SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Phụng Vụ Lời Chúa Tuần
IX Thường Niên Năm Lẻ
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Thứ Hai
"Bắt
lấy giết đi"
Chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh tiếp tục
nơi phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay, Thứ Hai Tuần IX Thường Niên Năm Lẻ.
Trước hết là dụ
ngôn về vườn nho của Thiên Chúa được
Ngài trồng
là chính dân Do Thái (xem Isaia 5:7), một dân tộc được Ngài tuyển chọn riêng
và chăm sóc đặc biệt, với Lề Luật của Ngài để bảo vệ họ khỏi nếp sống đa
thần hay ngẫu tượng như dân ngoại, như thể Ngài "rào
dậu chung quanh" họ, cùng với
các ngày lễ và nghi lễ phụng thờ được
Ngài thiết lập cho họ, như
thể Ngài "đào
bồn đạp nho" nơi
họ,
còn việc
Ngài "xây một cái tháp" ở
vườn nho của Ngài là dân Do Thái có thể hiểu là Đền Thờ Giêrusalem, nơi
Ngài ẩn ngự, hay cũng có thể là Ngài đã thiết lập giao ước
với các vị tổ phụ của họ, và lời hứa của Ngài trở thành như niềm hy vọng
hướng về tương lai của họ.
Thế
nhưng, thành phần "tá điền" lãnh đạo
dân của Ngài đã chẳng những không mang lại "hoa
lợi vườn nho", lại còn tỏ ra hung dữ bạo
nghịch đối với thành phần tiên tri "đầy tớ"
của Ngài, được Ngài sai đến với họ, khi
họ "đánh đập
và đuổi về tay không" đối với người "đầy
tớ" đầu tiên, khi họ "đánh vào đầu và làm
sỉ nhục" đối với "đầy tớ" thứ hai, và khi
họ "sát hại"
người "đầy tớ" thứ ba. Thậm chí họ còn dám "sát hại" "người
con trai yêu quí" của Ngài là Đức Giêsu
Kitô khi Ngài sai Người đến với họ nữa, với mục đích để
cướp đoạt "gia nghiệp"
của Người, ở
chỗ họ lên án tử cho Con của Ngài nhân
danh "Thiên Chúa hằng
sống" (xem
Mathêu 26:63), nhân
danh chính Ngài để "bắt
cậu giết đi và quăng xác ra ngoài vườn nho".
Tất
nhiên, cho dù "họ lầm không biết việc họ
làm" (Luca 23:34; xem Tông Vụ 3:17), nhưng
tự bản chất việc của họ vẫn là những tội ác cần phải đền trả, ở chỗ, như dụ
ngôn của bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, Thiên Chúa là chủ vườn nho "sẽ
đến tiêu diệt bọn tá điền và giao vườn nho cho người khác", như
lịch sử cho thấy, vườn nho của Thiên Chúa đã
trở thành một Dân Tân Ước là
chính Giáo Hội Chúa Kitô, một Giáo Hội được chính Người thiết lập (xem
Mathêu 16:16), một Giáo Hội được xây dựng trên chính bản thân
của Người đã từng là "Tảng
đá bị những
người thợ xây loại bỏ đã trở
thành đá góc tường", như
Người ám chỉ trong bài Phúc Âm hôm nay.
Như
thế có nghĩa là Thiên Chúa vẫn có thể biến tất cả những sự dữ gây ra bởi con
người để mang lại thiện hảo cho họ theo đúng như ý định vô cùng nhân hậu và
quan phòng thần linh vô cùng khôn ngoan đầy quyền năng của
Ngài, đúng như lời rao giảng
ban đầu của Tông Đồ Phêrô ngỏ cùng cộng đồng Do Thái sau khi chữa lành ở
"cửa Đẹp" của đền thờ cho một người què từ lúc mới sinh: "Anh
em thân mến, tôi
biết rằng anh em đã tác hành
một cách vô thức như thành phần lãnh đạo của anh em đã làm. Thiên Chúa đã
làm cho nên trọn bằng cách thế đó những gì Ngài đã loan báo từ lâu qua các
vị tiên tri đó là Vị Thiên Sai của Ngài cần phải
chịu đau khổ"
(Tông Vụ 3:17-18).
Từ
một tảng đá bị thợ xây loại
bỏ là một Đức Kitô khổ nạn
và tử giá, Thiên Chúa đã biến thành tảng đá góc tường là một Chúa Kitô phục
sinh, Đấng "được toàn quyền trên trời
dưới đất" (Mathêu 28:18), để Người có thể
thông ban sự sống thần linh của Người cho nhân loại, qua Giáo Hội Nhiệm Thể
của Người, thành phần "tá điền" mới được sai đến để làm vườn nho của Người
và cho Người:
"Bởi thế, các
con hãy đi tuyển mộ môn đồ ở khắp mọi dân nước và rửa tội cho họ nhân danh
Cha và Con và Thánh Thần ..."
(Mathêu 28:19).
"Sự sống" được thông ban cho nhân
loại xuất phát từ Chúa Kitô Vượt Qua đây thật ra cũng được thông phần bởi
những ai sống theo lương tâm chân chính trong dân gian nói chung, nhất là trong
Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái nói
riêng, bằng niềm tin kính vị Thiên Chúa chân thật duy nhất như Ngài đã liên
lỉ tỏ mình
ra cho dân tộc của họ, điển
hình là trường
hợp của nhân vật Tobia trong bài đọc 1 năm lẻ hôm nay, trích từ Sách Tobia
(1:1a-2; 2:1-9).
Đúng thế, nếu không phải là người
lành sống bởi đức tin thì nhân vật Tobia này đã trở thành như mọi người bình
thường khác, như chính những lời họ nói với ông trong bài đọc
1 thuật lại ở đoạn cuối nhưng ông
vẫn bất chấp mà làm theo đức tin của ông, như
sau: "Khi
mặt trời lặn, ông đi chôn xác. Tất cả các người bà con chỉ trích ông rằng:
'Ông đã bị lên án tử hình cũng vì công việc đó, và may là ông thoát khỏi án
tử, nay ông lại đi chôn kẻ chết nữa sao?' Nhưng Tôbia kính sợ Thiên Chúa hơn
là sợ nhà vua, vẫn lấy trộm xác kẻ bị giết, giấu trong nhà, rồi đến nửa đêm
ông đem đi chôn".
Chính
vì nhân vật Tobia có một đời sống công chính nên đã tỏ ra "kính
sợ Thiên Chúa hơn là sợ nhà vua", và
vì thế đã thuộc về thành phần khôn ngoan kính sợ Chúa được bài Thánh Vịnh
111 (1-2,3-4,5-6) trong phần Đáp
Ca của phụng vụ Lời Chúa hôm
nay khen tặng
như sau:
1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ
luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong Đất Nước: thiên hạ sẽ
chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân.
2) Trong nhà người có tài sản phú quý, và lòng quảng đại
người còn mãi muôn đời. Trong u tối, người xuất hiện như ánh sáng soi kẻ
lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công chính.
3)
Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình
theo đức công bình. Cho tới đời đời người sẽ không nao núng: người hiền đức
sẽ được ghi nhớ muôn đời.
Thứ Ba
"Thần
trí tác
sinh"
"Sự sống" thần linh
hay cái chết thiêng liêng nơi con người được tỏ hiện ở chỗ họ có "trả
về cho Cesa những gì của Cesa và trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa",
như câu Chúa Giêsu trả lời cho "nhóm biệt
phái và đảng Hêrôđê" là thành phần "lập
mưu bắt lỗi Người trong lời nói".
Câu trả lời của
Người dù đã làm cho"họ
rất đỗi kinh ngạc về Người", như
bài Phúc Âm kết thúc, thế
nhưng,
trước khi trả
lời cho họ, câu
họ đặt ra: "Vậy
chúng tôi có nên nộp thuế cho Cêsa không?", một
câu hỏi thật hóc búa, Người trả lời đằng
nào cũng chết, "có" thì theo đế quốc Roma phản dân tộc, còn "không" thì tỏ
ra xui dân phản loạn với đế quốc này, Người đã
phải căn cứ vào một vật thể, đó là "đồng tiền", vì vấn đề "nộp thuế cho Cêsa"
liên quan đến "đồng tiền" của đế quốc Rôma.
Thế rồi sau khi "họ
đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi: 'Hình và ký hiệu này là của
ai đây?' Họ thưa: 'Của Cêsa'. Người liền bảo họ: 'Vậy thì của Cêsa, hãy trả
cho Cêsa; của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa'".
Câu trả lời này của Chúa
Giêsu không phải chỉ là một nguyên
tắc cần phải áp dụng vào lãnh vực chính
trị, ám
chỉ phải tuân phục quyền bính thích hợp, mà còn có một ý nghĩa sâu xa hơn
nữa, đó là dù có tuân phục quyền bính trần gian ("trả
cho Cêsa") nhưng với một tinh thần đức
tin siêu
nhiên vì
Chúa ("trả cho Thiên Chúa"), ở
chỗ, vì Chúa là Đấng quan phòng làm chủ lịch sử hơn là vì sợ con
người có
quyền bính: "Đừng sợ kẻ chỉ giết được
thân xác mà không thể nào hủy hoại được linh hồn. Đúng ra hãy
sợ Đấng có thể hủy
hoại cả hồn lẫn xác trong hỏa
ngục"
(Mathêu
10:28).
Chưa hết "của
Cesa trả cho Cesa, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa"
còn có nghĩa là "người ta không sống nguyên
bởi bánh mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán
ra" (Mathêu 4:4). Cho dù
cần phải "có thực mới vực được đạo",
thế nhưng,
vì con người được dựng nên để được sống đời đời chứ không phải chỉ sống trên
thế gian mau qua tạm gửi này thôi, nên "chính
thần trí mới cống hiến sự sống chứ xác thịt là thứ vô dụng"
(Gioan 6:63): "cái
gì sinh bởi xác thịt là xác thịt, cái gì sinh bởi Thần Linh là Thần Linh"
(Gioan 3:6).
Bởi
thế, trong Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành trên núi, Chúa Kitô đã khẳng định
với thành phần môn đệ của Người là "Không
ai có thể làm tôi hai chủ ... Các con không thể vừa làm tôi cho Thiên Chúa
vừa làm tôi cho tiền của được" (Mathêu
6:24). Nghĩa là "của Cesa hãy trả cho cesa
và của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa"
là thế.
Nếu "hình và ký hiệu"
trên đồng tiền được thành
phần âm mưu bắt bẻ Người bảo là
"của Cesa" ở đây và vì thế "của Cesa hãy trả cho Cesa", thì con người được
nên theo hình ảnh của Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên
1:26-27), có thể so sáng như một đồng tiền có giá trị có "hình và ký hiệu"
của Thiên Chúa nên cần phải trả về cho Ngài những gì thuộc về Ngài. Đó là lý
do Thánh Âu Quốc Tinh, sau cuộc đời vừa lạc giáo về tâm thần vừa trác táng
về xác thể, đã có được một cảm nghiệm rất chí lý và xác thực là: "Chúa đã
dựng nên con cho Chúa nên lòng
con khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa"
(Tự Thú I,1).
Trong bài đọc
1 cho năm lẻ của phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay, được tiếp tục trích
từ Sách Tobia, đã cho thấy
một gương điển hình của một con người thực sự đã biết "trả về cho Thiên Chúa
những gì của Thiên Chúa". Ở chỗ ông luôn tuân theo ý Chúa trong mọi sự, cho
dù là bị bất
hạnh về phần xác (mù lòa) và
nghịch cảnh về tâm thần (bị chê trách nhạo báng bởi các người thân thuộc):
"Từ lúc còn bé, ông có lòng kính sợ
Thiên Chúa, và tuân giữ giới răn của Người, tuy bị mù lòa, ông cũng không
phiền trách Thiên Chúa. Trái lại, ông vẫn
một lòng kính sợ Thiên Chúa, và tạ ơn Người hằng ngày trong đời ông. Vả
các vua xưa nhạo báng thánh Gióp thế nào, thì nay bà con họ hàng cũng chê
cười đời sống của ông mà rằng: 'Hy vọng của ông ở đâu? Ông làm phúc và chôn
xác được ích gì?'... Bà vợ ông nổi giận trả
lời rằng: 'Rõ là niềm hy vọng của ông ra vô ích, và kết quả việc bố thí của
ông nay đã rõ ràng!' Và bà tiếp tục nói những lời như thế mà mạt sát ông".
Thánh
Vịnh 111 (1-2,7bc-8,9) trong phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay đã khen tặng một
con người như nhân vật Tobia này, một con người đã biết "trả về cho Thiên
Chúa những gì của Thiên Chúa" bằng đời sống công
chính theo đức tin trung
thực của
mình như sau:
1) Phúc đức thay người tôn sợ
Chúa, người hết lòng hâm mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường
trong Đất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân.
2) Người không kinh hãi vì nghe tin buồn thảm, lòng người
vững vàng, cậy trông vào Chúa. Lòng người kiên nghị, người không kinh hãi,
cho tới khi nhìn thấy kẻ thù phải hổ ngươi.
3) Người ban phát và bố thí cho
những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được
ngẩng lên trong vinh quang.
Thứ Tư
"Thiên Chúa kẻ sống"
Chủ đề "sự sống"
của Mùa Phục Sinh trở lại một cách tỏ tường hơn 2 ngày đầu tuần này ở phụng
vụ Lời Chúa hôm nay, Thứ Tư Tuần IX Thường Niên Năm Lẻ, qua lời Chúa Giêsu,
trong bài Phúc Âm của Thánh ký Marco (12:18-27), xác quyết với "ít
người phái Sađốc" là thành phần "không
tin có sự sống lại" rằng: "Ngài
không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống".
Một trong những
chứng cứ được phái Sađốc căn cứ vào để phủ nhận sự kiện sống lại, đó là
chính câu họ đặt ra chất vấn Chúa Giêsu:
"Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai
có anh em chết đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ
goá đó để gây dòng dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất
cưới vợ rồi chết không con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết
không con, và người thứ ba cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau
cùng người đàn bà ấy cũng chết. Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì
người đàn bà đó sẽ là vợ của người nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người đó
làm vợ".
Nghe như thế, Chúa Giêsu đã
khẳng định với họ rằng: "các ông thật
lầm lạc". Ở chỗ nào? Ở chỗ, như Người
vạch ra cho họ thấy, trước hết về lý do họ lầm lạc: "Các
ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của Thiên
Chúa", sau nữa về chính
vấn đề vợ chồng liên quan đến việc sống lại: "khi
người chết sống lại, thì không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên
thần ở trên trời. Còn về sự kẻ chết sống lại, nào các ông đã chẳng đọc trong
sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: 'Ta là
Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa Giacóp'".
"Thiên Chúa không phải là Thiên
Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" là
một chân lý được chính Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa khẳng định trong
bài Phúc Âm hôm nay.
Trước hết, "Thiên
Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" ám
chỉ mầu nhiệm thân xác của con người sẽ được sống lại, dù họ là người lành
hay kẻ dữ. Thật vậy, thân xác của loài người, sau nguyên tội và bởi nguyên
tội, "đã từ đất bụi phải trở
về với đất bụi"
(Khởi Nguyên 3:19). Thế nhưng, nhờ "Lời đã
hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) và Vượt
Qua mà thân xác của con người đã được giải cứu khỏi sự chết về thể lý, nghĩa
là sẽ được sống lại, trở thành thiêng liêng "như
thiên thần", không còn vấn đề liên hệ xác
thịt như trong đời sống vợ chồng nữa. Con người thực sự đã được Chúa Kitô cứu
chuộc cả linh hồn lẫn thân xác chứ không phải chỉ nguyên
một minh linh
hồn bất tử mà
thôi, nhờ đó, thân xác
thiêng liêng mới có thể cùng với linh hồn vô hình tồn tại đến muôn đời muôn
kiếp.
Sau nữa, "Thiên
Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" còn ám
chỉ Ngài là Thiên Chúa của thành phần công chính sống theo đức tin, như 3 vị
tổ phụ tiêu biểu của dân Do Thái là "Abraham,
Isaac và Giacóp", thành
phần nhận biết Ngài là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất nên đã chấp nhận ý
muốn của Ngài và đáp ứng những gì Ngài muốn, cho dù tương lai có mù
mịt không biết bỏ quê
cha đất tổ đi về đâu, thậm chí cho dù có phải chính tay sát hại đứa con duy
nhất của một giòng dõi đông như sao trời nhiều như cát biển theo lời
Chúa hứa, như trường hợp của tổ phụ Abraham (xem Khởi Nguyên 12:1-4 và 22:15-18),
cha của các kẻ tin (xem Roma
4:9-12).
Thật vậy, tất cả mọi xác phàm đều
sống lại, nhưng chỉ có kẻ nào tin tưởng "nhận
biết Cha là Thiên
Chúa chân thật duy nhất
và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô" (Gioan
17:3) mới được
"sự sống đời đời"
(cùng đoạn vừa dẫn),
với
một thân xác phục sinh vinh
hiển như thân xác phục sinh của Chúa Kitô (xem Philiphê 3:21).
Tuy nhiên, kể cả thành phần
bị hư đi trong hỏa ngục chăng nữa, thậm chí bao gồm cả Satan và ma quỉ, cho
dù không muốn, bấy giờ, trong cõi đời đời, cũng vẫn "nhận
biết Cha là Thiên
Chúa chân thật duy nhất
và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô".
Thế nhưng, sự "nhận biết" này ở
trong cõi hư mất không phải bởi Thánh Linh của Thiên Chúa ở trong họ như khi
họ chưa hư đi nữa, mà bởi họ không
thể nào chối bỏ được sự thật bất diệt này, hay nói
cách khác, bởi "Thiên Chúa là ánh sáng"
(1Gioan 1:5) không thể nào không chiếu soi, cho dù con người có chấp nhận
hay phủ nhận, một "ánh sáng thật"
(Gioan 1:9): "Ánh
sáng chiếu trong tăm tối, thứ tối tăm không thể nào át được ánh sáng"
(Gioan 1:5).
Trong bài đọc
1 cho năm lẻ hôm nay từ Sách Tobia (3:1-11,24-25) đã cho thấy hai "kẻ
sống" đã tỏ ra nhận biết Thiên
Chúa trong hoàn cảnh khổ
nhục của mình, đó là nhân vật nam Tobia (cha của Tobia con)
và nhân vật nữ "Sara,
con gái của Raguel, người thành Mêđi", họ
hàng với
gia đình Tobia, cả hai đều tin
tưởng chạy đến kêu cầu Thiên
Chúa là Đấng duy nhất thông biết mọi sự và là Đấng duy nhất có thể cứu giúp
họ "thoát khỏi cảnh nhục nhã", bằng
cách phó thác bản thân cho Ngài: "Lạy
Chúa, giờ đây xin cứ đối xử với con theo thánh ý Chúa, và xin hãy cho linh
hồn con được an nghỉ; vì thà con được chết còn hơn sống!"
Là "Thiên
Chúa của kẻ sống", Ngài đã nghe thấy
tiếng than van kêu cầu của cả hai, như Sách Tobia cho biết như sau: "Lúc
ấy, lời cầu nguyện của hai người trước tôn nhan vinh quang của Thiên Chúa
Cao Cả, được chấp nhận. Chúa liền sai thiên thần Raphael đến để cứu giúp hai
người trong chính lúc họ dâng lời cầu nguyện lên trước tôn nhan Chúa". Và
những gì xẩy ra sau đó đã được
Sách Tobia thuật lại và
sẽ được đọc thấy ở
những ngày còn lại trong
tuần này.
Theo thân phận của mình, thường thành phần sống theo đức tin
bao giờ cũng sống gian truân lận đận khốn khổ trên trần gian này, nhưng nhờ
thế họ mới là kẻ sống, bởi họ sống theo đức tin và càng khốn khó họ càng tin
tưởng vào Ngài hơn, đúng như tâm tình của bài Thánh Vịnh 24
(2-4a,4b-5ab,6-7bc,8-9) được Giáo Hội chọn cho phần Đáp ca hôm nay:
1) Con tin cậy vào Chúa, xin đừng để con tủi hổ. Xin đừng để
quân thù hoan hỉ về con. Phàm ai trông cậy Chúa, ắt chẳng hổ ngươi, hổ ngươi
sẽ là những kẻ liều thân phản bội.
2) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo
con về lối bước của Ngài. Vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con, và con luôn luôn
cậy trông vào Chúa.
3) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng
thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của
Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa.
4) Chúa nhân hậu và công minh, vì
thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối, Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung
trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài.
Thứ Năm
Tin Yêu Lẽ Sống
Phụng vụ Lời
Chúa cho Thứ Năm của
Tuần
IX Thường
Niên hôm nay bao gồm
bài Phúc Âm của Thánh ký Marco (12:28b-34) và bài đọc 1 trích từ Sách Tobia
(6:10-11a; 7:1,9-17; 8:4-10) cùng với bài Đáp Ca trích từ Thánh Vịnh 127
(1-2,3,4-5), tất cả đều phản ảnh ý nghĩa của chủ đề "sự sống" của Mùa Phục
Sinh ở một khía cạnh nào đó.
Trước hết,
lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm đã cho thấy "sự sống" thần linh là ở
chỗ kính mến Thiên Chúa hết bản
thân mình: "hết
lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức", cùng yêu
thương tha nhân như bản
thân mình: "hãy
yêu mến tha nhân như chính mình ngươi".
Giới
răn thứ hai "yêu
tha nhân như
bản thân mình"
là giới răn gắn liền bất khả phân ly với giới răn thứ nhất và là giới răn
bất khả châm chước. Đến độ, Chúa Giêsu đã khẳng định với vị luật sĩ hỏi
Người "trong các giới răn, điều nào trọng
nhất?" về
cả 2 giới răn bất khả phân ly này rằng: "Không
có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó", một
câu trả lời chí lý khiến nhà thông luật đặt vấn nạn đã phải công nhận một
cách rất chính xác rằng: "Yêu
mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính
mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh", một
nhận thức tuyệt vời chỉ cần thực hành nữa là trọn vẹn nên vị luật sĩ đã được
Chúa Giêsu vừa khen tặng vừa phấn khích rằng: "Ông
không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu".
Thế
nhưng, vấn đề được đặt
ra ở đây là tại sao "Không có giới răn nào
trọng hơn hai giới răn đó"? Phải
chăng "yêu
thương là hoàn trọn lề luật" (Roma
13:10)!? Và phải
chăng yêu thương mới làm cho con người hiệp thông thần linh với Thiên
Chúa, ở chỗ tác động yêu thương chính là tác động con người nhận biết Ngài
là "Vị Thiên
Chúa chân thật duy nhất",
chỉ có Ngài là đáng yêu trước hết mọi sự và trên hết mọi sự, Đấng "đã
yêu chúng ta trước" (1Gioan
4:19), như Ngài đã tự tỏ mình ra đúng là như thế trong Lịch Sử Cứu Độ của
dân Do Thái: Ngài đã yêu thương dân của Ngài tuyển chọn một cách nhưng
không, đã yêu thương một cách trọn lành, đã yêu thương một cách thủy chung,
bất chấp dân này phản bội Ngài và liên lỉ gian dâm ngoại tình với tà thần
ngoại bang cùng ngẫu tượng của họ.
Vì Chúa Kitô "xuất
hiện lần thứ hai là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha
trông đợi Người"
(Do Thái 9:28), tức "bền đỗ
cho đến cùng"
24:13) bằng lòng tin tưởng mãnh liệt vào Người, mà "đức
tin thể hiện qua đức ái" (Galata
5:6), một đức ái
chính là hoa trái của đức tin, là tầm vóc viên mãn của đức tin. Bởi thế,
trong cuộc chung
thẩm, để được sự sống đời đời hay bị luận phạt, con người sẽ bị Vị Thẩm Phán
Giêsu phán xét theo tiêu chuẩn đức ái về hành động đối với tha nhân - yêu
thương nhau như bản thân mình, mà thật ra là đức tin về tinh thần đối với
Thiên Chúa - kính mến Thiên Chúa hết mình (xem Mathêu 25:37-39,44).
Ở bài đọc 1 cho năm lẻ hôm
nay chúng ta thấy một đôi tân hôn đã tỏ ra yêu nhau như bản thân mình, như
là vợ chồng "nên một xác thịt (xem Khởi Nguyên 2:24), không hoàn toàn bởi
nhục dục theo xác thịt: "Hỡi Sara, hãy chỗi
dậy, chúng ta hãy cầu nguyện cùng Thiên Chúa hôm nay, mai và mốt; trong ba
đêm đầu, chúng ta hãy kết hợp với Thiên Chúa. Qua đêm thứ ba rồi, chúng ta
mới giao hợp với nhau: vì chúng ta là con cái các thánh, chúng ta không thể
giao hợp với nhau như những người dân ngoại không biết gì đến Thiên Chúa".
Thế nhưng, hành động yêu
thương nhau một cách siêu nhiên tinh tuyền theo đức tin như thế là hành động
hoàn toàn phản ảnh lòng họ hết mình kính mến Thiên Chúa của họ: "Lạy
Chúa là Thiên Chúa tổ phụ chúng con, danh Chúa đáng chúc tụng cho đến muôn
đời! Hỡi trời đất, biển cả, sông ngòi và mọi tạo vật, hãy chúc tụng Chúa.
Chúa đã lấy bùn đất mà dựng nên Ađam, và ban cho người một bà nội trợ là
Evà. Và giờ đây, lạy Chúa, Chúa biết không phải vì dục tình mà con cưới em
này làm vợ, song chỉ vì muốn có con cái nối dòng, để danh Chúa được chúc
tụng muôn đời".
Đời
sống yêu thương đối với nhau có tính cách siêu nhiên đầy niềm tin vào Thiên
Chúa này của đôi tân hôn trong Sách Tobia ở bài đọc 1 hôm nay đã được Thánh
Vịnh 127 có ý nghĩa về hôn nhân gia đình ở bài Đáp Ca khen tặng rất hay như
sau:
1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở
theo đường lối của Người: Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được
hạnh phúc và sẽ gặp may.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất
nội cung nhà bạn; con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung
quanh bàn ăn của bạn. Đó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Đức Thiên
Chúa.
3) Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn
nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của
bạn, và để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con!
Thứ Sáu
Sự sống chiếu soi
"Đám dân chúng thích thú nghe
Người nói". Bài
Phúc Âm hôm nay (Marco
12:35-37) đã được kết
thúc như thế. Bởi vì, họ thấy vấn đề được Người đặt ra rất là kỳ lạ nhưng hết
sức lý thú mà họ chắc chưa bao giờ nghĩ ra hay đặt vấn đề.
Theo bài Phúc Âm của Thánh ký
Marco thì đây không phải là vấn đề được thành phần thông luật vốn chất vấn
ngài đặt ra, mà chính Người tự nêu lên:
"Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng giảng dạy trong
đền thờ rằng: 'Sao các luật sĩ lại nói Đấng Cứu Thế là con vua Đavít? Vì chính
Đavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi
rằng: 'Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới
chân con'. Chính Đavít gọi Người là Chúa, thì sao Người lại có thể là Con Đavít
được?'"
Ở đây, trong bài Phúc
Âm này, không thấy Thánh ký Marco thuật lại những lời giải đáp của Chúa Giêsu về
vấn nạn chính Người tự nêu lên ấy. Thế
nhưng, căn
cứ vào chính vấn nạn tự đặt ra này của Chúa Giêsu: "Chính
Đavít gọi Người là Chúa, thì sao Người lại có thể là Con Đavít được?", chúng
ta thấy dường như Người muốn kín đáo mạc khải cho dân Do Thái biết rằng Người là
vị Thiên Chúa nhập thể, có 2 bản tính, thiên tính và nhân tính.
Thiên tính ở chỗ: "Chính
Đavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi
rằng: 'Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới
chân con'". Nhân
tính ở chỗ: "Các luật sĩ lại
nói Đấng Cứu Thế là con vua Đavít... Chính Đavít gọi Người là Chúa".
Đây
là một mạc khải thần
linh do chính Đấng có 2 bản tính tỏ ra chứ không phải do loài người suy luận.
Loài người chỉ suy luận theo những dấu hiệu bề ngoài và lập luận theo lý
lẽ của trần gian mà
thôi. Ở chỗ, nếu "Đấng Cứu
Thế là con Vua Đavít", mà Vua Đavít là loài người thì tất nhiên con của vua
cũng phải là loài người và
chỉ là loài người như vua, chứ không thể nào lại là một Vị Thiên Chúa vô cùng
cao cả tự hữu và hằng hữu có trước vua và dựng nên vua.
Vấn đề ở đây
là tại sao Chúa Giêsu lại đặt vấn đề này ở đây, với mục đích gì? Thánh ký Marco
không cống hiến cho chúng ta một chút ánh sáng nào, trong khi đó Thánh Mathêu ở
cuối đoạn 22, đã cho biết thêm mấy chi tiết như sau: chi tiết thứ nhất đó là sở
dĩ Người đặt câu hỏi này là để răn cho thành phần Pharisiêu kiêu ngạo một bài
học biết mình trước mặt Người.
Thật vậy, theo trình thuật của
Thánh Mathêu thì sau khi thấy phái
Sađốc vừa bị Chúa Giêsu bịt miệng về vấn đề sống lại, (được
bài Phúc Âm hôm Thứ Tư tuần này thuật lại), nhóm
người Pharisiêu đã qui tụ lại như thể muốn chứng tỏ họ khôn ngoan thông giỏi hơn
nhóm Sađốc, với một câu hỏi khác còn độc hơn của vấn đề Sađóc nữa, đó là vấn đề
giới răn trọng nhất (được bài Phúc Âm hôm qua Thứ Năm thuật lại).
Thế rồi, sau khi Chúa Giêsu trả
lời cho nhóm Pharisiêu xong, Thánh ký Mathêu liền cho biết tiếp thế này: "Chúa
Giêsu đã đặt một câu hỏi ngược lại cho những người Pharisiêu qui tụ bấy giờ"
(22:41), đó là chính câu cũng được Thánh ký Marco thuật lại trong bài Phúc Âm
hôm nay, để rồi sau câu hỏi của Người, Thánh Ký Mathêu đã kết luận như sau: "Không
ai có thể trả lời, vì vậy, từ hôm ấy trở đi, chẳng có ai dám hỏi Người bất cứ
câu hỏi nào nữa"
(22: 46).
Thái độ tỏ ra thông luật mà lại
mù tịt trước vấn đề được Chúa Giêsu đặt ra như thế chứng tỏ thành phần thông
luật này chỉ là thứ đám con nít trước mặt một vị Đại Sư Thần Linh Giêsu vậy
thôi. Đó là lý do ngày mai chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu càng tỏ ra thẩm quyền của
mình đối với thành phần thông luật giả hình này như thế nào....
Thế nhưng, trình độ thông luật
nhưng vẫn như mù quáng chẳng biết gì trước nhan Chúa Giêsu của thành phần
Pharisiêu trong bài Phúc Âm đã được chính vấn nạn hóc búa của Chúa Giêsu như sự
sống chiếu soi chữa lành cho, nếu họ biết mình và hạ mình xuống, như nhân vật
Tobia cha là người công chính nhưng vẫn khiêm hạ trước Thánh Nhan Thiên
Chúa, được bài đọc 1 ở Sách Tobia (11:5-17) thuật lại về việc con trai ông sau
khi lấy vợ trở về nhà sử dụng phương thuốc của Thần Rapheal để chữa lành mắt
cho ông như sau:
"Bấy giờ Tobia lấy mật cá, xức lên mắt cha
mình. Chờ đợi nửa giờ, thì một vẩy trắng tựa như màng trứng tách ra khỏi
hai mắt. Tobia cầm vẩy trắng ấy kéo ra khỏi mắt cha mình, ông liền thấy
được. Rồi ông, vợ ông và những người quen thuộc ca tụng Chúa. Còn Tobia thì cầu
nguyện rằng: 'Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel, tôi chúc tụng Chúa, vì Chúa sửa
phạt tôi, và lại cứu chữa tôi; đây chính tôi đang nhìn thấy Tobia con trai của
tôi'".
Những câu của bài Đáp Ca cho ngày
hôm nay như là
tâm tình của nhân vật Tobia công
chính bị hoạn nạn những đã được
chữa lành đôi mắt mù lòa:
1) Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa, tôi sẽ ngợi khen Chúa
suốt cả cuộc đời, bao lâu còn có thân tôi, tôi còn ca ngợi Chúa.
2) Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. Thiên Chúa mở mắt
những kẻ đui mù.
3) Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục,
Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân. Thiên Chúa che chở những khách kiều cư.
4) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi, quả phụ và làm rối
loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời, Sion hỡi, Thiên
Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác.
Thứ Bảy
tận cùng sự sống
Phụng
vụ Lời Chúa cho Thứ
Bảy Tuần IX Thường Niên hôm nay với bài Phúc Âm cuối cùng của Thánh ký Marco
(12:38-44) là Phúc Âm có 16 đoạn được Giáo Hội chọn đọc cho 9 tuần đầu của Mùa
Thường Niên, và cũng là đoạn áp cuối của Sách
Tobia (12:1-5,20) ở Bài Đọc 1. Chưa hết, hôm nay bài Đáp Ca không được trích từ
Thánh Vịnh như thường thấy mà lại được trích từ đoạn cuối cùng của chính Sách
Tobia.
Trước hết, bài
Phúc Âm được Thánh ký Marcô thuật lại nhận định
của Chúa Giêsu cho dân chúng biết về thành phần "luật sĩ" và lời khuyên dạy của
Người giành cho "các môn đệ" về hành động dâng cúng chẳng là gì của một bà góa.
Đây là một cảnh tượng
trái nghịch nhau được Thánh ký Marco ghép lại từ hai
trường hợp
hoàn toàn tương phản nhau, giữa thành phần luật sĩ thông thái và bà góa đơn
nghèo.
Trước
hết Chúa
Giêsu đã nặng lời chê trách và cảnh báo thành phần thông luật trước mặt công
chúng: "Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ
thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những
ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt
hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm nhặt hơn". Trong
phán quyết này của Chúa
Giêsu, chúng ta thấy Người có nhắc đến thành phần "các bà góa", trong đó có một
bà góa được Người sử dụng để khuyên dạy các môn đệ của Người:
"Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ
tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền. Chợt có một bà goá nghèo đến
bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và bảo: 'Thầy nói
thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bá goá nghèo này đã bỏ
nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang
túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống'".
Quả
thật là
thế, sở dĩ bà góa được Chúa Giêsu nói đến và khen tặng như một tấm gương sáng
cho các môn đệ "bỏ nhiều hơn hết", hơn cả "lắm người giầu bỏ nhiều tiền" hơn bà
nữa, là vì trong khi các người khác, nhất là các người giầu "bỏ của mình dư
thừa", thì người đàn bá góa ấy lại "đang
túng thiếu", nhưng
bất chấp túng thiếu, thậm chí chẳng cần khôn ngoan, hành động đến như điên
dại, ở chỗ bà "đã
bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống".
Tinh thần và hành động
của bà góa này đúng là anh hùng trước nhan Chúa hơn là trước mặt người đời, nhất
là trước mặt thành phần giầu sang phú quí, thành
phần có thể còn tỏ ra khinh bỉ bà nữa là đằng khác. Bà
góa này vốn nghèo còn có thể càng nghèo hơn nữa bởi sự bóc lột của thành phần
luật sĩ bị Chúa Giêsu vạch mặt trong bài Phúc Âm: "Họ
giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá".
Thế
nhưng, trước nhan Chúa,
bà lại giầu sang hơn ai hết, vì bà có một sự sống nội tại siêu việt trên cả thành
phần thông luật Chúa hơn bà, thành phần có
thể đã bóc lột tiền
bạc ngặt nghèo của bà.
Chính đức tin của bà và lòng trông cậy hoàn toàn vào Chúa của bà đã khiến bà có
những hành động phi thường trổi vượt đáng khâm phục. Bà đã
biết lợi dụng tiền bạc chẳng là bao của mình để trả về cho Chúa tất
cả những gì
Ngài ban cho bà. Sự sống
của bà do Chúa ban không thể lệ thuộc vào tiền bạc để sống hơn là vào chính
Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên bà và ban sự sống cho bà.
Sách Tobia trong bài đọc 1, qua
lời của Thiên Thần Raphael, cũng đề cập đến 2 loại người được Chúa Giêsu nêu lên
trong bài Phúc Âm, bao gồm cả bà góa tốt lành (trước) lẫn thành phần luật sĩ giả
hình cần phải cải thiện đời sống (sau): "Cầu
nguyện, ăn chay, bố thí, thì tốt hơn là cất giấu kho vàng, vì việc bố thí cứu
khỏi chết, tẩy sạch tội lỗi, mang lại lòng từ bi và sự sống đời đời. Còn
những ai phạm tội và làm điều gian ác, thì là thù địch của linh hồn mình".
Theo chiều
hướng của những gì được
Thần Raphael nói trên đây về hai loại người công
chính và bất chính này, bài Đáp Ca cũng vang lên những cảm nhận chân thực về
Chúa của người công chính là Đấng cũng từ bi nhân hậu với cả thành phần tội nhân
bất chính nữa.
1) Chúa trừng phạt, rồi Chúa lại tha thứ; Chúa đẩy xuống âm
phủ, rồi lại đem ra; và không một ai thoát khỏi tay Chúa.
2) Hãy ngắm nhìn những việc Chúa làm cho chúng ta, hãy tuyên
xưng Người với lòng cung kính và run sợ, hãy suy tôn vua muôn đời trong những
việc làm của các ngươi.
3) Tôi tuyên xưng Người nơi tôi bị lưu đày, vì
Người tỏ ra uy quyền trước dân phạm tội.
4) Hỡi tội nhân, hãy sám hối ăn năn, hãy thực
hiện sự công chính trước mặt Thiên Chúa, hãy tin rằng Người tỏ lòng từ bi với
các ngươi.