành quách của Người, tự chứng tỏ Người là an toàn chiến luỹ.
3) Ôi Thiên Chúa, chúng con tưởng nhớ lại lòng thương của Chúa, ngay trong nơi đền thánh của Ngài. Ôi Thiên Chúa, cũng như thánh danh Ngài, lời khen ngợi Ngài sẽ vang cùng cõi đất. Tay hữu Ngài đầy đức công minh.
Thứ Tư
Một Vị Tiền Hô được hạ sinh
Hôm nay, theo ngày trong tháng, 24/6, là ngày sinh nhật của vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả. Thật ra Giáo Hội cũng chẳng biết rõ ngày nào là ngày sinh nhật của vị tiền hô này, thậm chí cả ngày Giáng Sinh của Chúa Kitô cũng thế. Tuy nhiên, theo Phúc Âm Thánh Luca thì vị tiên hô này được thụ thai trước khi Lời Nhập Thể 6 tháng thì cũng phải được sinh ra trước Chúa Kitô 6 tháng. Bởi thế, nếu Giáo Hội cử hành Lễ Giáng Sinh của Chúa Kitô vào ngày 25/12 hằng năm thì Giáo Hội phải cử hành lễ Sinh Nhật Tiền Hô Gioan Tẩy Giả vào ngày 24/6 là hợp tình hợp lý.
Chưa hết, Lễ Sinh Nhật của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả được Giáo Hội mừng ở bậc lễ trọng (solemnity), không buộc, như Lễ Thánh Giuse 19/3 và Lễ Nhị Vị Tông Đồ Phêrô và Phaolô 29/6, nên có lễ vọng từ chiều hôm trước, và trong phụng vụ của chính ngày lễ có cả kinh vinh danh cùng kinh tin kính và 3 bài đọc. Trong các thánh, chỉ có duy một mình vị tiền hô này được Giáo Hội cử hành phụng vụ mừng sinh nhật thôi.
Tất nhiên trừ Đức Mẹ ra, vị được Giáo Hội cử hành phụng vụ mừng sinh nhật hằng năm vào ngày mùng 8 tháng 9, cách Lễ Trọng Buộc Mẹ Vô Nhiễm 8-12 đúng 9 tháng. Tuy nhiên, lễ sinh nhật Đức Mẹ Giáo Hội chỉ mừng ở bậc lễ kính (feast day), chỉ có kinh vinh danh và 2 bài đọc, như lễ kính các Thánh Tông Đồ, thua bậc lễ mừng sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả. Tại sao thế?
Phải chăng vì Mẹ Maria đã được Giáo Hội cử hành 18 lễ trong năm (kể cả Lễ Mẹ Giáo Hội và không kể lễ Đức Mẹ Guadalupe chưa có tính cách hoàn vũ), bao gồm đủ mọi bậc lễ, trong khi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả chỉ có 2 lễ, một lễ mừng ngày sinh nhật trần thế của ngài 24/6 và một ngày lễ mừng ngày sinh nhật Nước Trời của ngài (bị chém đầu) 29/8, và trong 17 lễ về Đức Mẹ, có 3 Lễ Trọng Buộc liên quan đến vai trò Đồng Công Cứu Chuộc của Mẹ (Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12, Lễ Thiên Chúa 1/1, Lễ Mẹ Mông Triệu 15/8)?
Hay phải chăng vì lời Chúa Kitô khẳng định về bản thân của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là con người cao trọng nhất được sinh vào trần gian (xem Mathêu 11:11)? Tất nhiên, cho dù là con người cao trọng nhất được sinh vào trần gian, nhờ ngài (thuộc giòng dõi Levi có cha thuộc hàng tư tế) đóng vai trò làm phép rửa cho chính Chúa Kitô, liên quan đến linh hồn của Chúa Kitô, hơn cả Mẹ Maria, người mẹ sinh hạ Chúa Kitô về phần xác, nhưng về ân sủng không một tạo vật nào, bao gồm cả các thần trời, cao trọng bằng Đức Mẹ hay cao trọng như Đức Mẹ.
Vì vai trò của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này cao trọng như thế mà cả việc ngài được thụ thai lẫn được đặt tên cũng đặc biệt lạ lùng, nhất là liên quan đến biến cố thân phụ của ngài bị câm trước khi ngài được thụ thai rồi ông bỗng dưng được khỏi câm ngay sau khi đặt tên cho ngài, như Thánh ký Luca thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay (1:57-66,80) về tác dụng của biến cố khỏi câm này nơi thành phần dân chúng chứng dự bấy giờ:
1) Lạy Chúa, Chúa đã thử con và đã nhận biết con: Chúa nhận biết con khi
con ngồi và khi con chỗi dậy. Từ lâu, Chúa đã hiểu biết các tư tưởng của
con: Chúa thấu suốt đường lối của con rồi.
2) Tâm can con thuộc quyền sở hữu của Chúa; Chúa đã nhận lãnh con từ khi con còn trong lòng mẹ. Con ca ngợi Chúa vì con được tạo thành cách lạ lùng; các việc Chúa làm thật là kỳ diệu.
3) Chúa đã am tường linh hồn con; các xương con không giấu kín trước mặt Chúa, lúc con được tạo thành cách âm thầm, khi con được dệt trong lòng đất.
Thứ Tư
(cho năm không trùng với Lễ Thánh Gioan Tẩy Giả)
Bài Ðọc I: (Năm II) 2 V 22, 8-13; 23, 1-3
"Vua đọc cho mọi người nghe lời sách giao ước đã tìm thấy trong Nhà Chúa, ký kết giao ước trước mặt Chúa".
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, thượng tế Helcia nói với thư ký Saphan rằng: "Tôi tìm thấy sách luật trong Nhà Chúa". Helcia trao sách cho Saphan đọc. Rồi thư ký Saphan đến cùng vua, và thuật lại cho vua rằng: Tôi tớ vua đã thu lượm số bạc dâng cúng trong nhà Chúa, và trao cho đốc công nơi Ðền thờ Chúa, để phát lương cho thợ. Thư ký Saphan cũng thuật cho vua rằng: "Tư tế Helcia đã trao cho tôi cuốn sách". Thư ký Saphan đã đọc sách đó trước mặt vua. Khi nghe lời sách luật Chúa, vua liền xé áo mình, rồi truyền cho tư tế Helcia và Ahica con Saphan, Acôbor con Mica, và thư ký Saphan cùng Asaia người hầu cận vua rằng: "Các ngươi hãy đi hỏi ý Chúa cho trẫm, cho toàn dân và cho nhà Giuđa, về các lời sách vừa tìm thấy. Cơn thịnh nộ của Chúa đối với chúng ta nặng nề lắm, vì cha ông chúng ta không tuân giữ các lời trong sách này". Họ thuật lại cho vua các lời của Chúa.
Bấy giờ vua sai đi triệu tập các trưởng lão Giuđa và Giêrusalem đến cùng vua. Vua lên Ðền thờ Chúa với những người thuộc chi tộc Giuđa, toàn thể dân cư Giêrusalem, các tư tế, các tiên tri và toàn dân lớn bé, ông đọc cho mọi người nghe lời sách giao ước đã tìm thấy trong Nhà Chúa. Vua đứng trên bệ, ký kết giao ước trước mặt Chúa, để ai nấy đi theo Chúa, cùng hết lòng hết sức tuân giữ các huấn lệnh, các lề luật và nghi lễ của Chúa. Họ làm sống lại các lời giao ước đã ghi chép trong sách này: cả dân đều chấp nhận bản giao ước.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 33. 34. 35. 36. 37. 40
Ðáp: Lạy Chúa, xin dạy bảo con đường lối thánh chỉ Ngài (c. 33a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin dạy bảo con đường lối thánh chỉ Ngài, để con tuân giữ cho bằng triệt để. - Ðáp.
2) Xin dạy con để con vâng theo luật pháp Ngài, và để con hết lòng tuân giữ luật đó. - Ðáp.
3) Xin hướng dẫn con vào đường lối chỉ chị Ngài, vì chính trong đường lối này con sung sướng. - Ðáp.
4) Xin nghiêng lòng con theo lời Ngài nghiêm huấn, và chớ để con sa ngã vào chỗ lợi danh. - Ðáp.
5) Xin cho con ngoảnh mặt, khỏi thấy cảnh phù vân; xin cho con được sống noi theo đường lối Chúa. - Ðáp.
6) Này đây, con khao khát huấn lệnh của Ngài, theo lượng công minh Ngài, xin cho con được sống. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 7, 15-20
"Hãy xem quả thì các con sẽ biết chúng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy coi chừng các tiên tri giả. Họ mặc lốt chiên đến cùng các con, nhưng bên trong, họ là sói dữ hay cắn xé. Hãy xem quả thì các con sẽ biết được chúng. Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái vả nơi bụi găng sao? Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt. Các cây không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy coi trái thì các con sẽ nhận biết được chúng".
Ðó là lời Chúa.
Chân dung của những "con sói... cắn xé"
Suy Niệm
Căn cứ vào lời Chúa khẳng định trên đây thì thành phần "tiên tri giả", được Người nhắc đến ngay ở đầu bài Phúc Âm hôm nay, cho dù "mặc lốt chiên", "nhưng bên trong là sói dữ" nên không thể sinh hoa trái tốt lành: "cây xấu không thể sinh trái tốt", trái lại, "cây xấu thì sinh trái xấu" là thứ hoa trái "cắn xé", sát hại, chia rẽ, phá hoại, tiêu diệt, hung tàn, bạo loạn v.v. những thứ hoa trái hiểm độc không thể nào tồn tại như hoa trái của sự sống, những thứ hoa trái cuối cùng "sẽ bị chặt đi và ném vào lửa" xứng với số phận bóng tối không thể nào át được ánh sáng, mà còn bị ánh sáng xua tan nữa.
1) Lạy Chúa, xin dạy bảo con đường lối thánh chỉ Ngài, để con tuân giữ cho bằng triệt để.
2) Xin dạy con để con vâng theo luật pháp Ngài, và để con hết lòng tuân giữ luật đó.
3) Xin hướng dẫn con vào đường lối chỉ chị Ngài, vì chính trong đường lối này con sung sướng.
4) Xin nghiêng lòng con theo lời Ngài nghiêm huấn, và chớ để con sa ngã vào chỗ lợi danh.
5) Xin cho con ngoảnh mặt, khỏi thấy cảnh phù vân; xin cho con được sống noi theo đường lối Chúa.
6) Này đây, con khao khát huấn lệnh của Ngài, theo lượng công minh Ngài, xin cho con được sống.
Thứ Năm
Bài Ðọc I: (Năm II) 2 V 24, 8-17
"Vua Babylon dẫn về Babylon Gioakim, và tất cả những binh sĩ thiện chiến làm tù binh".
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Khi lên ngôi, vua Gioakim mới mười tám tuổi, và trị vì ở Giêrusalem ba tháng. Tên mẹ vua là Naestha, ái nữ của Elna-than, quê ở Giêrusalem. Vua làm điều mất lòng Chúa cũng như cha vua đã làm xưa.
Khi ấy binh sĩ của Nabucôđônôsôr, vua Babylon, tiến đến vây Giêrusalem. Nabucôđônôsôr, vua Babylon, thân chinh điều khiển binh sĩ đến tận nơi để tấn công thành. Khi ấy Gioakim, vua Giuđa, đầu hàng vua Babylon, cùng với mẹ, binh sĩ, quan tước và các thái giám. Vua Babylon bắt họ làm tù binh, khi ấy là năm thứ tám triều vua Babylon. Vua này mang về tất cả kho tàng của đền thờ Chúa, và đền vua, ông đập vỡ tất cả các bình vàng mà Salomon, vua Israel, đã đúc cho cung thánh của Chúa, như thế ứng nghiệm lời Chúa đã phán. Vua đã đem toàn thể Giêrusalem đi đày, gồm các sĩ quan, mười ngàn binh lính cường tráng, các thứ thợ thủ công, thợ rèn, không sót lại gì cả, ngoại trừ đám dân nghèo. Vua cũng dẫn về Babylon làm tù binh vua Gioakim và thái hậu, các hoàng hậu, các thái giám, những bậc vị vọng, bảy ngàn trai tráng, một ngàn thợ làm nghề thủ công, thợ rèn, tất cả những binh sĩ thiện chiến. Vua Babylon dẫn họ sang Babylon làm tù binh. Vua đặt hoàng thúc Matthania làm vua thay Gioakim, và đổi tên ông là Seđecia.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 78, 1-2. 3-5. 8. 9
Ðáp: Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con vì vinh quang danh Chúa (c. 9bc).
Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa, ngoại bang đã xông vào gia nghiệp Chúa, họ làm ô uế thánh điện của Ngài, họ biến Giêrusalem thành nơi đổ nát! Họ ném tử thi thần dân Chúa làm mồi nuôi chim trời, và huyết nhục tín đồ Ngài cho muông thú đồng hoang. - Ðáp.
2) Họ đổ máu chư vị đó dường như nước lã quanh Giêrusalem mà không có kẻ chôn vùi. Chúng con bị bêu ra cho láng giềng phỉ nhổ, cho lân bang chế diễu nhạo cười! Tới ngày nào, lạy Chúa, Chúa còn giận mãi? Và lòng ghen hận Chúa còn như lửa nấu nung? - Ðáp.
3) Xin đừng nhớ lỗi tiền nhân để trị chúng con; xin kíp mở lòng từ bi đón nhận chúng con, vì chúng con lầm than quá đỗi! - Ðáp.
4) Ôi Thiên Chúa, Ðấng cứu độ chúng con, xin phù trợ chúng con vì vinh quang danh Chúa; xin giải thoát và tha tội chúng con vì danh Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Ga 1, 14 và 12b
Alleluia, alleluia! - Ngôi lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 7, 21-29
"Nhà xây trên nền đá và nhà xây trên cát".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không phải tất cả những ai nói với Thầy: "Lạy Chúa, Lạy Chúa", là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời. Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: "Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?" Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: "Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta".
"Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn".
Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Ðấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ.
Ðó là lời Chúa.
Nền đá sự sống
Bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XII Thường Niên hôm nay là bài phúc âm (Mathêi 7:21-29) kết thúc Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu. Qua bài phúc âm kết thúc Bài Giảng Trên Núi này, Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ của Người rằng:
1- Chỉ có ý Chúa được thể hiện qua việc con người tin tưởng chấp nhận, đáp ứng và tuân hành mới mang lại ơn cứu độ cho họ: "Không phải tất cả những ai nói với Thầy: 'Lạy Chúa, Lạy Chúa', là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời". Nghĩa là chỉ có những ai sống kết hợp ý mình với ý Chúa, chứ không phải thành phần theo ý riêng, dù là làm việc Chúa vẫn theo ý riêng, hay sống bôi bác giả hình bề ngoài, sống không thật, không bằng tất cả tấm lòng của mình.
2- Chứ không phải là những việc làm gì khác, cho dù là việc thu hút thế gian nhất, như nói tiên tri có vẻ thông biết mọi sự, hay trừ quỉ hoặc làm phép lạ với đầy quyền năng: "Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: 'Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?' Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: 'Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta'". Thành phần "nhân danh Thày" đây phải chăng là chính các tông đồ và các vị thừa kế các ngài, và dù là các đấng bậc chăng nữa, có quyền giảng dạy ("tiên tri"), quyền trừ quỉ và làm phép lạ, như được Chúa Giêsu ban cho khi Người sai các vị đi rao giảng (xem Mathêu 10:1), cũng nguy hiểm và càng nguy hiểm nếu không biết sống trọn ý Chúa nơi mình.
3- Đời sống thiêng liêng cũng chỉ vững chắc khi được căn cứ vào lời của Người, vào giáo huấn vô cùng chân thật và trọn hảo của Người, vào tất cả những gì Người đã truyền dạy mà thôi: "Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn".
Ở đầu Bài Giảng Trên Núi, Thánh ký Mathêu cho biết là "thấy đoàn lũ dân chúng thì Chúa Giêsu lên núi; khi Người ngồi xuống thì các môn đệ đến cùng Người". Có nghĩa là giáo huấn về phúc đức trọn lành của Người trực tiếp ngỏ cùng thành phần được Người kêu gọi theo Người, nhờ đó họ có thể trở thành "muối đất", thành "ánh sáng thế gian".
Thế nhưng, kết thúc Bài Giảng Trên Núi này, Thánh ký Mathêu lại cho thấy là chính dân chúng cũng được nghe "ké" giáo huấn phúc đức trọn lành này của Chúa Giêsu nữa, hay cũng có thể tiếng của Người nói với các môn đệ càng lúc càng vang to hơn khi Người thấy dân chúng tiếp tục kéo đến gần ngay chỗ qui tụ của Người và các môn đệ bấy giờ: "Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ".
Qua lời diễn tả ngay sau Bài Giảng Trên Núi này của Thánh ký Mathêu, chúng ta thấy 2 điều: 1- về phía dân chúng, cho dù ở tầm mức bình dân, không thông thái như thành phần luật sĩ và biệt phái, cũng có thể cảm nhận được giáo huấn cao siêu của Chúa Giêsu; 2- về phía Chúa Giêsu, giáo huấn phúc đức trọn lành của Người tuy cao siêu "chật hẹp" nhưng hoàn toàn hợp với lòng người, hợp với nhân bản, và nếu được mang ra áp dụng thực hành con người sẽ được biến đổi và thăng hóa theo đúng ơn gọi cùng thân phận làm người của họ.
Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy những gì xây trên cát tự nhiên trần gian hơn là xây trên đá đức tin chân thật sẽ bị sụp đổ khi gặp gian nan thử thách. Điển hình là trường hợp của vị vua trẻ Xứ Giuđa là Gioakim, "khi lên ngôi vua mới 18 tuổi và trị vì ở Giêrusalem ba tháng", nhưng "vua làm điều mất lòng Chúa cũng như cha vua đã làm xưa", mà "khi binh sĩ của Nabucôđônôsôr, vua Babylon, tiến đến vây Giêrusalem. Nabucôđônôsôr, vua Babylon, thân chinh điều khiển binh sĩ đến tận nơi để tấn công thành", thì "Gioakim, vua Giuđa, đầu hàng vua Babylon, cùng với mẹ, binh sĩ, quan tước và các thái giám".
Để rồi hậu quả vô cùng tai hại là "Vua (Babylon) đã đem toàn thể Giêrusalem đi đày, gồm các sĩ quan, mười ngàn binh lính cường tráng, các thứ thợ thủ công, thợ rèn, không sót lại gì cả, ngoại trừ đám dân nghèo. Vua cũng dẫn về Babylon làm tù binh vua Gioakim và thái hậu, các hoàng hậu, các thái giám, những bậc vị vọng, bảy ngàn trai tráng, một ngàn thợ làm nghề thủ công, thợ rèn, tất cả những binh sĩ thiện chiến. Vua Babylon dẫn họ sang Babylon làm tù binh".
Biến cố bị đi đầy sang Babylon của dân thuộc Vương quốc Giuđa trong Bài Đọc 1 hôm nay, và biến cố bị đi đầy sang Ninivê của dân thuộc Vương quốc Israel trước đó, như trong Bài Đọc 1 hôm Thứ Hai tuần này cho biết, đối với dân chúng là một tai họa vô cùng khủng khiếp, còn hơn là bị ngoại bang đô hộ khi họ còn sống trong đất nước của họ. Thế nhưng, họ không thể nào kêu trách Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ được, bởi Ngài đã từng sai các vị ngôn sứ của Ngài đến với họ để cảnh tỉnh họ và cảnh báo cho họ nhưng họ vẫn không chịu lắng nghe và đáp ứng, họ ưa nặng hơn ưa nhẹ, cho tới khi họ không ngờ phải hứng chịu một hậu quả mà họ đã được báo trước nhưng vẫn bất chấp, và cho tới bấy giờ họ mới chịu thống hối ăn năn, cho dù không còn kịp nữa, nhưng vẫn chưa muộn màng đối với LTXC và quyền toàn năng cứu độ của Vị Thiên Chúa là Chúa của họ.
Bài Đáp Ca hôm nay lá tất cả tâm tình than van khóc lóc cùng thống hối ăn năn của họ:
1) Ôi Thiên Chúa, ngoại bang đã xông vào gia nghiệp Chúa, họ làm ô uế thánh điện của Ngài, họ biến Giêrusalem thành nơi đổ nát! Họ ném tử thi thần dân Chúa làm mồi nuôi chim trời, và huyết nhục tín đồ Ngài cho muông thú đồng hoang.
2) Họ đổ máu chư vị đó dường như nước lã quanh Giêrusalem mà không có kẻ chôn vùi. Chúng con bị bêu ra cho láng giềng phỉ nhổ, cho lân bang chế diễu nhạo cười! Tới ngày nào, lạy Chúa, Chúa còn giận mãi? Và lòng ghen hận Chúa còn như lửa nấu nung?
3) Xin đừng nhớ lỗi tiền nhân để trị chúng con; xin kíp mở lòng từ bi đón nhận chúng con, vì chúng con lầm than quá đỗi!
4) Ôi Thiên Chúa, Ðấng cứu độ chúng con, xin phù trợ chúng con vì vinh quang danh Chúa; xin giải thoát và tha tội chúng con vì danh Ngài.
Thứ Sáu
Bài Ðọc I: (Năm II) 2 V 25, 1-12
"Cả dân Giuđa bị di chuyển khỏi lãnh thổ mình".
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Ngày mồng mười tháng mười năm thứ chín triều đại Sêđêcia đã xảy ra như thế này: Nabucôđônôsor vua Babylon kéo cả đạo quân tấn công Giêrusalem, dựng trại quanh thành và đào hầm quanh tường thành. Thành bị bao vây cho tới năm thứ mười một đời vua Sêđêcia. Ngày mồng chín tháng tư, nạn đói hoành hành trong thành, dân chúng không còn bánh ăn. Tường thành bị chọc thủng một khoảng, thừa đêm tối tất cả các chiến sĩ chạy trốn qua lối cửa giữa hai tường, gần vườn vua. Khi ấy, quân Calđê vẫn bao vây thành. Vậy vua Sêđêcia chạy trốn qua con đường đi Araba. Nhưng quân Calđê đuổi theo kịp vua tại cánh đồng Giêricô: tất cả các chiến sĩ hộ tống vua đều bỏ vua mà chạy tứ tán.
Sêđêcia bị bắt và điệu về cho vua Babylon đang ngự tại Rebla: vua này tuyên án xử ngài; rồi truyền giết các con của Sêđêcia ngay trước mặt ngài, truyền khoét mắt vua và xiềng vua dẫn về Babylon.
Ngày mồng bảy tháng năm, chính là năm thứ mười chín triều đại vua Babylon, Nabuzarđan tướng quân, cận thần vua Baby-lon, đến Giêrusalem: đốt đền thờ Chúa, đền vua, và tất cả các nhà ở Giêrusalem. Tất cả các nhà đồ sộ, ông nổi lửa đốt hết. Quân binh Calđê đang ở với tướng quân, triệt hạ tường thành bao quanh Giêrusalem.
Nabuzarđan tướng quân bắt đi phần dân còn sót trong thành, cả những kẻ trốn theo vua Babylon và tất cả những người khác. Còn hạng cùng đinh chỉ để lại (làm) những kẻ trồng nho và những người làm ruộng.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 136, 1-2. 3. 4-5. 6
Ðáp: Lưỡi tôi dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi (c. 6a).
Xướng: 1) Trên bờ sông Babylon, chúng tôi ngồi khóc nức nở khi tưởng nhớ đến núi Sion. Trên những cây dương liễu miền đó, chúng tôi treo các cây lục huyền cầm của chúng tôi. - Ðáp.
2) Vì nơi này, quân canh ngục đòi chúng tôi vui vẻ hát lên. Họ giục chúng tôi rằng: "Hãy vui mừng; hãy hát cho chúng ta nghe điệu ca Sion". - Ðáp.
3) Lẽ nào chúng tôi ca hát ngợi khen Thiên Chúa trên đất khách quê người? Hỡi Giêrusalem, nếu tôi lại quên ngươi, thì cánh tay tôi sẽ bị khô đét. - Ðáp.
4) Lưỡi tôi dính vào cuống họng nếu tôi không nhớ đến ngươi, nếu tôi không đặt Giêrusalem trên tất cả mọi niềm vui thoả. - Ðáp.
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 8, 1-4
"Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi Chúa Giêsu ở trên núi xuống, đám đông dân chúng theo Người. Có một người cùi đến lạy Người mà thưa rằng: "Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch". Chúa Giêsu giơ tay ra chạm đến anh ta và phán: "Ta muốn. Anh hãy lành bệnh". Tức thì anh ta liền lành khỏi bệnh phong cùi. Chúa Giêsu phán bảo anh ta: "Hãy ý tứ, đừng nói với ai. Hãy đi trình diện với tư tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng cho họ biết".
Ðó là lời Chúa.
Giao ước sự sống
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XII Thường Niên, Thánh ký Mathêu (8:1-4) đã cho biết ở ngay câu đầu của đoạn 8 là: "Khi Chúa Giêsu ở trên núi xuống, đám đông dân chúng theo Người". Tức là, sau Bài Giảng Trên Núi của Người, một bài giảng đã gây một tác dụng mãnh liệt nơi dân chúng như câu kết của đoạn 7 sau bài Giảng Trên Núi ở bài Phúc Âm hôm qua cho thấy: "Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ".
Nhưng có một cái lạ là hình như trong đám đông dân chúng ấy có một người cùi, không biết nặng hay nhẹ, chắc là nhẹ thôi nên không ai chú ý lắm, bằng không anh ta đâu có thể lẻn vào đám đông như vậy được mà đến xin Chúa Giêsu chữa lành cho một cách dễ dàng như thế: "Có một người cùi đến lạy Người mà thưa rằng: 'Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch'".
Còn một cái lạ hơn nữa, đó là, sau khi chữa cho người cùi được lành rồi, Chúa Giêsu chẳng những bảo anh ta đi trình diện các vị tư tế theo đúng luật định mà trước hết căn dặn anh ta phải giữ kín chuyện được chữa lành nữa: "Chúa Giêsu giơ tay ra chạm đến anh ta và phán: 'Ta muốn. Anh hãy lành bệnh'. Tức thì anh ta liền lành khỏi bệnh phong cùi. Chúa Giêsu phán bảo anh ta: 'Hãy ý tứ, đừng nói với ai. Hãy đi trình diện với tư tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng cho họ biết'".
Nếu Chúa Giêsu đã chữa cho người cùi này lành mạnh ngay giữa đám đông dân chúng theo Người bấy giờ thì Người còn căn dặn "'Hãy ý tứ, đừng nói với ai" đây nghĩa là gì, trong khi đó bao nhiêu người bấy giờ đã biết chuyện anh ta được chữa lành và sẽ đồn ra khắp nơi, cho dù anh ta không nói. Hay là Chúa Giêsu đã gặp riêng người cùi này khi dân chúng đã tự động giải tán vào một lúc nào đó, vì Người cùng với các môn đệ đi vào một nơi hoang vắng nào đó, nơi ẩn náu của thành phần bị cùi hủi sống xa tránh dân chúng?
Thật ra, ngay trước Bài Giảng Trên Núi, theo Thánh ký Mathêu (4:23-25), Chúa Giêsu đã nổi tiếng tới tận Syria về các phép lạ Người chữa lành cho các thứ bệnh nạn tật nguyền rồi. Nhưng ngay sau Bài Giảng Trên Núi thì người cùi này là trường hợp cá nhân đầu tiên được kể đến bởi quyền năng chữa lành của Người.
Thái độ khiêm cung ("đến lạy Người") và hoàn toàn tin tưởng phó thác tùy ý Chúa muốn ("Lạy Ngài nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch") của nạn nhân phong cùi đã được Chúa Giêsu đáp ứng, bằng cách Người "giơ tay chạm đến anh ta và phán: 'Ta muốn. Anh hãy lành bệnh'".
Bệnh phong cùi là chứng bệnh làm hư hoại hình dạng của con người, một chứng bệnh tiêu biểu cho tác dụng của nguyên tội đã làm cho con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26-27) không còn nguyên vẹn hình hài tốt lành như thuở ban đầu nữa.
Thế nhưng, Thiên Chúa đã hứa cứu độ con người ngay sau khi nguyên tổ của họ sa ngã (xem Khởi Nguyên 3:15), để họ có thể lấy lại dung nhan hình hài thần linh của mình, bằng cách được trở nên giống Chúa Giêsu Kitô Con của Ngài "là hình ảnh Thiên Chúa vô hình" (Colose 3:15).
Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy một vương quốc Giuđa nói chung và Thành Thánh Giêrusalem nói riêng bị phong cùi đến độ hoàn toàn biến dạng và trở thành dị dạng gây ra bởi bàn tay của đế quốc dân ngoại Babylon. Chỉ vì sau đợt lưu đầy sang Babylon thứ nhất, vua Sêđêcia là chú của vua Gioakim, được Vua Babylon đặt lên thay người cháu bị bắt đầy sang Babylon, nhưng bất chấp biến cố người cháu làm vua trước mình có bị đi đầy sang Babylon và vương quốc của mình đang bị Babylon đô hộ, vẫn tiếp tục sống một cách gian ác. Để rồi cuối cùng phải hứng chịu một hậu quả còn ghê gớm hơn cháu của mình, liên quan đến bản thân vua, gia đình vua, dân của vua và thành trì của vua nữa, thật là tan hoang, chẳng còn hình thù gì nữa, chẳng khác gì như bị một chứng phong cùi rùng rợn:
"Vua Sêđêcia chạy trốn qua con đường đi Araba. Nhưng quân Calđê đuổi theo kịp vua tại cánh đồng Giêricô: tất cả các chiến sĩ hộ tống vua đều bỏ vua mà chạy tứ tán. Sêđêcia bị bắt và điệu về cho vua Babylon đang ngự tại Rebla: vua này tuyên án xử ngài; rồi truyền giết các con của Sêđêcia ngay trước mặt ngài, truyền khoét mắt vua và xiềng vua dẫn về Babylon. Ngày mồng bảy tháng năm, chính là năm thứ mười chín triều đại vua Babylon, Nabuzarđan tướng quân, cận thần vua Baby-lon, đến Giêrusalem: đốt đền thờ Chúa, đền vua, và tất cả các nhà ở Giêrusalem. Tất cả các nhà đồ sộ, ông nổi lửa đốt hết. Quân binh Calđê đang ở với tướng quân, triệt hạ tường thành bao quanh Giêrusalem. Nabuzarđan tướng quân bắt đi phần dân còn sót trong thành, cả những kẻ trốn theo vua Babylon và tất cả những người khác".
Và cũng chỉ khi nào thành phần dân ưu tuyển này phải hứng chịu gian nan khốn khổ đến tận cùng như thế, xứng với thái độ quá ư là mù quáng và cứng đầu cứng cổ ương ngạnh của họ, họ mới nhận biết tội lỗi mình mà kêu khóc xin Chúa đoán thương, như tâm tình ai oán than thân trách phận nơi lưu đầy tha hương ở đất khách quê người của Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Trên bờ sông Babylon, chúng tôi ngồi khóc nức nở khi tưởng nhớ đến núi Sion. Trên những cây dương liễu miền đó, chúng tôi treo các cây lục huyền cầm của chúng tôi.
2) Vì nơi này, quân canh ngục đòi chúng tôi vui vẻ hát lên. Họ giục chúng tôi rằng: "Hãy vui mừng; hãy hát cho chúng ta nghe điệu ca Sion".
3) Lẽ nào chúng tôi ca hát ngợi khen Thiên Chúa trên đất khách quê người? Hỡi Giêrusalem, nếu tôi lại quên ngươi, thì cánh tay tôi sẽ bị khô đét.
4) Lưỡi tôi dính vào cuống họng nếu tôi không nhớ đến ngươi, nếu tôi không đặt Giêrusalem trên tất cả mọi niềm vui thoả.
Thứ Bảy
Bài Ðọc I: (Năm II) Ac 2, 2. 10-14. 18-19
"Trên tường thành thiếu nữ Sion, lòng họ kêu vang lên Thiên Chúa".
Trích sách Ai Ca.
Chúa phá tan các báu vật nhà Giacóp chẳng nương tay: trong cơn thịnh nộ, Chúa phá huỷ thành luỹ thiếu nữ Giuđa. Người quật xuống đất và làm sỉ nhục cả vương quốc, cả quan chức cao sang.
Các kỳ lão của thiếu nữ Sion ngồi dưới đất thinh lặng, mình mang áo nhặm và rắc tro trên đầu. Còn các trinh nữ Giêrusalem gục đầu xuống đất. Mắt tôi hao mòn vì quá khóc than, lòng tôi bàng hoàng thổn thức, gan tôi đổ tràn trên đất, vì các tai hoạ của thiếu nữ dân tôi: các trẻ thơ, hài nhi măng sữa, xỉu la liệt giữa phố phường. Chúng xin mẹ: "Bánh mì rượu tốt ở đâu?" Chúng ngã xỉu ngoài đường phố như bị gươm đao. Chúng tắt thở ngay nơi lòng mẹ.
Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, ta sánh ngươi cùng ai, ta ví ngươi như kẻ nào? Hỡi trinh nữ Sion, ta sánh ngươi cùng ai để an ủi? Vì nỗi khổ ngươi man mác tựa biển khơi, nào ai chữa nổi ngươi? Các tiên tri của ngươi nói bậy nói sai, chẳng vạch cho ngươi một vài gian ác, cùng chẳng giục ngươi khóc lóc ăn năn, mà chỉ tiên kiến những điều giả dối, khiến ngươi bị trục xuất và lưu đày.
Trên tường thành thiếu nữ Sion, lòng họ kêu vang lên Chúa. Hãy chan hoà suối lệ đêm ngày, đừng để mắt ngươi yên nghỉ. Hãy chỗi dậy, hãy ca ngợi mỗi đầu canh đêm, hãy giốc đổ lòng ra như nước trước Nhan Chúa, hãy giơ tay cầu khẩn Chúa cho lũ trẻ thơ, chúng ngã xỉu vì đói ở góc đường xó chợ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 73, 1-2. 3-5a. 5b-7. 20-21
Ðáp: Ðời sống con người cơ khổ, xin Chúa đừng nỡ quên hoài (c. 19b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, tại sao Chúa ruồng bỏ chúng con hoài? Tại sao Chúa nung nấu lửa hận với đoàn chiên Chúa? Xin nhớ lại cộng đồng Chúa thiết lập tự thuở xa xưa, xin nhớ bộ lạc Chúa đã chuộc để làm phần tư hữu, xin nhớ lại núi Sion, nơi Chúa đã đặt ngai toà! - Ðáp.
2) Xin Chúa dời gót tới nơi hoang tàn vĩnh viễn: tên thù đã tàn phá hết trong thánh điện của Ngài. Trong hội đường của Chúa, quân nghịch đã rống lên, chúng đã đặt cờ hiệu của chúng trên đài chiến thắng. - Ðáp.
3) Chúng giống như kẻ trong rừng rậm vung lưỡi rìu! Chúng cũng dùng rìu búa bổ vào cửa hội đường như thế, chúng đã châm lửa đốt thánh điện của Ngài, chúng chà đạp cung lâu danh Ngài tận đất! - Ðáp.
4) Xin Chúa nhìn lại lời minh ước, vì nơi hang hốc và đồng ruộng đầy dẫy bạo hành. Xin đừng để người khiêm cung trở về tủi hổ, xin cho người cơ hàn nghèo khổ được ngợi khen danh Chúa. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 8, 5-17
"Những người từ phương đông và phương tây sẽ đến trong nước trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, thì có một đại đội trưởng đến thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, thằng nhỏ nhà tôi đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt đau đớn lắm!" Chúa Giêsu phán bảo ông rằng: "Tôi sẽ đến chữa nó". Nhưng viên đại đội trưởng thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi, tôi bảo người kia đến thì anh đến, tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!" Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng". Ðoạn Chúa nói với viên sĩ quan rằng: "Ông cứ về, ông được như ông đã tin". Và ngay giờ ấy, gia nhân ông đã được lành mạnh.
Khi Chúa Giêsu vào nhà ông Phêrô, thấy bà mẹ vợ ông đang sốt rét liệt giường. Chúa chạm đến tay bà và cơn sốt biến đi. Bà chỗi dậy tiếp đãi các ngài.
Ðến chiều, họ đưa đến cho Chúa nhiều người bị quỷ ám: Chúa dùng lời đuổi quỷ, và chữa lành tất cả các bệnh nhân, để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói rằng: "Người đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta".
Ðó là lời Chúa.
Giao ước sự sống
(tiếp)
Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu (8:5-17) cho Thứ Bảy Tuần XII Thường Niên hôm nay tiếp tục bài phúc âm hôm qua, cả hai bài đều được vị thánh ký này ghi lại về 2 trường hợp chữa lành khác nhau, nhưng bài phúc âm hôm qua việc chữa lành của Người liên quan đến một người Do Thái, còn bài phúc âm hôm nay việc chữa lành của Người liên quan đến một người dân ngoại, đó là "một đại đội trưởng".
Thế nhưng, phải công nhận là viên đại đội trưởng Roma này có lòng bác ái yêu thương nên vừa nghe ông yêu cầu: "Lạy Thầy, thằng nhỏ giúp việc cho nhà tôi - my serving boy - đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt đau đớn lắm!" nên đã được Chúa Giêsu đáp ứng liền: "Tôi sẽ đến chữa nó".
Đúng thế, viên đại đội trưởng Roma này đã tỏ ra chăm sóc cho cả thằng nhỏ đầy tớ giúp việc nhà cho ông, chứ không phải là con của ông. Nếu có máu đế quốc thì ông chẳng để ý đến nó làm gì, có thể đã bảo nó về nhà của nó để nghỉ ngơi cho đến khi nào khỏi bệnh thì trở lại.
Ngoài ra, có thể ông cũng biết nói cả tiếng Do Thái để sống với họ là thành phần sống dưới quyền đô hộ của đế quốc Rôma. Do đó, không thấy Thánh ký Mathêu nói có người thông dịch hay ông bảo ai nói thay ông. Thánh ký Luca, trong cùng câu chuyện, lại thuật rằng ông "sai một số vị trưởng lão Do Thái đến với Người" (7:3), chứ ông không đích thân đến như trong bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu hôm nay.
Ở Phúc Âm Thánh ký Luca, chúng ta còn thấy 1 chi tiết nữa cho thấy viên đại đội trưởng này sống bác ái yêu thương dân chúng bị đô hộ của mình nên được họ thương mến, đó là chi tiết được chính các vị trưởng lão do ông sai đến với Chúa Giêsu bày tỏ cho Người biết rằng: "Ông ta yêu thương dân chúng tôi, thậm chí xây dựng hội đường cho chúng tôi nữa" (Luca 3:5).
Tuy nhiên, không thể bác ái yêu thương nếu không có lòng khiêm nhượng. Viên đại đội trưởng này quả thực có cả một tấm lòng khiêm nhượng trong vai trò làm đại đội trưởng khá nhiều quyền lực trong vùng trách nhiệm của ông. Trước hết, theo Thánh ký Mathêu, chính ông có thể đã biết tiếng Do Thái (nhờ học hỏi giao tiếp) để sống hòa đồng với thành phần dân bị đế quốc ông đo hộ, chứ không cần nhờ người phụng dịch cho ông. Sau nữa, chính ông đích thân đến xin Chúa Giêsu chữa lành cho thằng nhỏ đầy tớ Do Thái của ông, chứ không sai bảo ai dưới quyền ông. Sau hết, chính ông đích thân bày tỏ cái cảm giác bất xứng trong việc được diễm phúc đón rước vào nhà của ông một vị ông rất coi trọng, ngưỡng phục và đầy lòng tin tưởng là Chúa Giêsu:
"Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ đầy tớ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi, tôi bảo người kia đến thì anh đến, tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!"
Đó là lý do, không lạ gì, sau khi đối diện với viên đại đội trưởng này, nhất là sau khi nghe ông bày tỏ cả lòng bác ái lẫn khiên nhượng như vậy, Chúa Giêsu đã không ngớt lời khen tặng ông, như Thánh ký Mathêu đã ghi lại trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: 'Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
Lòng bác ái yêu thương và khiêm nhượng của viên đại đội trương dân ngoại Rôma này phát xuất từ một đức tin hữu thần, dù sống trong một thế giới vô thần, một đức tin còn mãnh liệt hơn cả dân Do Thái của Người, một đức tin được bày tỏ với chính vị Thiên Chúa Làm Người, Đấng đã "nói với viên sĩ quan rằng: 'Ông cứ về, ông được như ông đã tin'. Và ngay giờ ấy, gia nhân ông đã được lành mạnh".
Việc Chúa Giêsu chữa lành cho thằng nhỏ đầy tớ của viên đại đội trưởng dân ngoại Rôma cho thấy rằng Người đến không phải chỉ cứu dân Do Thái mà là để cứu chuộc cả loài người nói chung và những ai tin vào Người nói riêng. Bởi vì, Người tuy mang giòng máu Do Thái nhưng lại mặc lấy bản tính chung của loài người, một bản tính đã bị hư hoại bởi nguyên tội, và vì thế, đúng như câu cuối của bài Phúc Âm hôm nay trích lại lời tiên tri Isaia: "Người đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta".
"Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng". Lời Chúa Giêsu phán trong bài Phúc Âm hôm nay quả thực đã ứng nghiệm nơi thân phận lưu đầy của dân Do Thái là thành phần "con cái trong nước", vì họ không tin vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình hơn dân ngoại, trái lại, còn liên lỉ bất trung phản bội Ngài, cho đến khi họ "phải khóc lóc nghiến răng" như những gì được Sách Ai Ca diễn tả ở Bài Đọc 1 hôm nay:
"Chúa phá tan các báu vật nhà Giacóp chẳng nương tay: trong cơn thịnh nộ, Chúa phá huỷ thành luỹ thiếu nữ Giuđa. Người quật xuống đất và làm sỉ nhục cả vương quốc, cả quan chức cao sang.... các trẻ thơ, hài nhi măng sữa, xỉu la liệt giữa phố phường. ... Chúng ngã xỉu ngoài đường phố như bị gươm đao. Chúng tắt thở ngay nơi lòng mẹ...."
Cũng trong lúc "khóc lóc" như thế, họ đồng thời cũng "nghiến răng" khi nghĩ đến các tay tiên tri giả mà họ đã nghe theo, phủ nhận và bách hại tiên tri thật do Thiên Chúa sai đến cảnh báo và kêu gọi họ, bởi không hợp với xu hướng buông tuồng phản bội của họ, và vì hùa theo những tên tiên trỉ giá ấy đã khiến họ phải lâm vào cảnh khốn cùng ấy: "Các tiên tri của ngươi nói bậy nói sai, chẳng vạch cho ngươi một vài gian ác, cùng chẳng giục ngươi khóc lóc ăn năn, mà chỉ tiên kiến những điều giả dối, khiến ngươi bị trục xuất và lưu đày".
Thế nhưng, trong cảnh khốn cùng ấy họ mới có thể thức tỉnh mà nhận ra chân lý và tha thiết cầu xin cho được cứu độ: "Trên tường thành thiếu nữ Sion, lòng họ kêu vang lên Chúa. Hãy chan hoà suối lệ đêm ngày, đừng để mắt ngươi yên nghỉ. Hãy chỗi dậy, hãy ca ngợi mỗi đầu canh đêm, hãy giốc đổ lòng ra như nước trước Nhan Chúa, hãy giơ tay cầu khẩn Chúa cho lũ trẻ thơ, chúng ngã xỉu vì đói ở góc đường xó chợ".
Họ đặt vấn đề với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, chứ không dám trách móc Ngài, xin Ngài nhớ lại giao ước của Ngài mà thương cứu họ cho khỏi tay quân thù là thành phần chẳng những hành khổ họ mà còn phạm đến cả Thiên Chúa của họ ở những nơi thánh điện của Ngài, như tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy:
1) Lạy Chúa, tại sao Chúa ruồng bỏ chúng con hoài? Tại sao Chúa nung nấu lửa hận với đoàn chiên Chúa? Xin nhớ lại cộng đồng Chúa thiết lập tự thuở xa xưa, xin nhớ bộ lạc Chúa đã chuộc để làm phần tư hữu, xin nhớ lại núi Sion, nơi Chúa đã đặt ngai toà!
2) Xin Chúa dời gót tới nơi hoang tàn vĩnh viễn: tên thù đã tàn phá hết trong thánh điện của Ngài. Trong hội đường của Chúa, quân nghịch đã rống lên, chúng đã đặt cờ hiệu của chúng trên đài chiến thắng.
3) Chúng giống như kẻ trong rừng rậm vung lưỡi rìu! Chúng cũng dùng rìu búa bổ vào cửa hội đường như thế, chúng đã châm lửa đốt thánh điện của Ngài, chúng chà đạp cung lâu danh Ngài tận đất!
4) Xin Chúa nhìn lại lời minh ước, vì nơi hang hốc và đồng ruộng đầy dẫy bạo hành. Xin đừng để người khiêm cung trở về tủi hổ, xin cho người cơ hàn nghèo khổ được ngợi khen danh Chúa.