Trọn Lành như Cha Thương Xót
(Mathêu 5:48 + Luca 6:36)
Bài chia sẻ cho Nhóm Tông Đồ Chúa Tình
Thương
Ngày Tĩnh Tâm Thứ Bảy 11/4/2015 để dọn
mừng Lễ Lòng Thương Xót Chúa 12/4/2015
Đấng Tối Cao - Một
Ác Thần!
Vì chưa nhận được mạc khải thần linh từ trời, từ chính Thiên Chúa, như trong
Lịch Sử Cứu Độ của Dân Do Thái, về một vị Thiên Chúa chân thật duy nhất,
ngoài Ngài ra không có một hay không còn một chúa tể nào khác, mà con người
ngay từ ban đầu, biến mình từ tạo vật thành hóa công, theo ý nghĩ và ý muốn
của mình, "tạo dựng" nên Thiên Chúa.
Và vì ý nghĩ và ý muốn khác nhau, theo bản tính đã vướng mắc nguyên tội đầy
lầm lạc, loài người đã đi đến chỗ tôn thờ đa thần, trong đó có thần mặt trời
(Thái Dương Thần như ở Nhật giáo của người Nhật) hay thần xúc vật (Thần
Bò ở Ấn giáo của người Ấn Độ), thậm chí họ còn tin thờ những thứ thần linh
hoàn toàn đối nghịch nhau, như thần lành và thần dữ (ác thần), thần ánh sáng
và thần bóng tối v.v.
Nói chung, vì được dựng nên theo hình ảnh thần linh, với một ước muốn sống
trường sinh bất tử, cho dù mang thận phận hữu hình và hữu hạn, tận đáy lòng
của mình, con người vốn tin có một Đấng Tối Cao nào đó, một vị Thần Linh đầy
quyền năng, nhất là trong việc cứu con người khỏi những bất hạnh và nguy
khốn trong đời.
Ngoài yếu tố chính yếu về Đấng Tối Cao là quyền năng vô địch của Ngài, con
người còn cho rằng Ngài là vị thần linh công minh theo chủ trương tự nhiên
"ác quả ác báo" hay "gieo gió gặt bão" của con người, thậm chí cho rằng Ngài
là vị thần linh khôn ngoan hơn con người nữa: "mưu sự tại nhân thành sự tại
thiên", như Khổng giáo chủ trương.
Chủ trương Đấng Tối Cao cũng là và chính là Đấng Thưởng Phạt Công Minh đã
hoàn toàn biến Đấng Tối Cao của loài người trở thành hung thần và ác thần,
và vì thế trở thành tà thần và ngụy thần (loại thần giả tạo xấu xa). Ở
chỗ, động một tí là Đấng Tối Cao nổi cơn thịnh nộ lên và sử dụng quyền năng
của mình để giáng phạt con người cho xứng với tội lỗi của họ.
Trong khi đó, là loài "nhân vô thập toàn", không thể nào không phạm tội, làm
lành thì ít hành ác thì nhiều, thì không một ai có thể tồn tại với Đấng Tối
Cao Thưởng Phạt vô cùng Công Minh này! Vậy thì lòng mong đợi được cứu độ
nơi con người mang thân phần hữu hạn luôn hướng về vô hạn, nhưng tự nhiên vô
cùng mù quáng và yếu hèn về tâm linh không thể nào vươn lên và tự cứu
mình đã biến thành hoang tưởng, vì Đấng Tối Cao của họ chỉ là một hung thần,
một ác thần hơn là một Cứu Chúa.
Đó là lý do, vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của Dân Do Thái là dân tộc độc
thần duy nhất thời xưa, tuy quả thực là vị Thiên Chúa toàn năng, đã cứu dân
tộc của họ ra khỏi thân phận nô lệ ở Ai Cập hùng mạnh, và quả thực là vị
Thiên Chúa vô cùng Công Minh thưởng phát đâu vào đó, đến độ hình ảnh về Ngài
trong Thánh Kinh Cựu Ước bề ngoài có vẻ là một vị hung thần độc đoán nghiêm
trị hơn là một vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu như "khi đến thời viên trọn"
(Galata 4:4) nơi Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô.
“Thiên
Chúa là Tình Yêu”
Thế nhưng, nếu theo dõi kỹ Lịch Sử Cứu Độ của Dân Do Thái, nhất là cuộc hành
trình 40 năm băng qua sa mạc của họ, đến độ hai lần Thiên Chúa đã muốn tiêu
diệt họ, một lần khi họ thờ bò vàng (xem Xuất Hành 32:7-14) và một lần sau
khi do thám Đất Hứa (xem Dân Số 14:11-20), nhưng Ngài đã tha cho họ nhờ lời
chuyển cầu của Moisen; rồi trong thời Quan Án và thời Các Vua, họ vẫn tiếp
tục bất trung với giao ước của Ngài, đến độ Ngài không thể nào không đầy ải
họ sang bên Babylon (2 Chư Vương 25:1-12), nhưng vì chính Danh Thánh của
mình, Ngài đã tự động mang họ về lại Đất Hứa mà Ngài đã ban cho họ (xem
Ezekien 36:16-25).
Rồi nơi Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, "Ngài đã yêu những ai thuộc về mình
(bao gồm cả Do Thái lẫn Dân Ngoại) thì Người muốn chứng tỏ là Ngài yêu họ
cho tới cùng" (Gioan 13:1), ở chỗ, Con của Ngài đã "hiến mạng sống mình cho
chiên được sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10:10), và hiến cho từng
con chiên một, cho tới con chiên lạc cuối cùng (xem Luca 15:1-5), và ở chỗ
"Thiên Chúa đã không dung tha cho Con của Ngài, nhưng phó nộp Người vì tất
cả chúng ta" (Roma 8:32), cho dù loài người không xứng đáng để Ngài thí
Người Con duy nhất vô cùng cao trọng của Ngài, trái lại, trong khi "chúng ta
còn là những tội nhân thì Chúa Kitô đã chết cho chúng ta" (Rôma 5:8).
Đó là lý do "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu" (Gioan 19:25,20:2,21:7) đã
cảm nhận "Thiên Chúa là tình yêu" (1Gioan 4:8,16) vô cùng chính xác về vị
Thiên Chúa của Kitô giáo. Thật ra, cảm nhận thần linh này của "người
môn đệ được Chúa Giêsu yêu" chỉ là phản ảnh mạc khải thần linh của chính
Thiên Chúa, Đấng đã xưng mình "Ta là Ta" (Xuất Hành 3:16), cũng như của Chúa
Kitô; "Thiên Chúa là Thần Linh" (Gioan 4:24).
Đúng thế, danh xưng của Thiên Chúa trong Cựu Ước được Ngài tỏ cho Moisen từ
trong bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi "Ta là Ta - I am who am", có
nghĩa là Ta là Sự Thật, Ta là Sự Hữu, Ta là Sự Có, mà Tình Yêu bao giờ cũng
nhưng không (tự Có), khởi động (Có trước) và thủy chung (Có từ đầu đến
cuối), đúng như "Thiên Chúa đã tỏ mình ra thực sự "là Tình Yêu" trong Lịch
Sử Cứu Độ, ở chỗ Ngài đã nhưng không dựng nên con người, đã tự động hay
khởi động thiết lập giao ước với tổ phụ họ, và đã trung thành với họ bất
chấp tình trạng liên lỉ bất trung của họ.
Danh xưng "Thiên Chúa là Thần Linh" trong Tân Ước được Chúa Giêsu mạc khải
trong Phúc Âm của "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu" cũng thế. "Thần
Linh" đây không phải chỉ có tính chất vô hình như bản tính của các thiên
thần, mà còn có tính chất thẩm thấu trong liên hệ mật thiết yêu thương. Ở
chỗ, trong khi thiên thần không thể ở trong linh hồn con người ta thì "Thiên
Chúa là Thần Linh" có thể thấu suốt con người và ở trong từng người, và
biến đổi con người, khiến con người có thể hiệp nhất nên một với Ngài.
"Thiên Chúa là Tình Yêu" có thể nói là tất cả mạc khải thần linh của vị
Thiên Chúa chân thật duy nhất của cả Do Thái giáo và Kitô giáo, là bản tính
toàn hảo của Ngài, một bản tính được Ngài tỏ ra cho con người, trong Lịch Sử
Cứu Độ, mà tột đỉnh là cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Thiên Sai Con
của Ngài, Đấng đã đến "để tỏ Cha ra" (Gioan 1;18), bằng cả lời nói và việc
làm của Người.
Điển hình nhất là ở Bài Giảng Trên Núi, khi Người khuyên dạy các tông đồ
phải sống đức bác ái trọn lành đối với tha nhân, vì chỉ có "đức ái trọn hảo
- perfectae caritatis" mới làm cho các vị nhờ đó đạt tới lý tưởng thánh
thiện siêu việt nhất đó là nên giống chính "Cha trên trời".
Trong Phúc Âm của Thánh ký Mathêu, lời Chúa Giêsu kêu gọi các vị sống
"đức ái trọn hảo" đó là "các con hãy nên trọn lành như Cha của các con trên
trời là Đấng trọn lành" (5:48), nhưng ở trong Phúc Âm Thánh ký Luca, Chúa
Giêsu lại kêu gọi các tông đồ rằng: "Các con hãy cảm thương như Cha của các
con thương xót" (6:36). Như thế, "trọn lành" như Cha đây chính là "thương
xót" như Cha. "Trọn lành" mà không "thương xót" thì không phải là "trọn
lành", không giống Cha, trái lại, càng "thương xót" càng "trọn lành như Cha
của các con trên trời".
Thật vậy, "Cha trên trời" trọn lành ở chỗ, như chính lời Con của Ngài dẫn
chứng trong Phúc Âm Thánh Mathêu, "Người
cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho
mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính" (5:45).
Bằng tình yêu vô cùng nhân hậu xót thương của mình, "Cha trên trời là Đấng
trọn lành" còn được tỏ ra ở chỗ: "Thiên Chúa đã chứng tỏ tình yêu của
Ngài đối với chúng ta là khi chúng ta còn là những tội nhân thì Chúa Kitô đã
chết cho chúng ta" (Roma 5:8); thậm chí còn ở chỗ Ngài "đã không dung tha
cho Con riêng của mình, một đã phó nộp Người vì tất cả chúng ta" (Roma
8:32).
“Cha trên
trời là Đấng thương
xót”
Thế nhưng, phần chúng ta, cần phải "thương xót" như thế nào mới có thể "nên
trọn lành như Cha của các con trên trời"? Sau đây là bản phân tích tổng hợp
cả hai bài Phúc Âm, bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu, Phúc Âm cho thành
phần dân Chúa và liên quan đến tinh thần của lề luật là chính sự "trọn
lành", và bài Phúc Âm của Thánh ký Luca, Phúc Âm cho thành phần dân ngoại,
liên quan đến tình yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa là "tình thương".
|
Phúc Âm Thánh Mathêu (5:38-48) |
Phúc Âm Thánh Luca (6:27-36) |
Sống Tự Nhiên |
46 Nếu
anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi ?
Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao ?
47 Nếu anh
em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu
? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao ? |
32 Nếu
anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa ?
Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ.
33 Nếu
anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa ?
Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế.
34 Nếu
anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa ?
Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng
phẳng.
|
Sống Trọn Lành |
43 "Anh
em đã nghe Luật dạy rằng : Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. 44 Còn
Thầy, Thầy bảo anh em : Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ
ngược đãi anh em.
|
27 Hãy
yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, 28 hãy
chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh
em. |
Sống Xót Thương |
38 "Anh
em đã nghe Luật dạy rằng : Mắt đền mắt, răng đền răng 39 Còn
Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai
vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. 40 Nếu
ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả
áo ngoài. 41 Nếu
có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. 42 Ai
xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi.
|
29 Ai
vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài
của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. 30 Ai
xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại.
35 Hãy
làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả.
|
Sống
Tự Nhiên
Để các tông đồ có thể biết thế nào là sống trọn lành, Chúa Giêsu đã nói đến
những thái độ hay phản ứng ở lãnh vực hay tầm mức tự nhiên, theo bản tính tự
nhiên, theo con người tự nhiên, không cần phải có ơn Chúa cũng làm được và
bao giờ cũng là khuynh hướng chung của con người sống trên trần gian này.
Chúa Giêsu đã nêu lên 4 thái độ tự nhiên mà đã là người ai cũng làm như vậy,
bao gồm cả những ai không có đức tin, thành phần "dân ngoại" (theo Phúc Âm
Thánh Mathêu), không phải dân Chúa, không phải Kitô hữu, thậm chí cả thành
phần "thu thuế" được coi là thành phần tội lỗi (theo Phúc Âm Thánh Mathêu)
hay "tội nhân" (theo Phúc Âm Thánh Luca).
Bốn thái độ tự nhiên vô tội nhưng không "trọn lành" này là
1- "yêu thương kẻ yêu thương mình" (Mathêu 5:46; Luca 6:32);
2- "chào hỏi anh em mình" (Mathêu 5:47);
3- "làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình" (Luca 6:33);
4- "cho vay mà hy vọng đòi lại được" (Luca 6:34).
Sống Trọn Lành
Sống trọn lành trước hết là không sống theo tự nhiên mà là sống một cách
siêu nhiên, sống một cách trên tầm mức tự nhiên bình thường của một
con người tầm thường.
Sống trọn lành ở đây, căn cứ vào giáo huấn Chúa dạy trong cả 2 bài
Phúc Âm, đều liên hệ mật thiết và trực tiếp đến đối tượng tha nhân, đó là
(căn cứ vào Phúc Âm của Thánh ký Luca đầy đủ hơn về 4 đối tượng khác nhau,
thay vì chỉ có 2 như trong Phúc Âm Thánh ký Mathêu và 2 đối tượng này cũng
bao gồm trong Phúc Âm Thánh Luca):
1- "kẻ thù"
2- "kẻ ghét"
3- "kẻ nguyền rủa"
4- "kẻ vu khống"
Vậy, thành phần chủ thể là môn đệ chân chính và trọn lành của Chúa
Kitô phải đối xử ra sao với 4 đối tượng này, nếu không phải, như lời Chúa
dạy trong Phúc Âm Thánh Luca, cần phải đối xử hoàn toàn ngược lại với những
gì đối tượng tha nhân gây ra cho bản thân của thành phần môn đệ Kiô hữu:
1- "yêu >< thù"
2- "làm ơn >< ghét"
3- "chúc lành >< nguyền rủa"
4- "cầu nguyện >< vu khống"
Căn cứ vào thứ tự của 4 thái độ sống trọn lành được liệt kê trên đây theo
lời Chúa, chúng ta có thể thấy ý nghĩa về thành phần "kẻ thù" như thế nào?
Có thể nói "kẻ thù" của chúng ta có 1 trong 3 thái độ hay 2 hoặc cả 3
thái độ phạm đến chúng ta, những thái độ từ trong ra ngoài con người của
họ thứ tự là: "ghét" (ở trong lòng) + "nguyền rủa" (ở ngoài miệng lưỡi ngôn
từ) + "vu khống" (nơi việc làm - bản dịch The New American Bible sử dụng chữ
"maltreat/mistreat - đối xử tồi tệ / bạc đãi").
Riêng việc "yêu kẻ thù mình" theo lời Chúa dạy đây không phải chỉ ở tầm mức
"từ bi hỉ xả" như giáo lý của Nhà Phật, hay ở tầm mức sống cao thượng như
một chính nhân quân tử theo chủ trương của Khổng giáo, mà là ở chỗ "làm ơn"
cho họ nữa, thậm chí dám chết cho cả kẻ thù của mình nữa, vì "yêu" lên tới
tột đỉnh là ở chỗ hiến mạng sống mình vì người mình "yêu" (xem Gioan 15:13),
như gương của chính Thiên Chúa đã yêu thương kẻ thù của Ngài là thành phần
tạo vật nhân loại xúc phạm đến Ngài, bằng việc hiến tế để cứu chuoọc họ nơi
Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô.
Sống Xót Thương
Nếu sống trọn lành liên hệ trực tiếp đến đối tượng tha nhân thì sống xót
thương trực tiếp liên hệ đến chủ thể Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô mà thôi. Có
thể nói, sống xót thương là phần thực hành cụ thể cho thấy thành phần Kitô
hữu môn đệ của Chúa Kitô có thực sự sống trọn lành như Cha trên trời hay
chăng.
Căn cứ vào cả hai bài Phúc Âm, chúng ta thấy những thái độ hay thực hành cụ
thể liên quan đến lòng thương xót trọn lành bao gồm 1 nguyên tắc và
5 thái độ được lời Chúa liệt kê thứ tự như sau (ở đây trích hầu hết
từ Phúc Âm theo Thánh ký Mathêu dù Phúc Âm Thánh ký Luca cũng tương tự nhưng
không đầy đủ bằng):
Nguyên tắc về đối tượng: "đừng
chống cự người ác". Ở đây,
Chúa Giêsu chỉ bảo thành phần môn đệ sống trọn lành xót thương là đừng
phạm đến bản thân của "người ác", vì dầu sao họ cũng đáng thương,
bởi "họ lầm không biết việc họ làm" (Luca 23:34). Tuy nhiên, Chúa Giêsu
không bảo chúng ta hay ngăn cản chúng ta đừng chống lại việc gian ác họ làm,
việc xấu xa tệ hại họ gây ra.
Nguyên tắc về đối xử: "Ai
xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi" (Mathêu
5:42), thậm chí "Hãy
làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả" (Luca 6:35).
Ở phần thực hành lòng thương xót đối với những ai phạm đến bản thân Kitô hữu
môn đệ Chúa Kitô, theo nguyên tắc về đối xứ trên đây, thì thành phần bị xúc
phạm từ trong ra ngoài (như thứ tự liệt kê) cần phải chẳng những sẵn sàng
chấp nhận - "ai muốn vay mượn, thì đừng
ngoảnh mặt đi" mà còn quảng đại tha thứ nữa
- "cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả". Chữ "vay" hay "vay
mượn" ở đây ám chỉ việc phạm đến nhau, việc nợ nần nhau theo ý nghĩa "nợ"
trong Kinh Lạy Cha.
1- "bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa" (về
danh giá, trực tiếp đụng đến bản thân của mình)
2- "ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo
ngoài" (về
của cải tùy thân)
3- "Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm" (về
công sức việc làm)
Cả 3 thái độ trọn lành trên đây chứng tỏ nạn nhân bị xúc phạm thực sự là "ai
muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi" mà còn thậm chí "cho vay mà
chẳng hề hy vọng được đền trả".
Chúa Kitô Thương Xót – Con tin nơi Chúa!
Chúa Kitô chính là hiện thân sống động của "Cha trên trời là Đấng trọn lành"
và Người cũng "xót thương như Cha thương xót".
Trước hết, đối với các tông đồ được Người tuyển chọn ở với Người để có thể
làm chứng về Người, Người cũng huấn luyện cho các vị có lòng xót thương như
Người. Chẳng hạn, khi hai tông đồ Giacôbê và Gioan xin Người khiến lửa trời
xuống thiêu đốt một ngôi làng Samaria vì không chịu tiếp rước Người thì
Người đã quở trách các vị (xem Luca 9:51-55); hay khi các tông đồ ngăn cản
không cho các trẻ nhỏ đến cùng Người, Người cũng lên tiếng bênh vực các
em (xem Mathêu 19:13-15).
Sau nữa, đối với chính các tông đồ "là những kẻ thuộc về Người trên thế gian
này, thì Người muốn chứng tỏ Người yêu thương họ đến cùng" (Gioan 13:1), ở
chỗ, theo nội dung sâu xa của bài Phúc Âm được Thánh ký Gioan thuật lại kèm
theo ghi chú, Người đã rửa chân cho các tông đồ là đầy tớ của Người,
trong đó có cả người môn đệ phản nộp Người là Giuđa Íchca - "chân" là phần
thân thể thấp hèn nhất trong thân thể đây chẳng những ám chỉ tông đồ
Giuđa Íchca bao giờ cũng được liệt kê cuối cùng trong danh sách 12 tông đồ,
mà còn ám chỉ lạc loài của người môn đệ như con chiên lạc này cần được Người
"yêu cho đến cùng" - tìm cách mang về đàn là tông đồ đoàn.
Sau hết, đối với chính bản thân mình, Người càng tỏ ra "thương xót như Cha
xót thương", ở chỗ, cho dù chung dân Do Thái và riêng Hội Đồng Đầu Mục Do
Thái đã cố tình tìm cách giết Người cho bằng được, bằng bàn tay của dân
ngoại Rôma, Người vẫn cảm thương họ và càng thương họ hơn bao giờ hết,
và tìm cách cứu vớt họ bằng chính cái chết của Người bởi tay họ: "Xin Cha
tha cho họ vì họ lầm không biết việc họ làm" (Luca 23:34).
Thiên Chúa của Kitô giáo là vị Thiên Chúa toàn hảo, không phải chỉ ở chỗ
toàn năng và vô cùng khôn ngoan cùng thưởng phạt công minh, mà còn chính
là ở chỗ Ngài là Cha yêu thương vô cùng nhân hậu, một vị Thiên Chúa chỉ
sống động bởi tình yêu và cho tình yêu, một tình yêu toàn năng và khôn ngoan
lo cho lợi ích đời đời của tạo vật, thậm chí trong cả phán quyết luận
phạt của Ngài, một tình yêu biến đổi tạo vật, làm cho họ đưoọc hiệp nhất nên
một với Ngài, đến độ họ có thể yêu thương như chính Ngài, "xót thương như
Cha trên trời xót thương", "trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành".
Sở dĩ Kitô hữu phải nên trọn lành và xót thương như Cha trên trời trọn lành
và xót thương là vì họ là con cái của Ngài, thành phần dưởng tử của Ngài
trong Con Một của Ngài, và vì là con cái Thiên Chúa là Cha của mình thì họ
phải tác hành một cách trọn lành xót thương như Cha của mình mới xứng đáng
là con cái của Ngài, chứ không thể tác hành tự nhiên như dân ngoại hay thành
phần tội nhân đối với tha nhân, nhất là đối với kẻ thù của mình.
Vẫn biết những việc Chúa làm và những gì Chúa dậy vô cùng cao siêu, con
người tự nhiên vô cùng yếu hèn không thể nào với tới và đạt được, thế nhưng,
chính Vị Thiên Chúa là tình yêu vô cùng nhân hậu đã hóa thân làm người như
chúng ta và đã sống những gì Người dạy, thì có nghĩa là Kitô hữu, thành
phần đã được hiệp nhất nên một với Người với tư cách
là con cái của Cha trên trời, cũng có thể làm được như Người, nếu họ dám để
Người tự do yêu thương họ và nhờ đó biến đổi con
người tự nhiên của họ, đến độ họ có thể "yêu nhau như Thày yêu thương các
con" (Gioan 13:34, 15:12).
Thế nhưng, để có thể nên trọn lành và xót thương như Cha trên trời, cần
phải có một ánh mắt thấu suốt mới có thể cảm
thương như Ngài, và khi đã có được ánh mắt của Ngài và con tim của Ngài thì
loài người hữu hạn vốn thiển cẩn và hẹp hòi sẽ có thể nhìn mọi sự hoàn toàn
khác và có thể làm được những gì bản tính tự nhiên vốn bất khả và sợ hãi.
Muốn có được ánh mắt cảm thương và cõi lòng bao la như Cha trên trời, Kitô
hữu chúng ta nói chung và TĐCTT nói riêng cần
phải được Ngài chiếm đoạt và biến đổi, đến độ
chúng ta có thể nói như Thánh Phaolô: "Sự sống tôi hiện đang sống nhưng
không phải là tôi sống mà là Chúa Kitô sống trong tôi" (Galata 2:20).
Tuy nhiên, để được tình yêu Thiên Chúa chiếm đoạt và biến đổi như thế, TĐCTT
chúng
ta có dám để
cho Ngài tự do yêu thương chúng ta hay chăng, hay chúng ta một đàng rất sợ
bị Chúa bỏ rơi nhưng đàng khác, trái lại, chúng ta lại tỏ ra rất ư là mâu
thuẫn ở chỗ khi Chúa tỏ tình yêu thương chúng ta, muốn chiếm đoạt và
biến đổi chúng ta bằng Thánh Giá đau khổ thử thách như Ngài "đã không dung
tha cho Con Một của Ngài" (Roma 8:32) thì chúng ta lại chạy trốn hay chống
lại tác động thần linh của Ngài!?!
Bởi vậy, kết cục ở đây là muốn
nên trọn lành và xót thương như Cha trên trời, TĐCTT chúng ta cần phải
"Giêsu ơi, con tin nơi Chúa!" ở mọi nơi, trong mọi
lúc và hết mọi sự!
Hội thảo
chia sẻ
Hội Thảo về Ánh Mắt của Lòng Thương Xót Chúa
1. "Thiên
Chúa không sai Con đến trần gian để luận phạt trần gian mà là để thế gian nhờ
Người mà được cứu độ" (Gioan 3:17);
2. "Thiên
Chúa chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với chúng ta ở chỗ trong khi chúng ta còn là
những tội nhân thì Chúa Kitô đã chết cho chúng ta" (Roma 5:8);
3. "Thiên
Chúa đã không dung tha cho Con Ngài, một phó nộp Người vì tất cả chúng ta" (Roma
8:32);
4. "Thiên
Chúa vì chúng ta đã làm cho Người là Đấng không hề biết đến tội lỗi trở thành
tội lỗi để trong Người chúng ta trở nên chính sự thánh thiện của Thiên Chúa"
(2Corinto 5:21)
5. "Tôi đến
không phải để được hầu hạ mà là hầu hạ và hiến mạng sống mình cho nhiều người"
(Mathêu 20:28);
6. "Tôi đến để
tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 19:10);
7. "Tôi đến
không phải để kêu gọi kẻ cho mình là công chính mà là tội nhân" (Mathêu 9:13)
8. “Tuy
thân phận là Thiên Chúa nhưng Người đã không tự coi mình cứ phải ngang hàng với
Thiên Chúa mới được, trái lại, Người đã tự hạ ra như không, mặc lấy thân phận
tôi đòi, sinh ra như loài người… đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập tự
giá…” (Philiphe 2:6-8).
9. “Người
đã không còn hình tượng gì nữa” (Isaia 52:14)
10. “Người
đã bị khai trừ khỏi nhân sinh” (Isaia 53:8)
11. “Tôi
là một con sâu bọ đất chứ không phải là người nữa” (Thánh Vịnh 22:7)
12. "Hãy
mang lấy ách của Tôi và hãy học cùng Tôi vì Tôi hiền lành và khiêm nhượng trong
lòng" (Mathêu 11:29)
13. "Người đã
mang lấy các bệnh nạn của chúng ta, đã gánh chịu các khổ đau của chúng ta"
(Isaia 53:4; Mathêu 8:17)
14. "Người
không bẻ gẫy cây sậy rũ rượi và không dập tắt ngọn bấc còn xông khói" (Isaia
42:3; Mathêu 12:20)
15. "Xin
Cha tha cho họ vì họ lầm không biết việc mình làm" (Luca 23:34)
16. "Ai
trong quí vị không có tội thì hãy ném đá chị ta trước đi... Này chị, họ đi đâu
hết cả rồi. Không ai kết tội chị sao... Tôi cũng không kết tội chị. Chị hãy
về đi. Nhưng từ nay hãy tránh đừng phạm tội ấy nữa" (Gioan 8:7,10-11)
17. "Con
luôn ở với cha, hết mọi sự của cha là của con. Thế nhưng chúng ta cần phải mừng
rỡ hân hoan! Người em này của con đã chết và đã hồi sinh. Nó đã bị thất lạc mà
nay lại tìm thấy" (Luca 15:31-32)
18. "Trước
lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết rằng đã đến giờ Người phải qua thế gian mà về cùng
Cha. Người đã yêu thành phần thuộc về Người trên thế gian này và Người muốn
chứng tỏ rằng Người yêu thương họ cho đến cùng. Ma quỉ đã xui giục Giuđa, con
của Simon Íchca, trao nộp Người, vì thế, trong bữa ăn tối, Chúa Giêsu - hoàn
toàn nhận thức được rằng Người từ Cha mà đến và sẽ trở về cùng Cha, Vị Cha đã
ban hết mọi sự cho Người - đã chỗi dậy khỏi bữa ăn và cởi áo ra. Người đã cầm
lấy một tấm vải và thắt chung quang mình. Đoạn Người đổ nước vào chậu và bắt đầu
rửa chân cho các môn đệ của mình rồi lau chân của họ bằng tấm vải quấn quanh
mình" (Gioan 13:1-5)
19. "Tôi
muốn lòng nhân lành chứ không phải hy tế" (Hosea 6:6; Mathêu 9:13)
20. “Tình
thương thắng vượt phán quyết” (Giacôbê 2:13)
Tông Đồ Chúa Tình Thương - Tự Kiểm sống Linh Đạo Tình Thương (tháng
thứ 5)
5- Khi anh chị em tôi cố tình xúc phạm đến tôi, hiểu lầm oan ức, xuyên tạc vu
khống, nói hành nói xấu, vô ơn bội nghĩa, lừa đảo gian lận, xỉ vả lăng nhục
tôi v.v. tôi có tự động làm hòa với họ hay chăng, không cần họ xin lỗi tôi?