SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Gr 31, 7-9
"Ta sẽ lấy lòng từ bi dẫn dắt kẻ đui mù và què quặt".
Bài trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Ðây Chúa phán: Hỡi Giacóp, hãy hân hoan vui mừng! Hãy hò hét vào đầu các Dân ngoại, hãy cất tiếng vang lên, ca hát rằng: "Lạy Chúa, xin hãy cứu dân Chúa là những kẻ sống sót trong Israel".
Ðây, Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất bắc trở về, sẽ tụ họp chúng lại từ bờ cõi trái đất: trong bọn chúng sẽ có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con đi chung với nhau, hợp thành một cộng đoàn thật đông quy tụ về đây.
Chúng vừa đi vừa khóc, Ta sẽ lấy lòng từ bi và dẫn dắt chúng trở về. Ta sẽ đưa chúng đi trên con đường thẳng, băng qua các suối nước; chúng không phải vấp ngã trên đường đi: vì Ta đã trở nên thân phụ dân Israel, và Ephraim là trưởng tử của Ta.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6
Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan (c. 3).
Xướng: 1) Khi Chúa đem những người từ Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. - Ðáp.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: "Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng." Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, hãy đổi số phận của con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. - Ðáp.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 5, 1-6
"Con là tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê".
Bài trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Tất cả các vị thượng tế được chọn giữa loài người, nên được đặt lên thay cho loài người mà lo việc Chúa, để hiến dâng lễ vật và hy lễ đền tội. Người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm lạc, vì chính người cũng mắc phải yếu đuối tư bề. Vì thế, cũng như người phải dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. Không ai được chiếm vinh dự đó, nhưng phải là người được Thiên Chúa kêu gọi như Aaron.
Cũng thế, Ðức Kitô không tự dành lấy quyền làm thượng tế, nhưng là Ðấng đã nói với Người rằng: "Con là Con Cha, hôm nay Cha sinh ra Con". Cũng có nơi khác Ngài phán: "Con là tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê".
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến; bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 10, 46-52
"Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ và một đám đông, thì con ông Timê tên là Bartimê, một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường, khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: "Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi". Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: "Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót tôi".
Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: "Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh". Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: "Anh muốn Ta làm gì cho anh?" Người mù thưa: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy". Chúa Giêsu đáp: "Ðược, đức tin của anh đã chữa anh". Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.
Ðó là lời Chúa.
Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm B hôm nay vẫn tiếp tục chủ đề sự sống của Mùa Phục Sinh và từ Mùa Phục Sinh, một sự sống theo ý nghĩa ánh sáng: "ánh sáng sự sống - the light of life" (Gioan 8:12).
Thật vậy, nếu chết là hiện tượng hay sự kiện linh hồn lìa khỏi thể xác, tức là tình trạng con người hoàn toàn và vĩnh viễn không còn biết gì nữa, thì sống thực sự là tình trạng con người còn nhận biết hay có nhận thức, có ý thức. Đó là lý do "sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha đã sai là Đức Giêsu Kitô" (Gioan 17:3).
Nếu "nhận biết" Thiên Chúa hay nhận biết tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa là tác động siêu nhiên, để được sự sống đời đời như thế thì "nhận biết" cũng chính là tác động "tin": "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, để ai tin vào Người thì không phải chết nhưng được sự sống đời đời" (Gioan 3:16).
Mà muốn cho loài người thuộc hạ giới "nhận biết" và "tin" những gì thuộc thượng giới, những gì thuộc về "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24), những gì được gọi là mạc khải thần linh vô cùng huyền nhiệm và siêu việt, vượt trên tâm trí chẳng những hạn hẹp và thấp hèn mà còn đầy mù quáng và thiên lệch của con người, nhờ đó họ được sự sống đời đời, được thông phần sự sống thần linh với mình, Thiên Chúa không thể nào không tỏ mình ra cho họ, như "ánh sáng chiếu trong tăm tối" (Gioan 1:5), nhất là "vào lúc thời gian viên trọn" (Galata 4:4), qua "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), Đấng là "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9).
Việc Chúa Giêsu chữa lành cho "một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường" trong bài Phúc Âm hôm nay là biểu hiệu cho mạc khải thần linh, như "ánh sáng (là Chúa Kitô) chiếu trong tăm tối (là người mù)". Tuy nhiên, việc Chúa Giêsu chữa lành cho người "con ông Timê tên là Bartimê" này không phải chỉ để cho anh ta lành mạnh về thể lý nơi thị lực của anh ta mà là để anh ta được sự sống đời đời, nhờ việc anh ta "nhận biết" Người, "tin" vào Người: "đức tin của anh đã chữa anh", và chính nhờ anh ta đã "thấy được" mọi sự, nhất là thấy được Chúa Giêsu là "ánh sáng thế gian" mà anh ta đã "đi theo Người", vì "ai theo Tôi sẽ được ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12).
Thật ra, trước khi được Chúa Giêsu chữa lành cho cặp mắt chỉ thấy toàn tối tăm của mình, nạn nhân mù ngồi ăn xin bên vệ đường ở Giêricô này đã thấy được những gì mà đôi mắt bất hạnh của anh ta, dù có sáng tỏ như một người bình thường, cũng không thể nào thấy được, đó là anh ta thấy được một Đấng vô hình mà anh hằng tin tưởng đợi chờ. Bởi thế chẳng lạ gì, như Phúc Âm hôm nay chứng thực: "Khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: 'Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi'".
Vì là Đấng "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 19:10), Chúa Giêsu làm sao không dừng lại khi nghe thấy nạn nhân bất hạnh này kêu van và kêu vang thảm thiết như thế, nhất là khi thấy "nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: 'Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót tôi'". Thế nên, Phúc Âm đã thuật lại rằng: "Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến".
Có thể là Chúa Giêsu đã đi ngang qua chỗ người mù ngồi ăn xin này, vì Phúc Âm vừa thuật lại rằng "Chúa Giêsu dừng lại ...", và Người hình như cũng đã cố ý không lưu ý gì đến nạn nhân đáng thương đầy lòng tin này, để nhờ đó có thể chẳng những tỏ mình ra cho riêng anh ta bằng việc chữa lành cho anh ta, mà còn chữa lành cho chung đám đông dân chúng và riêng các môn đệ của Người đang đi theo Người, khi họ thấy được đức tin mãnh liệt của anh ta nơi Người, ở chỗ "càng kêu to hơn" và ở chỗ "liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu".
Cử chỉ bao gồm 3 tác động "liệng áo choàng (như từ bỏ quá khứ), đứng dậy (như hướng đến tương lai), đến cùng Chúa Giêsu (như cùng đích cuộc đời)" một cách cương quyết và dứt khoát này, chứng tỏ nạn nhân mù ấy đã tin chắc rằng mình sẽ được toại nguyện như lòng mong ước, như anh ta đã chân thành và tha thiết thưa cùng Chúa Giêsu: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy".
Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy một cuộc hội ngộ tuyệt vời giữa ánh
sáng và bóng tối, giữa Chúa Giêsu và người mù ăn xin bên vệ đường. Ở chỗ,
người mù ăn xin này vốn mong được gặp Chúa Giêsu, và chính Chúa Giêsu cũng
muốn gặp chàng ta nữa: "Người
gọi anh đó", thậm chí Người còn muốn gặp chàng trước khi chàng
muốn gặp Người và Người muốn gặp chàng hơn là chàng muốn gặp Người, vì Người
bao giờ cũng cứu độ, cũng muốn chữa
lành, cho dù vào Ngày Hưu Lễ. Bởi
thế, hai ước muốn gặp nhau này đã thực sự xẩy ra hết sức tuyệt vời như vậy!
Trước một con người vừa mù lòa về thể xác vừa tin tưởng về tâm linh như thế, tấm lòng vô cùng nhân hậu của Chúa Giêsu làm sao không bị đánh động, vì, như Bài Đọc 2 hôm nay cho thấy, Người "là tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê", một vị thượng tế "hiến dâng lễ vật và hy lễ đền tội. Người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm lạc". Ở chỗ, như Bài Đọc 1 hôm nay diễn tả như ám chỉ về Người: "Chúng vừa đi vừa khóc, Ta sẽ lấy lòng từ bi và dẫn dắt chúng trở về. Ta sẽ đưa chúng đi trên con đường thẳng, băng qua các suối nước; chúng không phải vấp ngã trên đường đi".
Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa nhận thức của thành phần dân Do Thái lưu đầy trở về đối với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, Đấng không bao giờ bỏ họ, luôn ra tay cứu độ họ, một khi họ biết ăn năn thống hối chịu đựng khổ ải gây ra do tội lỗi của họ phản bội Ngài, Đấng chỉ đánh động họ bằng những gian nan khốn khó bất hạnh cho đến khi họ nhận thức mà được cứu độ, được sự sống thần linh là chính lòng họ tin tưởng vào Ngài:
1) Khi Chúa đem
những người từ Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy
giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: "Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng." Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.
3) Lạy Chúa, hãy đổi số phận của con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) Ep 4, 32 - 5, 8
"Anh em hãy sống trong tình thương như Ðức Kitô".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Ðức Kitô.
Vậy anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, như con cái rất yêu dấu của Người: hãy sống trong tình thương, như Ðức Kitô đã yêu thương chúng ta và phó mình làm của dâng và lễ tế thơm tho ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa vì chúng ta.
Còn như tội tà dâm và mọi thứ tội ô uế hay là gian tham, thì dù nhắc đến tên chúng cũng đừng nói tới nơi anh em, như thế mới xứng hợp với các thánh. Cả những chuyện hoa tình, tục tĩu và giễu cợt, tất cả những cái đó đều bất xứng. Tốt hơn là hãy nói những lời cảm tạ Chúa.
Bởi chưng anh em hãy biết rõ điều này là: tất cả những kẻ tà dâm, ô uế hay tham lam, là một thứ nô lệ thần tượng, đều không được hưởng phần gia nghiệp trong nước của Ðức Kitô và Thiên Chúa. Ðừng để ai lấy hão huyền mà phỉnh gạt anh em, vì những điều ấy mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đổ xuống trên những con cái ngỗ nghịch. Vậy anh em chớ thông đồng với những kẻ ấy. Xưa kia anh em là sự tối tăm, nhưng hiện nay anh em là sự sáng trong Chúa. Anh em hãy ăn ở như con cái sự sáng.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6
Ðáp: Anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, như con cái rất yêu dấu của Người (c. Ep 5, 1).
Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng. Nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.
2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa: lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.
3) Kẻ gian ác không được như vậy; họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 13, 10-17
"Chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc người con gái của Abraham này trong ngày Sabbat sao?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, nhân ngày Sabbat, Chúa Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Và đây có một người đàn bà bị quỷ ám làm cho bà đau yếu đã mười tám năm. Bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được. Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: "Hỡi bà kia, bà được khỏi tật của bà". Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa.
Nhưng viên trưởng hội đường tức giận, vì Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabbat, nên ông cất tiếng bảo dân chúng rằng: "Có sáu ngày người ta phải làm việc: vậy thì các người hãy đến xin chữa bệnh trong ngày đó, chớ đừng đến trong ngày Sabbat".
Chúa trả lời và bảo ông ta rằng: "Hỡi những kẻ giả hình, chớ thì trong ngày Sabbat, mỗi người trong các ông không thả bò hay lừa của mình ra khỏi chuồng mà dẫn nó đi uống nước sao? Phương chi người con gái của Abraham này, Satan cột trói nó đã mười tám năm nay, chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabbat sao?"
Khi Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người đều hổ thẹn, và toàn dân vui mừng vì những việc lạ lùng Người đã thực hiện.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Hôm nay, Thứ Hai Tuần XXX Thường Niên, bài Phúc Âm thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho người đàn bà khòm lưng 18 năm trường ở trong hội đường vào một ngày hưu lễ.
"Khi ấy, nhân ngày Sabbat, Chúa Giêsu giảng dạy trong một hội
đường. Và đây có một người đàn bà bị quỷ ám làm cho bà đau yếu đã
mười tám năm. Bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được.
Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: 'Hỡi
bà kia, bà được khỏi tật của bà'. Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức
thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa".
Sở dĩ người đàn bà này bị khòm lưng 18 năm như vậy không phải là vì bà bị dị tật bẩm sinh ngay từ khi mới sinh, hay vì một chứng bệnh quái lạ nào khác, hoặc vì bị tai nạn vào một lúc nào đó trong đời của bà, mà là vì "bà bị quỷ ám". Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định hiện tượng này trong câu Người cảnh giác "viên trưởng hội đường tức giận, vì Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabbat" và "tất cả những kẻ chống đối Người": "Người con gái của Abraham này, Satan cột trói nó đã mười tám năm nay, chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabbat sao?".
Trong biến cố chữa lành này, Chúa Giêsu đã tự động ra tay chứ không cần phải chờ cho tới khi nữ nạn nhân khòm lưng 18 năm đáng thương này kêu xin Người, như bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: 'Hỡi bà kia, bà được khỏi tật của bà'. Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa".
Chắc đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu gặp nữ nạn nhân đáng thương này và bà cũng bắt gặp Người lần đầu tiên, trong một hội đường, nơi có thể bà hằng tuần đến nghe lời Chúa, và cũng là nơi có thể Chúa Giêsu mới tới lần đầu. Không biết bà đã nghe ai nói về Người hay chưa, về các phép lạ Người làm, mà bà khi nghe thấy Chúa Giêsu giảng dạy khôn ngoan hơn các luật sĩ và biệt phái như thế mà cũng vô cảm, như không biết Người là ai, trong khi đó người mù ngồi ăn xin ở vệ đường ở thành Giêricô, như trong bài Phúc Âm của Chúa Nhật XXX Thường Niên hôm qua cho thấy, đã nhào đến van xin Người chữa lành đôi mắt của anh ta cho bằng được.
Có thể bà cần phải nhìn thấy dung nhan vô cùng hiền hậu và ánh mắt chinh phục của Người nữa bà mới có thể nhận biết Người là ai và như thế nào, trong khi đó, như Phúc Âm thuật lại, "bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được". Ở đây, chúng ta thấy hai hình ảnh rất sâu xa:
Trước hết, vì con người "không thể trông lên được", không biết Chúa là ai, mà Thiên Chúa cần phải đến với con người trước, cần phải đoái trông đến con người, để chính Ngài làm cho họ có thể như nữ nạn nhân khòm lưng "đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa", nghĩa là có thể ngước trông lên Ngài, có thể nhận biết Ngài, có thể theo Ngài, có thể làm cho Ngài được nhận biết và yêu mến.
Sau nữa, hình ảnh người đàn bà "khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được đây", gây ra bởi bị quỉ ám, là hình ảnh con người nói chung đã vướng mắc nguyên tội, do ma quỉ là "tên sát nhân ngay từ ban đầu" (Gioan 8:44), cho dù họ có được thánh tẩy bởi Phép Rửa, cũng vẫn đầy những mầm mống tội lỗi và đam mê nết xấu, liên lỉ xu hướng về tội lỗi ("khòm lưng" luôn chúi đầu và chúi mặt xuống đất), có thể vấp ngã bất cứ lúc nào (người khòm lưng, chứ không phải gù lưng, rất dễ ngã xuống đất, nếu nhỡ có một ai đó đụng vào sau lưng, như thể bị ma quỉ cám dỗ xúi bậy).
Tại sao trong trường hợp này Chúa Giêsu không trừ quỉ cho người đàn bà khòm lưng 18 năm này, mà lại chữa lành cho bà thôi, không như trường hợp Người đã trừ quỉ cho một người bị câm do quỉ ám (xem Mathêu 9:32-33)? Thật ra, chữa lành cho nữ nạn nhân cho khỏi bị khòm lưng này cũng là cách gián tiếp trừ quỉ, là cách "tháo xiềng xích" mà satan đã "cột trói" bà, bởi vì nếu quỉ không bị Người khu trừ khỏi bà thì bà vẫn còn bị khòm lưng như thường.
Trường hợp không trừ quỉ mà chỉ chữa lành này cũng tương tự như trường hợp Người đã chữa lành cho một người bất toại là để chứng tỏ Người có quyền tha tội của Người, một quyền hành Người thực sự có mà nếu Người quả thực không tha được tội cho người bất toại là nguyên nhân gây ra hậu quả tật nguyện của người này, thì Người cũng không chữa lành cho nạn nhân bất toại ấy được (xem Mathêu 9:1-8).
Hình ảnh người đàn bà "khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được đây", gây ra bởi bị quỉ ám, như trên đã cảm nhận, là hình ảnh con người nói chung đã vướng mắc nguyên tội, nên luôn sống theo xác thịt, luôn hướng hạ ("khòm lưng" - một tật nguyền khiến con người không bao giờ thấy trời, ám chỉ họ không thể nào hướng thượng, mà chỉ thấy đất, chỉ luôn hướng hạ, hướng về trần tục tầm thường, chiều theo xác thịt hèn hạ, có thể sa ngã bất cứ lúc nào). Bởi thế, trong Bài Đọc 1 cho năm chẵn hôm nay, ....
Bài Ðọc I: (Năm II) Ep 4, 32 - 5, 8
"Anh em hãy sống trong tình thương như Ðức Kitô".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Ðức Kitô.
Vậy anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, như con cái rất yêu dấu của Người: hãy sống trong tình thương, như Ðức Kitô đã yêu thương chúng ta và phó mình làm của dâng và lễ tế thơm tho ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa vì chúng ta.
Còn như tội tà dâm và mọi thứ tội ô uế hay là gian tham, thì dù nhắc đến tên chúng cũng đừng nói tới nơi anh em, như thế mới xứng hợp với các thánh. Cả những chuyện hoa tình, tục tĩu và giễu cợt, tất cả những cái đó đều bất xứng. Tốt hơn là hãy nói những lời cảm tạ Chúa.
Bởi chưng anh em hãy biết rõ điều này là: tất cả những kẻ tà dâm, ô uế hay tham lam, là một thứ nô lệ thần tượng, đều không được hưởng phần gia nghiệp trong nước của Ðức Kitô và Thiên Chúa. Ðừng để ai lấy hão huyền mà phỉnh gạt anh em, vì những điều ấy mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đổ xuống trên những con cái ngỗ nghịch. Vậy anh em chớ thông đồng với những kẻ ấy. Xưa kia anh em là sự tối tăm, nhưng hiện nay anh em là sự sáng trong Chúa. Anh em hãy ăn ở như con cái sự sáng.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6
Ðáp: Anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, như con cái rất yêu dấu của Người (c. Ep 5, 1).
Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng. Nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.
2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa: lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.
3) Kẻ gian ác không được như vậy; họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) Ep 5, 21-33
"Mầu nhiệm này thật lớn lao; trong Ðức Kitô và trong Hội Thánh".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em hãy phục tùng nhau trong sự kính sợ Ðức Kitô. Người vợ hãy phục tùng chồng mình, như đối với Chúa: vì chồng là đầu người vợ, như Ðức Kitô là đầu Hội Thánh: chính Người là Ðấng Cứu Chuộc thân thể mình. Nhưng như Hội Thánh phục tùng Ðức Kitô thể nào, thì người vợ cũng phục tùng chồng mình trong mọi sự như vậy.
Hỡi những người làm chồng, hãy yêu thương vợ mình, như Ðức Kitô yêu thương Hội Thánh và phó mình vì Hội Thánh để thánh hoá Hội Thánh, khi Người dùng nước và lời hằng sống rửa sạch Hội Thánh, ngõ hầu bày tỏ cho mình một Hội Thánh vinh quang, không vết nhơ, không nhăn nheo, hay phải điều gì khác tương tự, nhưng thánh thiện và vẹn tuyền.
Cũng thế, người chồng phải yêu thương vợ mình như chính thân mình. Ai yêu thương vợ mình, là yêu thương chính mình. Vì không ai ghét thân xác mình bao giờ, nhưng nuôi dưỡng và nâng niu nó, như Ðức Kitô đối với Hội Thánh: vì chúng ta là chi thể của thân xác Người, do xương thịt Người. "Bởi thế, người ta lìa bỏ cha mẹ mình mà kết hợp với vợ mình: và cả hai nên một thân xác". Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Ðức Kitô và Hội Thánh. Dù sao, mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như bản thân mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 127, 1-2. 3. 4-5
Ðáp: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa (c. 1a).
Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người. Công quả tay bạn làm ra, bạn được an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Ðáp.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thấy nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. - Ðáp.
3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Thiên Chúa. Nguyện Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 34
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 13, 18-21
"Hạt cải mọc lên và trở thành một cây to".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Nước Thiên Chúa giống như cái gì? Và Ta sẽ so sánh nước đó với cái gì? Nước đó giống như hạt cải mà người kia lấy gieo trong vườn mình. Nó mọc lên và trở thành một cây to, và chim trời đến nương náu trên ngành nó".
Người lại phán rằng: "Ta sẽ so sánh Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước đó giống như tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả khối đều dậy men".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Ba Tuần XXX Thường Niên, thuật lại 2 dụ ngôn được Chúa Giêsu sử dụng để sánh ví về "Nước Thiên Chúa" như sau:
Dụ ngôn thứ nhất: "Nước Thiên Chúa giống như cái gì? Và Ta sẽ so sánh nước đó với cái gì? Nước đó giống như hạt cải mà người kia lấy gieo trong vườn mình. Nó mọc lên và trở thành một cây to, và chim trời đến nương náu trên ngành nó".
Dụ ngôn thứ hai: "Ta sẽ so sánh Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước đó giống như tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả khối đều dậy men".
Trong cả hai dụ ngôn này đều cho thấy sự sống của "Nước Thiên Chúa", được tỏ hiện qua sự phát triển của sự sống siêu nhiên và thiêng liêng này, một sự sống thần linh, trước hết, bắt nguồn chỉ là một cái mầm, nhỏ như là một "hạt cải", nhưng sau đó đã "mọc lên và trở thành một cây to, và chim trời đến nương náu trên ngành nó".
Phải chăng "hạt cải" đây ám chỉ đức tin, "người kia" đây ám chỉ Chúa Kitô, "gieo" đây ám chỉ việc Chúa Kitô tỏ mình ra, nhất là qua cuộc Vượt Qua của Người, "trong ruộng mình" đây ám chỉ trên thế gian này? Nếu những diễn giải theo suy đoán này không sai thì ý nghĩa của dụ ngôn này có thể hiểu là Nước Trời giống như đức tin cứu độ được Chúa Kitô gieo vãi trên thế gian này vậy.
Chính đức tin cứu độ này, một khi "mọc lên", hình ảnh ám chỉ một Chúa Kitô Phục Sinh, thì sẽ "trở thành một cây to" ám chỉ Giáo Hội Chúa Kitô, một cộng đồng đức tin, đồng thời cũng là một bí tích cứu độ trần gian của Người và với người, một phương tiện cứu độ các linh hồn như "chim trời đến nương náu trên ngành nó".
Sự phát triển tiêu biểu cho sự sống thần linh này còn được ví như "tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả khối đều dậy men".
Phải chăng "tấm men" đây ám chỉ lời Chúa hay Phúc Âm và bí tích thánh (Phụng Vụ Thánh Thể); "người đàn bà kia" ám chỉ Giáo Hội; "bỏ vào" ám chỉ áp dụng, cử hành, ban phát; "ba đấu bột" ám chỉ 3 thành phần làm nên cộng đồng dân Chúa, cộng đồng đức tin, đó là giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ (tất nhiên giáo sĩ bao gồm cả hàng giáo phẩm); "đều dậy men" ám chỉ các phần tử của Giáo Hội được hiệp nhất nên một với Chúa Kitô để sinh muôn vàn hoa trái thiêng liêng?
Đến đây, nếu các dẫn giải vừa được suy diễn không sai, thì chúng ta thấy 2 dụ ngôn về "Nước Thiên Chúa" này, một liên quan đến "hạt cải" và một liên quan đến "tấm men" liên hệ với nhau. Ở chỗ, một dụ ngôn liên quan đến sứ vụ của Chúa Kitô ("người kia", rõ hơn là "người đàn ông kia - a man") trong công cuộc gieo vãi đức tin cứu độ ("hạt cải") trên thế gian, và một dụ ngôn liên quan đến vai trò của Giáo Hội ("người đàn bà kia") trong việc làm cho 3 thành phần chính yếu của Giáo Hội được thấm nhuần tinh thần và sự sống của Chúa Kitô.
Phải chăng Chúa Kitô và Giáo Hội được ám chỉ trong 2 dụ ngôn về "Nước Thiên Chúa" trong bài Phúc Âm hôm nay được phản ảnh nơi mối liên hệ vợ chồng theo ý nghĩa siêu nhiên và được thánh hóa bởi Bí Tích Hôn Phối Kitô giáo, một mối liên hệ nhờ đó mới xứng đáng và có thể phản ảnh tình yêu nhưng không và vô đối của Thiên Chúa thủy chung đối với dân của Ngài, và là một mối liên hệ được Thánh Phaolô diễn tả và khẳng định với Kitô hữu Giáo đoàn Epheso trong Bài Đọc 1 hôm nay rằng còn phản ảnh mối liên hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người nữa: "Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Ðức Kitô và Hội Thánh".
Và đó là lý do, vì "mầu nhiệm cao cả về Đức Kitô và Hội Thánh" được Thánh Phaolô nói tới, Một Đức Kitô và một Hội Thánh, trong dụ ngôn về Nước Trời trong Bài Phúc Âm hôm nay, là "người (nam) kia" gieo "hạt cải trong vườn của mình" và là "người đàn bà" "lấy (tấm men) bỏ vào 3 đấu bột", mới có Bài Đáp Ca về liên hệ vợ chồng, như thường nghe đọc trong Thánh Lễ Hôn Phối của Giáo Hội Công giáo sau đây:
1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người. Công quả tay bạn làm ra, bạn được an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thấy nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn.
3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Thiên Chúa. Nguyện Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn.
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) Ep 6, 1-9
"Không phải phụng sự loài người, nhưng là tôi tớ của Ðức Kitô".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Hỡi những kẻ làm con cái, hãy vâng phục cha mẹ trong Chúa: đó là lẽ phải. Hãy thảo kính cha mẹ ngươi, đó là giới răn thứ nhất kèm theo lời hứa rằng "để ngươi được phần phúc và sống lâu dài trên địa cầu".
Còn phần anh em là những kẻ làm cha mẹ, anh em chớ làm cho con cái anh em tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng theo lời dạy bảo và khuyên răn của Chúa.
Hỡi những kẻ làm nô lệ, hãy vâng phục các chủ nhân, với lòng tôn sợ, kính nể, và chân thành như vâng phục Ðức Kitô: không phải vâng phục chiếu lệ trước mắt, như để lấy lòng người ta, nhưng như những tôi tớ của Ðức Kitô, tận tâm vâng theo thánh ý Thiên Chúa, hãy chí thú phục vụ, như phục vụ Thiên Chúa, chớ không phải loài người: vì biết rằng hễ ai làm điều gì lành, sẽ được Chúa ban trả sự lành, dầu kẻ ấy là nô lệ hay tự do. Phần anh em là những chủ nhân, anh em hãy cư xử như vậy đối với họ, chớ doạ nạt, vì biết rằng Chúa của họ cũng là Chúa của anh em ngự trên trời: Người không tây vị một ai.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 10-11. 12-13ab. 13cd-14
Ðáp: Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán (c. 13c).
Xướng: 1) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài, Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. - Ðáp.
2) Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời, chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ. - Ðáp.
3) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 135
Alleluia, alleluia! - Xin tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 13, 22-30
"Người ta sẽ từ đông sang tây đến dự tiệc trong nước Chúa".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem. Có kẻ hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Nhưng Người phán cùng họ rằng: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được. Khi chủ nhà đã vào đóng cửa lại, thì lúc đó các ngươi đứng ngoài mới gõ cửa mà rằng: "Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: "Ta không biết các ngươi từ đâu tới". Bấy giờ các ngươi mới nói rằng: "Chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi". Nhưng chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: "Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta".
Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng. Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa. Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết, và những người trước hết sẽ nên sau hết".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Hôm nay, Thứ Tư Tuần XXX Thường Niên, trong bài Phúc Âm, Thánh ký Luca thuật lại cho chúng ta về vấn nạn số người được cứu độ, một vấn nạn bất chợt được đặt ra cho Chúa Giêsu khi Người đang "rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem", đích điểm mà Người phải đến để hoàn tất ơn cứu độ - Vậy Người đã trả lời ra sao?
Để hiểu được câu trả lời của Chúa Giêsu, cần phải biết nguyên văn câu hỏi từ một người nào đó trong đám đông đi theo Người bấy giờ: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Đây là một câu vừa nghi vấn "phải chăng", vừa khẳng định "chỉ có một số ít sẽ được cứu độ", một câu hỏi chỉ muốn người trả lời xác nhận theo đúng ý của người hỏi, chẳng hạn: "Đúng thế, chỉ có một số ít sẽ được cứu độ mà thôi!"
Sở dĩ người đặt ra câu hỏi này chủ trương "chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" là vì người này cho rằng chỉ có dân Do Thái là dân của Chúa mới là dân thánh, mới được cứu độ, ngoài ra, tất cả dân ngoại đều tội lỗi, xấu xa, đáng ghê tởm, không bao giờ được cứu độ. Chưa hết, ngay cả trong chính dân Do Thái của họ, thì thành phần thu thuế và đĩ điếm được liệt vào hạng tội nhân, cũng chẳng được cứu độ. Thế nên, "chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" là vậy.
Nếu thế thì vấn nạn nhân trong bài Phúc Âm hôm nay, tiêu biểu cho chung dân Do Thái và cho riêng thành phần biệt phái cùng luật sĩ này cho rằng việc cứu độ chỉ giành cho những ai tuân giữ luật Chúa, và cứu độ không phải là một "ơn", được gọi là "ơn cứu độ", mà là việc cứu độ liên quan đến việc tuân giữ luật của họ. Ngoài ra, chủ trương việc cứu độ hơn là "ơn cứu độ" này còn ngầm cho rằng không có vấn đề thống hối ăn năn, một khi con người đã sa ngã phạm tội thì kể không được cứu độ nữa.
Đó là lý do khi được Chúa Giêsu nhắc nhở "ai trong các người không có tội thì cứ ném đá chị ta đi (người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình)" (Gioan 8:7), họ mới chẳng những chợt hổ thẹn bỏ đi từ người lớn tuổi hơn (xem Gioan 8:8), mà còn được nhắc nhở rằng ai cũng có tội, cần phải ăn năn thống hối, chứ đừng lên án và sát phạt người khác làm như thể mình chẳng có tội và chẳng đáng bị ném đá.
Phần Chúa Giêsu, Người đã không trả lời dứt khoát với vấn nạn nhân này rằng "sẽ có một số ít sẽ được cứu độ" như họ mong đợi, hay là "sẽ có nhiều người được cứu độ". Người chỉ nói đến điều kiện để được cứu độ mà thôi: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp". Đồng thời Người cũng thòng thêm một câu ngay sau đó, một câu như thể Người tỏ ra đồng ý và chấp nhận chiều hướng "sẽ có một số ít sẽ được cứu độ" của người đặt vấn đề với Người, và câu được Người bồi thêm là: "Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được".
Như thế, nếu muốn được cứu độ, tức muốn được lên trời, con người cần phải "vào qua cửa hẹp", trong khi đó, thực tế cho thấy "nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được" thì đúng là phải kết luận rằng: "chỉ có một số ít sẽ được cứu độ" mà thôi.
Tại sao thế? Tại sao lại xẩy ra chuyện kỳ quặc như thế: "nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được"? Chẳng lẽ người ta muốn được cứu rỗi mà cũng không được hay sao, mà cũng không đúng như ý Chúa muốn cứu độ họ hay sao? Trái lại, cuối cùng còn bị Ngài phủ nhận và chối bỏ một cách phũ phàng cùng nghiêm thẳng xua đuổi nữa: "Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta". Cho dù họ có tự biện minh và bào chữa hợp tình hợp lý rằng: "Chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi".
Chính những lời họ tự bào chữa và biện minh này đã thực sự chứng tỏ họ là một trong "nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được", cho dù họ "đã ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi", tương tự như tín hữu Công giáo sau này ra trước tòa phán xét có chuyện gì không may thì viện lẽ mình đã tham dự Thánh Lễ, một cử hành phụng vụ bao gồm phần phụng vụ lời Chúa ("Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi") và phần phụng vụ Thánh Thể ("ăn uống trước mặt Ngài"), nhưng vẫn bị hư đi!
Những lời họ tự bào chữa và biện minh này còn cho thấy họ quả thực đã chủ trương do các việc họ làm mà họ được cứu độ, hơn là "ơn" cứu độ Chúa ban. Và vì thế, họ ở vào số "nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được". Trong khi đó, thành phần dân ngoại mà họ cho là chắc chắn hư đi, không được rỗi như họ, thì lại được "ơn" cứu độ Chúa ban, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, khi Người tiên báo cho họ biết rằng: "Người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa". Và Người kết luận: "Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết (như thành phần dân ngoại), và những người trước hết sẽ nên sau hết (như thành phần dân Do Thái)".
Chính vì việc cứu rỗi của con người là do Ơn Cứu Độ hơn là do công sức của con người, mà "cửa hẹp" được Chúa Kitô nhắc đến trong Bài Phúc Âm hôm nay và kêu gọi thành phần tự công chính hóa bản thân "hãy vào" chính là lòng khiêm nhượng, là "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" (Mathêu 18:3), là tin tưởng vào chính lòng thương xót Chúa, mà Thánh Phaolô, trong Thư gửi Kitô hữu Giáo Đoàn Ephêsô ở Bài Đọc 1 hôm nay, mới khuyên các thành phần trong xã hội thời bấy giờ hãy sống siêu nhiên hơn là tự nhiên, tức là hãy sống theo đức tin, hãy sống vì Chúa và theo ý Chúa, hơn là vì mình và theo tự nhiên, dù thân phận mình là ai và như thế nào:
"Hỡi những kẻ làm con cái, hãy vâng phục cha mẹ trong Chúa... Còn những kẻ làm cha mẹ... hãy giáo dục con cái theo lời dạy bảo và khuyên răn của Chúa. Những kẻ làm nô lệ vâng phục các chủ nhân với lòng tôn sợ, kính nể, và chân thành như vâng phục Ðức Kitô... như những tôi tớ của Ðức Kitô, tận tâm vâng theo thánh ý Thiên Chúa, hãy chí thú phục vụ, như phục vụ Thiên Chúa, chớ không phải loài người.... Những chủ nhân hãy cư xử như vậy đối với họ, chớ doạ nạt, vì biết rằng Chúa của họ cũng là Chúa của anh em ngự trên trời: Người không tây vị một ai".
Phần Thiên Chúa, Đấng ban ơn cứu độ, như Bài Đáp Ca hôm nay cảm nhận và xác tín, không bao giờ bỏ rơi những ai đáng thương trước nhan Ngài: "Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên" (câu 3). Nhất là những ai tin vào Ngài là Đấng "trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc Ngài làm" (câu 3). Chính vì Ngài làm gì cũng là để cho con người tin vào Ngài mà được cứu độ mà Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay (2 cầu 1 và 2) mới tuyên xưng rằng:
1) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài, Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài.
2) Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời, chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ.
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) Ep 6, 10-20
"Anh em hãy mặc lấy mã giáp của Thiên Chúa để có thể đứng vững".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, về tương lai, anh em hãy can đảm trong Chúa, và trong quyền năng sức mạnh của Người. Anh em hãy mặc lấy mã giáp của Thiên Chúa, để anh em có thể chống lại được với những mưu chước ma quỷ. Bởi vì chúng ta không những chiến đấu với huyết nhục, mà còn chiến đấu với kẻ chấp chính và quyền thế, với kẻ cai quản thế giới u minh này, và những ác thần trên không gian. Bởi đó, anh em hãy mặc lấy mã giáp của Thiên Chúa, để có thể kháng cự được trong ngày đen tối, và đứng vững sau khi bình định được tất cả. Vậy anh em hãy đứng vững, thắt đai lưng chân lý, mặc áo giáp công chính, và chân mang giày để sẵn sàng truyền bá Tin Mừng hoà bình. Anh em hãy luôn luôn mang khiên thuẫn đức tin, nhờ đó anh em dập tắt được mọi tên lửa kẻ cực ác. Anh em hãy nhận lấy mũ chiến cứu độ và cầm gươm của Thánh Thần, (tức là lời của Thiên Chúa).
Bằng mọi lời cầu xin và khẩn nguyện, anh em hãy nguyện cầu mọi lúc trong Thánh Thần. Hãy tỉnh thức ân cần lo việc đó, và cũng hãy cầu nguyện cho tất cả các thánh. Hãy cầu nguyện cho cả tôi nữa, để tôi được lợi khẩu khi mở miệng, và can đảm rao giảng mầu nhiệm Tin Mừng mà tôi là sứ giả ngay trong lúc phải mang xiềng xích, hầu khi rao giảng, tôi mạnh dạn nói năng như tôi phải nói.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 143, 1. 2. 9-10
Ðáp: Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa! (c. 1a).
Xướng: 1) Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa, là Ðấng rèn luyện cho tay con biết đấu tranh, cho các ngón tay con thiện nghề chinh chiến. - Ðáp.
2) Chúa là Tình thương và là chiến luỹ, là Ðấng phù trợ và giải phóng con, Chúa là khiên thuẫn, là chỗ con nương náu. Ngài bắt chư dân phải khuất phục con. - Ðáp.
3) Ôi Thiên Chúa, con sẽ ca mừng Ngài bài ca mới, với cây đàn mười dây con sẽ ca mừng Ngài, vì Ngài đã ban cho các vua chiến thắng, đã giải phóng Ðavít là tôi tớ của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: x. Ep 1, 17-18
Alleluia, alleluia! - Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã soi lòng trí để chúng ta biết thế nào là sự cậy trông Chúa kêu gọi chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 13, 31-35
"Không lẽ một tiên tri phải giết chết ngoài thành Giêrusalem?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Trong ngày ấy, có mấy người biệt phái đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: "Xin Thầy lên đường và đi khỏi đây, vì Hêrôđê toan giết Thầy". Người trả lời: "Các ông hãy đi nói với con cáo đó rằng: "Ðây Ta trừ quỷ và chữa lành bệnh tật hôm nay và ngày mai, rồi ngày thứ ba Ta hoàn tất cuộc đời. Nhưng hôm nay, ngày mai và ngày hôm sau nữa, Ta còn phải đi đường, vì không lẽ một tiên tri bị giết chết ngoài thành Giêrusalem".
"Ôi Giêrusalem, Giêrusalem! Ngươi giết hại các tiên tri và ném đá những người đã được sai đến cùng ngươi. Ðã bao lần Ta muốn tụ họp con cái ngươi, như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh, thế mà ngươi đã không muốn. Thì đây, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang vu. Nhưng Ta bảo cho các ngươi hay: Các ngươi sẽ không còn xem thấy Ta, cho đến khi các ngươi sẽ nói rằng: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến!"
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Hôm nay, Thứ Năm Tuần XXX Thường Niên, Phúc Âm của Thánh ký Luca thuật lại lời Chúa Giêsu, Đấng đang tiến về giáo đô Giêrusalem, đích điểm của cuộc hành trình cứu độ của Người với tư cách là một Đấng Thiên Sai Cứu Thế, tiên báo cho những người biệt phái biết, (chứ không phải là các môn đệ của Người biết), lần đầu tiên về cuộc tử nạn của Người ở Giêrusalem.
"Trong ngày ấy, có mấy người biệt phái đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: 'Xin Thầy lên đường và đi khỏi đây, vì Hêrôđê toan giết Thầy'. Người trả lời: 'Các ông hãy đi nói với con cáo đó rằng: Ðây Ta trừ quỷ và chữa lành bệnh tật hôm nay và ngày mai, rồi ngày thứ ba Ta hoàn tất cuộc đời. Nhưng hôm nay, ngày mai và ngày hôm sau nữa, Ta còn phải đi đường, vì không lẽ một tiên tri bị giết chết ngoài thành Giêrusalem'".
Thật ra, đây không phải là lần đầu tiên Chúa Giêsu ngấm ngầm báo trước về cuộc tử nạn của Người với những người ngoài thành phần môn đệ của Người. Nhưng quả thật là lần đầu tiên với nhóm biệt phái. Ngoài ra, theo Phúc Âm Thánh ký Gioan, ngay từ đầu, Người cũng đã báo trước với chung dân Do Thái nữa ở ngay tại Đền Thờ Giêrusalem, khi Người thách họ "hãy cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày Tôi sẽ dựng lại nó" (Gioan 2:19).
Chưa hết, theo Phúc Âm Thánh ký Mathêu, gần đến giờ của mình, tức là sau khi Người đã vinh quang vào Thánh Giêrusalem và đã thanh tẩy Đền Thờ, Người còn nói với thành phần lãnh đạo dân Do Thái nữa, qua dụ ngôn người con duy nhất của chủ vườn nho là chính bản thân Người bị bọn tá điền sát hại để chiếm gia nghiệp của người con này nữa (xem Mathêu 21:23,37-38).
Ở đây, trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, không biết những người biệt phái báo tin cho Người về âm mưu của quận vương Hêrôđê có hiểu được những gì Người nói liên quan đến cuộc tử nạn của Người sẽ xẩy ra ở giáo đô Giêrusalem hay chăng, tuy nhiên, thành phần biệt phái vẫn âm mưu hại Người nay có một số trong họ lại muốn cứu Người thì phải kể là sự lạ.
Hơn thế nữa, có người trong họ cũng đã mời Người đến nhà dùng bữa, như nhân vật tên Simon (xem Luca 7:36,40) hay nhân vật thủ lãnh nhóm này ở bài Phúc Âm ngày mai (xem Luca 14:1). Thậm chí có nhân vật biệt phái trong Hội Đồng Đầu Mục Do Thái là Nicôđêmô đã lén lút đến gặp Người ban đêm nữa (xem Gioan 3:1). Chính Chúa Giêsu đã chọn một pharisiêu để làm tông đồ cho dân ngoại là chàng Saulê (xem Tông Vụ 23:6). Như thế đủ cho thấy chúng ta đừng bao giờ "vơ đũa cả nắm" theo thành kiến về cá nhân nào hay về một nhóm nào có "con sâu làm rầu nồi canh".
Về phần Chúa Giêsu, khi nghe tin báo nguy hiểm cho bản thân mình như thế từ những người biệt phái, Người vẫn không hề tỏ ra lo âu sợ hãi và vội vàng tìm cách trốn tránh, trái lại, Người còn bảo những người báo tin ấy hãy đi nói lại với vị quận vương tinh quái như "con cáo" ấy về những gì Người vẫn tiếp tục cần làm và phải làm: "trừ quỷ và chữa lành bệnh tật hôm nay và ngày mai", cho tới khi hoàn tất sứ vụ của Người: "rồi ngày thứ ba Ta hoàn tất cuộc đời".
Thậm chí Người cũng chẳng ngần ngại công khai cho biết Người trong thời gian ấy đang ở đâu nữa, cứ việc tìm đến với Người nếu muốn, không hề sợ bị bại lộ tông tích: "Nhưng hôm nay, ngày mai và ngày hôm sau nữa, Ta còn phải đi đường" để tiến về Giêrusalem và chỗ đó mới là nơi định mệnh của Người: "vì không lẽ một tiên tri bị giết chết ngoài thành Giêrusalem hay sao".
Nếu Đền Thờ Giêrusalem biểu hiệu cho sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa thì Thành Giêrusalem biểu hiệu cho dân Chúa, nơi Thiên Chúa muốn ở giữa họ (xem Khải Huyền 21:1-3) như là một Emmanuel - Thiên Chúa ở giữa chúng ta (xem Mathêu 1:23 và Gioan 1:14).
Thế nhưng, cho dù Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ luôn ở với họ vẫn liên lỉ ngoại tình bằng việc hiến mình tôn thờ các ngẫu tượng của họ và các thần ngoại bang, bất chấp thành phần được Thiên Chúa sai đến nhắc nhở họ, bao gồm cả chính Con của Ngài, và vì thế họ sẽ phải hứng chịu hậu quả tương xứng cho tới khi họ nhận biết Người là Đấng Thiên Sai của họ, như Chúa Giêsu đã báo trước ở cuối bài Phúc Âm hôm nay:
"Ôi Giêrusalem, Giêrusalem! Ngươi giết hại các tiên tri và ném đá những người đã được sai đến cùng ngươi. Ðã bao lần Ta muốn tụ họp con cái ngươi, như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh, thế mà ngươi đã không muốn. Thì đây, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang vu. Nhưng Ta bảo cho các ngươi hay: Các ngươi sẽ không còn xem thấy Ta, cho đến khi các ngươi sẽ nói rằng: 'Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến!'"
Sự kiện Chúa Giêsu Kitô thực sự đã chịu khổ nạn và tử giá ở Giêrusalem, nghĩa là ở giữa dân Do Thái, do dân Do Thái và cho dân Do Thái, không phải là vì quyền lực sự dữ thắng thế trên Người, hay là vì Người không thể xuống khỏi thập giá như dân này thách thức Người, cho bằng vì Người đã tự hiến (xem Gioan 10:17-18,17:19) theo đúng ý Cha của Người là Đấng đã sai Người, đến độ Ngài đã, như Thánh Phaolô Tông Đồ khẳng định trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay: "không dung tha chính Con Mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta". Bởi Chúa Giêsu Kitô không phải chỉ là Đấng Thiên sai của dân Do Thái mà còn là Đấng Cứu Thế của chung nhân loại "chúng ta" nữa.
Lời cảnh báo trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Xin Thầy lên đường và đi khỏi đây, vì Hêrôđê toan giết Thầy", và thái độ bình tĩnh coi thường của Chúa Kitô: "Các ông hãy đi nói với con cáo đó rằng: Ðây Ta trừ quỷ và chữa lành bệnh tật hôm nay và ngày mai, rồi ngày thứ ba Ta hoàn tất cuộc đời. Nhưng hôm nay, ngày mai và ngày hôm sau nữa, Ta còn phải đi đường, vì không lẽ một tiên tri bị giết chết ngoài thành Giêrusalem'", đã được Thánh Phaolô trong Bài Đọc 1 hôm nay như thể căn cứ vào đó mà khuyên Kitô hữu giáo đoàn Epheso "về tương lai, anh em hãy can đảm trong Chúa, và trong quyền năng sức mạnh của Người... để anh em có thể chống lại được với những mưu chước ma quỷ. Bởi vì chúng ta không những chiến đấu với huyết nhục, mà còn chiến đấu với kẻ chấp chính và quyền thế, với kẻ cai quản thế giới u minh này, và những ác thần trên không gian".
Đó là lý do, cũng trong Bài Đọc 1 hôm nay, ngài khuyên họ hãy trang bị cho đàng hoàng và tương xứng với trận chiến thiêng liêng rất gay go quyết liệt như thế này: "Bởi đó, anh em hãy mặc lấy mã giáp của Thiên Chúa, để có thể kháng cự được trong ngày đen tối, và đứng vững sau khi bình định được tất cả. Vậy anh em hãy đứng vững, thắt đai lưng chân lý, mặc áo giáp công chính, và chân mang giày để sẵn sàng truyền bá Tin Mừng hoà bình. Anh em hãy luôn luôn mang khiên thuẫn đức tin, nhờ đó anh em dập tắt được mọi tên lửa kẻ cực ác. Anh em hãy nhận lấy mũ chiến cứu độ và cầm gươm của Thánh Thần, (tức là lời của Thiên Chúa)".
Chính vì Kitô hữu cần phải trang bị để chiến đấu và chiến thắng trận chiến thiêng liêng này một cách oanh liệt, ở chỗ thắt đai lưng chân lý, mặc áo giáp công chính... mang khiên thuẫn đức tin...", nhất là ở chỗ: "nhận lấy mũ chiến cứu độ và cầm gươm của Thánh Thần, (tức là lời của Thiên Chúa)" như thế mới có những tâm tình tin tưởng đầy cảm nghiệm thần linh như Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa, là Ðấng rèn luyện cho tay con biết đấu tranh, cho các ngón tay con thiện nghề chinh chiến.
2) Chúa là Tình thương và là chiến luỹ, là Ðấng phù trợ và giải phóng con, Chúa là khiên thuẫn, là chỗ con nương náu. Ngài bắt chư dân phải khuất phục con.
3) Ôi Thiên Chúa, con sẽ ca mừng Ngài bài ca mới, với cây đàn mười dây con sẽ ca mừng Ngài, vì Ngài đã ban cho các vua chiến thắng, đã giải phóng Ðavít là tôi tớ của Ngài.
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) Pl 1, 1-11
"Ðấng đã khởi sự trong anh em công việc tốt lành, sẽ làm hoàn tất cho đến ngày của Ðức Kitô".
Khởi đầu bức thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.
Phaolô và Timôthêu, tôi tớ của Ðức Giêsu Kitô, kính gửi tất cả các thánh trong Ðức Giêsu Kitô ở thành Philípphê, cùng với các chủ tịch giáo đoàn và các phụ tá. Nguyện chúc ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và của Ðức Giêsu Kitô, ở cùng anh em!
Tôi luôn luôn cảm tạ Thiên Chúa của tôi mỗi khi nhớ tới anh em, trong mọi kinh nguyện mà tôi hân hoan cầu xin cho anh em, vì anh em đã góp phần rao giảng Tin Mừng ngay từ ngày đầu tiên cho tới bây giờ.
Tôi tin tưởng điều này là Ðấng đã khởi sự trong anh em công việc tốt lành đó, sẽ làm hoàn tất cho đến ngày của Ðức Giêsu Kitô. Mà tôi tưởng nghĩ về mọi người anh em như thế thì chính đáng: vì tôi tích để anh em trong lòng tôi, dù khi tôi mang xiềng xích, dù lúc tôi biện hộ hay củng cố Tin Mừng, mọi người anh em đều thông phần vào sự vui mừng của tôi. Thực, có Thiên Chúa làm chứng cho tôi rằng: Tôi trìu mến tất cả anh em trong lòng Ðức Giêsu Kitô là dường nào. Ðiều tôi khẩn nguyện là lòng yêu mến của anh em mỗi ngày một thêm chan chứa hơn, trong sự thông biết và mọi sự suy hiểu, để anh em biết xác định những điều tốt lành hơn, hầu giữ mình trong sạch và không gì đáng trách trong ngày của Ðức Kitô, dư đầy hoa quả công chính, nhờ Ðức Giêsu Kitô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 110, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Vĩ đại thay công cuộc của Chúa (c. 2a).
Xướng: 1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi! - Ðáp.
2) Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Người muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ bi. - Ðáp.
3) Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Ngài, cho tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước. Chúa tỏ cho dân Ngài thấy công cuộc quyền năng của Ngài, hầu ban cho họ được phần sản nghiệp của chư dân. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 36a và 29b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin nghiêng lòng con theo lời Chúa răn bảo, và xin rộng tay ban luật pháp của Chúa cho con. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 14, 1-6
"Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không kéo nó lên sao?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào dùng bữa trong nhà một thủ lãnh biệt phái, thì những người hiện diện ở đó dòm xét Người. Bấy giờ có một người mắc bệnh thuỷ thũng ở trước mặt Người. Chúa Giêsu lên tiếng hỏi các Luật sĩ và biệt phái rằng: "Trong ngày Sabbat, có được phép chữa bệnh không?" Các ông ấy làm thinh. Bấy giờ Người kéo kẻ ấy lại, và chữa lành, rồi cho về. Ðoạn Người bảo các ông rằng: "Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?" Nhưng các ông không thể trả lời câu hỏi ấy.
Ðó là lời Chúa.
Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXX Thường Niên, trình thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành ở ngay trong nhà của một vị thủ lãnh nhóm biệt phái vào ngày hưu lễ, nguyên văn như sau:
"Khi ấy, vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào dùng bữa trong nhà một thủ lãnh biệt phái, thì những người hiện diện ở đó dòm xét Người. Bấy giờ có một người mắc bệnh thuỷ thũng ở trước mặt Người. Chúa Giêsu lên tiếng hỏi các Luật sĩ và biệt phái rằng: 'Trong ngày Sabbat, có được phép chữa bệnh không?' Các ông ấy làm thinh. Bấy giờ Người kéo kẻ ấy lại, và chữa lành, rồi cho về. Ðoạn Người bảo các ông rằng: 'Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?' Nhưng các ông không thể trả lời câu hỏi ấy".
Bài Phúc Âm này cho thấy Chúa Giêsu tấn công địch ngay trong lòng địch, đó là ở ngay trong nhà của một thủ lĩnh biệt phái Người đã chữa lành vào ngay ngày hưu lễ, thành phần biệt phái vẫn hay theo dõi Người để bắt bẻ Người và mưu đồ hại Người, một cuộc tấn công Người cố ý làm, cho dù có đụng đến chủ trương duy luật của thành phần thông luật, giữ luật và dạy luật trong dân chúng ấy.
Thế nhưng, họ thông luật ở chỗ thuộc nhiều luật lệ hơn dân chúng, bao gồm cả việc giữ luật hơn dân chúng, thế nhưng họ lại dẫn giải luật một cách thiển cận và theo thiên kiến vị kỷ, bởi thế, họ không thấy được đâu là tinh thần thực sự của luật và mục đích chính yếu của những gì được gọi là luật, của những gì tự bản chất chỉ là phương tiện giúp con người đạt được cứu cánh của họ hơn là cùng đích của họ.
Chính vì thế, Chúa Giêsu muốn lợi dụng việc chữa lành cho "một người mắc bệnh thủy thũng" vào ngày hưu lễ ở trong chính nhà của một người lãnh đạo biệt phái để nhờ đó có thể soi sáng cho họ biết những gì họ chủ trương là lệch lạc, là sai lầm, cần phải chỉnh đốn lại:
"Chúa Giêsu lên tiếng hỏi các Luật sĩ và biệt phái rằng: 'Trong ngày Sabbat, có được phép chữa bệnh không?' Các ông ấy làm thinh... Ðoạn Người bảo các ông rằng: 'Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?' Nhưng các ông không thể trả lời câu hỏi ấy".
Sở dĩ thành phần biệt phái thông luật này tỏ thái độ "làm thinh" trước hai câu hỏi tối căn bản được Chúa Giêsu đặt ra gợi ý cho họ suy nghĩ và tự vấn không phải là vì họ chịu thua, hay đang cần giờ để tìm thêm được lý mạnh hầu phản công lại Người, hoặc vì nể mặt Người, mà chính là vì họ "không thể trả lời câu hỏi ấy".
Nếu "im lặng là đồng lõa" thì phải chăng những người biệt phái chứng kiến thấy việc Chúa Giêsu ngang nhiên chữa lành trong ngày hưu lễ ở ngay nhà của họ, nhất là "không thể trả lời câu hỏi" được Người đặt ra cho họ, đã hoàn toàn chấp nhận những gì Chúa Giêsu nói là chí lý, là chính xác, là chân thực, cần phải áp dụng thi hành?
Cũng có thể, nếu họ có thiện chí và tinh thần cởi mở. Bằng không, trái lại, với tinh thần cực đoan và bảo thủ, kèm theo tự ái về thế giá thông luật của mình, họ sẽ vẫn tiếp tục đường lối sai lầm của họ, với những biện minh và dẫn giải chủ quan phi chân lý. Nếu xẩy ra trường hợp đáng tiếc này thì cũng dễ hiểu. Vì bình thường con người ta vẫn hay cố chấp cho dù thực sự biết mình sai, để bảo vệ tiếng tăm mặt mũi của mình. Do đó, họ vẫn tiếp tục ngoan cố làm sai, bất chấp hậu quả gây ra cho bản thân họ cũng như cho những ai được họ dẫn dắt!
Thái độ công chính của thành phần hiện diện trong nhà vị thủ lãnh biệt phái mời Chúa Kitô đến dự bữa trong Bài Phúc Âm hôm nay không chấp nhận việc Chúa Giêsu chữa lành cho một người bị bệnh thủy thủng bấy giờ, đã được Chúa Giêsu cố ý dạy cho một bài học về mục đích của lề luật là phần rỗi của các linh hồn, bằng việc Người chữa lành cho nạn nhân mắc chứng thủy thủng, hậu quả của tội lỗi, như là một dấu báo ơn cứu độ chữa lành của Người, bao gồm cả hồn lẫn xác của con người, vì ngày hữu lễ là ngày thánh, ngày Thiên Chúa thánh hóa con người, nhờ đó con người có thể tin vào Ngài, nơi Chúa Kitô Con Ngài mà được cứu độ.
Thái độ công chính bất chính ấy của chung thành phần biệt phái và luật sĩ Do Thái, được tiêu biểu nơi một số có mặt trong nhà vị thủ lãnh biệt phái ở Bài Phúc Âm hôm nay, đã được vị tông đồ dân ngoại, từng là một Pharisiêu nhiệt thành, đã sử dụng kinh nghiệm của mình mà khuyên dạy Kitô hữu thuộc giáo đoàn Philiphê ở Bài Đọc 1 hôm nay như sau: "Ðiều tôi khẩn nguyện là lòng yêu mến của anh em mỗi ngày một thêm chan chứa hơn, trong sự thông biết và mọi sự suy hiểu, để anh em biết xác định những điều tốt lành hơn, hầu giữ mình trong sạch và không gì đáng trách trong ngày của Ðức Kitô, dư đầy hoa quả công chính, nhờ Ðức Giêsu Kitô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa".
Vâng, đúng thế, chỉ khi nào "biết xác định những điều tốt lành hơn", như Thánh Phaolô khuyên nhủ trong Bài Đọc 1 hôm nay, chứ không như thái độ công chính một cách bất chính như những người có mặt trong Bài Phúc Âm hôm nay, Kitô hữu mới có thể nhận biết Thiên Chúa mà tuyên xưng và ngợi khen chúc tụng Ngài như trong Bài Đáp Ca hôm nay rằng:
1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi!
2) Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Người muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ bi.
3) Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Ngài, cho tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước. Chúa tỏ cho dân Ngài thấy công cuộc quyền năng của Ngài, hầu ban cho họ được phần sản nghiệp của chư dân.
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) Pl 1, 18b-26
"Ðối với tôi, sống là Ðức Kitô, còn chết là một mối lợi".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.
Anh em thân mến, miễn là Ðức Kitô vẫn được rao giảng, đó là điều làm tôi vui mừng, và tôi sẽ còn vui mừng mãi. Vì chưng tôi biết rằng nhờ lời cầu nguyện của anh em, và nhờ ơn Thánh Thần của Ðức Giêsu Kitô giúp sức, điều đó sẽ đưa tôi đến ơn cứu độ, theo sự tôi chờ đợi và hy vọng, tôi sẽ không hổ thẹn chút nào, trái lại tôi vẫn hoàn toàn tin tưởng như mọi khi, và giờ đây, dù tôi sống hay tôi chết, Ðức Kitô sẽ được vẻ vang trong thân xác tôi.
Vì đối với tôi, sống là Ðức Kitô, còn chết là một mối lợi. Nhưng nếu sống trong xác thịt này đem lại cho tôi kết quả trong việc làm, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Tôi đang lúng túng trong hai điều này: là ước ao chết để được ở với Ðức Kitô thì tốt hơn bội phần, nhưng cứ ở lại trong xác thịt thì cần thiết cho anh em.
Một khi tin tưởng điều đó, tôi biết rằng tôi sẽ còn ở lại và sẽ lưu lại với tất cả anh em, để anh em được tấn tới và được hân hoan trong niềm tin, ngõ hầu anh em vì tôi mà được tràn đầy hiên ngang trong Ðức Kitô, bởi tôi trở lại với anh em một lần nữa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 41, 2. 3. 5bcd
Ðáp: Hồn tôi khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống (c. 3a).
Xướng: 1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, ôi Chúa trời con! - Ðáp.
2) Hồn tôi khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào tôi được tìm về ra mắt Chúa Trời? - Ðáp.
3) Tôi nhớ lúc xưa đi giữa muôn người, tôi đứng đầu đưa dân tiến vào nhà Ðức Chúa Trời, giữa muôn tiếng reo mừng, ca ngợi.- Ðáp.
Alleluia: Tv 147, 12a và 15a
Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai Lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 14, 1. 7-11
"Hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa, và họ dò xét Người. Người nhận thấy cách những kẻ được mời chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng:
"Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: "Xin ông nhường chỗ cho người này", bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: "Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên", bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc.
"Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần XXX Thường Niên, tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua. Đúng hơn, cả hai bài Phúc Âm hôm qua và hôm nay là một, vì khung cảnh diễn ra đều ở trong cùng một địa điểm là "nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa", nhưng về nội dung thì được Giáo Hội cắt ra làm hai, vì ở nơi đây Chúa đã dạy hai bài học cho thành phần biệt phái đang ăn uống với Người bấy giờ.
Bài học thứ nhất đã được Chúa Giêsu huấn dụ trong bài Phúc Âm hôm qua về tinh thần và mục đích của lề luật liên quan đến sự kiện Người chữa lành cho người bị bệnh thủy thủng vào ngày hưu lễ. Bài học thứ hai được Người huấn dụ họ sau khi "Người nhận thấy cách những kẻ được mời chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng:
"Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: 'Xin ông nhường chỗ cho người này', bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: 'Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên', bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc. Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Bài học thứ hai này trong Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu dạy đó là "hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết", một thái độ khôn ngoan nhất, một chọn lựa tốt lành nhất. Không phải để, về phần tiêu cực, tránh được bẽ mặt khi "ngồi vào chỗ nhất", chỗ mà có thể "có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: 'Xin ông nhường chỗ cho người này', bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết". Cũng không phải để, về phần tích cực, được vẻ vang hơn khi "Người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: 'Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên', bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc".
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trong các cuộc hội họp, hay ngay cả trong nhà thờ, giáo dân Việt Nam nói riêng thường thích ngồi ở dưới hơn là ngồi ở trên. Cho dù có mời lên chỗ trống còn nhiều ở trên cũng không chịu. Có thể là vì họ sợ ngủ gật. Có thể là vì họ muốn ngồi đấy để chuồn ra ngoài cho dễ, hay biến cho nhanh dù chưa xong lễ. Có thể là vì bạn bè cùng tham dự không chịu thay đổi chỗ ngồi nên ngồi với nhau cho vui. Có thể là vì họ không muốn bị ai dòm ngó đằng sau. Có thể là vì họ có con nhỏ quấy phá muốn tránh chia trí cho mọi người. Có thể là vì họ cảm thấy mình hèn hạ tội lỗi bất xứng chỉ đáng ngồi cuối cùng v.v.
Ai cũng có lý do chính đáng để cứ ngồi ở chỗ cuối. Thế nhưng, chúng ta hãy suy nghĩ thật kỹ câu "hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết" Chúa Giêsu huấn dụ những người biệt phái trong bài Phúc Âm hôm nay, cũng để huấn dụ cả chúng ta nữa, chúng ta mới thấy đó là một nguyên tắc sống đức tin và đồng thời cũng là một linh đạo rất thiết thực, cần thiết, hữu dụng và không thể không áp dụng để có thể sống bình an và nên trọn lành.
Thật vậy, vấn đề then chốt ở câu "hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết" này đó là thái độ đáp ứng tuân theo hơn là chủ động chọn lựa. Bởi thế, Chúa Giêsu không bảo rằng "hãy chọn chỗ cuối cùng mà ngồi", mà là "hãy đi mà ngồi vào chỗ cuối cùng". Tại sao thế? Tại vì nếu chúng ta mà "chọn" tức là chúng ta có quyền, chúng ta làm chủ, chúng ta làm theo ý muốn của chúng ta, làm theo ý nghĩ, ý thích, ý riêng của chúng ta, và sẽ chẳng bao giờ vừa với lòng tham vô đáy của chúng ta, không bao giờ hợp với tính hay thay đổi theo cảm giác cảm tình của chúng ta v.v.
Trong đời sống tu đức cũng thế. Bao lâu chúng ta còn làm chủ, còn tự tin, còn cậy mình v.v. thì bấy lâu chúng ta còn xa Chúa, chưa trọn lành, cho đến khi, qua những đau thương thử thách Chúa gửi đến cho chúng ta để thanh tẩy chúng ta, để kéo chúng ta ra khỏi thế gian, chúng ta bấy giờ mới chỉ còn biết bám lấy Chúa, chỉ còn biết tin tưởng vào Ngài và phó thác cho Ngài, nghĩa là bấy giờ nhờ được Chúa hoàn toàn chiếm đoạt và ngự trị, chúng ta mới có thể "nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48), mới có thể "thương xót như Cha là Đấng thương xót" (Luca 6:36), mới có thể "yêu nhau như Thày đã yêu thương các con" (Gioan 13:34,15:12).
Đó là lý do chúng ta thấy trong Biến Cố Truyền Tin, Mẹ Maria đầy ân phúc đã không "chọn" chỗ cuối cùng, mà là chấp nhận, là "đi ngồi vào chỗ cuối cùng" của Mẹ đó là thân phận của một nữ tỳ xin vâng (xem Luca 1:38), là chỗ Chúa chọn cho Mẹ - Phải chăng vì thế mà Mẹ đã không hề lên tiếng chối từ cho dù được chọn làm Mẹ Thiên Chúa!?!
Đó là lý do chúng ta còn thấy chỉ khi nào Tông Đồ Phêrô không còn tự mình đi đây đi đó nữa, mà trái lại, ngài còn bị dẫn đi đến nơi ngài không muốn, hoàn toàn trái ý của ngài, ở trong thế bị động hơn là chủ động như trước, ngài mới có thể thực sự "theo Thày", tức mới thực sự nên giống Đấng chịu đóng đinh là Thày của ngài (xem Gioan 21:18-19).
Đó cũng là lý do tại sao kẻ lớn nhất trên Nước Trời là kẻ "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" (Mathêu 18:3), như tâm hồn của người nam cao trọng nhất được người nữ sinh ra (xem Mathêu 11:11), đến chỉ để tỏ cho dân chúng biết Đấng đến sau mình (xem Gioan 1:31,27): "Người cần được gia tăng, còn tôi cần bị giảm xuống" (Gioan 3:30).
Trường hợp của dân Do Thái thì sao - họ có "đi mà ngồi vào chỗ cuối cùng" hay chăng, hay là, đúng như Chúa Giêsu nhận thấy họ trong bài Phúc Âm hôm nay rõ ràng là "những kẻ được mời chọn chỗ nhất"?
Quả thực đúng như thế. Ở chỗ, Thiên Chúa đã kén chọn dân Do Thái giữa các dân tộc trên thế giới này, nhưng thực tế cho thấy, qua giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ, họ đã không sống đúng với ơn gọi chuyên biệt này của họ, không "đi mà ngồi vào chỗ cuối cùng" được Thiên Chúa chọn cho ấy, trái lại, họ đã tự "chọn chỗ cuối cùng mà ngồi" cho họ, đó là một "chỗ" vời vợi xa cách Thiên Chúa của họ hơn bao giờ hết và hơn ai hết, "chỗ" ngoại tình với tà thần và sấp mình tôn thờ ngẫu tượng, trắng trợn loại bỏ Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ.
"Chỗ cuối cùng" được vị tông đồ dân ngoại, trong thư gửi Kitô hữu giáo đoàn Philiphê ở Bài Đọc 1 hôm nay, đó là ở chỗ phục vụ lợi ích thiêng liêng của những tâm hồn đã được Thiên Chúa ủy thác cho ngài. Đó là lý do ngài đã chọn phần thua thiệt cho mình, chọn hy sinh cho tha nhân, như chính ngài đã tỏ lộ:
"Vì đối với tôi, sống là Ðức Kitô, còn chết là một mối lợi. Nhưng nếu sống trong xác thịt này đem lại cho tôi kết quả trong việc làm, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Tôi đang lúng túng trong hai điều này: là ước ao chết để được ở với Ðức Kitô thì tốt hơn bội phần, nhưng cứ ở lại trong xác thịt thì cần thiết cho anh em. Một khi tin tưởng điều đó, tôi biết rằng tôi sẽ còn ở lại và sẽ lưu lại với tất cả anh em, để anh em được tấn tới và được hân hoan trong niềm tin, ngõ hầu anh em vì tôi mà được tràn đầy hiên ngang trong Ðức Kitô, bởi tôi trở lại với anh em một lần nữa".
Và cũng chỉ có những ai biết chọn "chỗ cuối cùng" là chỗ thiệt cho mình mà lợi cho tha nhân, như Thánh Phaolô đã chọn trong Bài Đọc 1 hôm nay, theo gương chính Con Thiên Chúa: "tuy thân phận là Thiên Chúa nhưng Người đã không tự cho mình cứ phải ngang hàng với Thiên Chúa mới được, Người đã tự hủy ra như không, mặc lấy thân phận tôi đòi, sinh ra như loài người... đã vâng lời cho đến chết, dù có phải chết trên thập tự giá" (Philiphe 2:6-8), "để nên nguồn mạch cứu độ cho những ai vâng phục vào Người" (Do Thái 5:9), mới có được những tâm tình khát khao thần linh như ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, ôi Chúa trời con!
2) Hồn tôi khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào tôi được tìm về ra mắt Chúa Trời?
3) Tôi nhớ lúc xưa đi giữa muôn người, tôi đứng đầu đưa dân tiến vào nhà Ðức Chúa Trời, giữa muôn tiếng reo mừng, ca ngợi.