Chiến
đấu cơ F/A-18 Hornet của Hải quân Mỹ cất cánh từ tàu sân bay USS Nimitz
trong một cuộc tuần tra ở Biển Đông.
Mấy
tuần vừa qua, Mỹ liên tục lên án gay gắt việc Trung Cộng bồi đắp và xây
dựng các đảo nhân tạo ở Trường Sa và kêu gọi Trung Cộng ngừng ngay tức
khắc những hành động mà họ cho là phi pháp, khiêu khích và nguy hiểm ấy.
Mặc kệ, Trung Cộng vẫn tiếp tục xây dựng, thậm chí còn đặt cả mấy khẩu
pháo trên những hòn đảo nhân tạo ấy. Chuyện gì sẽ xảy ra trên Biển Đông?
Theo
tôi, sẽ có một trong ba kịch bản sau đây:
Thứ
nhất, Biển Đông sẽ châm ngòi cho cuộc chiến tranh giữa Trung Cộng và Mỹ.
Điều
này, thật ra, đã có nhiều người nói đến từ lâu. Một số học giả đưa ra
các lý do khiến Trung Cộng sẵn sàng mở một cuộc chiến tranh với Mỹ,
trong đó, có ba lý do chính: Một, là một nước có nền kinh tế lớn thứ hai
trên thế giới, Trung Cộng cần khẳng định vị thế siêu cường của mình, ít
nhất là trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, và sự khẳng định ấy chỉ
có thể thực hiện được qua chiến tranh.
Hai,
sự phát triển kinh tế của Trung Cộng hiện nay đã bắt đầu khựng lại, sự
phân hoá giàu nghèo càng ngày càng trở nên to lớn, sự bất mãn của dân
chúng càng ngày càng sâu sắc, xu hướng đòi hỏi dân chủ càng ngày càng
mạnh mẽ, Trung Cộng cần một cuộc chiến tranh để nâng cao chủ nghĩa quốc
gia, thống nhất lòng dân và dập tắt mọi ngọn lửa phản kháng, từ đó, duy
trì sự thống trị của đảng Cộng sản.
Ba,
để tiếp tục phát triển, Trung Cộng rất cần nhiên liệu mà Biển Đông, theo
họ, là nguồn chứa dầu khí thuộc loại lớn nhất thế giới, do đó, họ xem
việc chiếm cứ Biển Đông là một “lợi ích cốt lõi”, không thể nhân nhượng,
ngay cả khi họ phải trực tiếp đối đầu với Mỹ.
Về
phía Mỹ, có nhiều lý do để họ ngại một cuộc đối đầu quân sự như vậy.
Chiến tranh ở Afghanistan và Iraq chưa
chấm dứt. Tình hình chính sự ở Trung Đông vẫn còn ngổn ngang. Dân chúng
Mỹ đã bắt đầu mệt mỏi với việc can thiệp ở nước ngoài. Tổng thống Barack
Obama chỉ còn một năm rưỡi nữa là hết nhiệm kỳ, chắc chắn ông không muốn
tham dự vào một cuộc phiêu lưu mới đầy bất trắc. Tổng thống kế tiếp cũng
chắc không muốn mở đầu một nhiệm kỳ bằng chiến tranh. Đó là chưa kể kinh
tế Mỹ, một mặt, vẫn chưa hồi phục hẳn; mặt khác, có quan hệ chặt chẽ với
kinh tế Trung Cộng. Chỉ có hai lý do có thể khiến Mỹ vượt qua tất cả
những sự khó khăn và trở ngại ấy: Một, Trung Cộng quyết định khống chế
hoàn toàn con đường hàng hải đi ngang qua Biển Đông; và hai, Trung Cộng
nổ súng trước vào máy bay hay chiến hạm của Mỹ.
Chuyện Trung Cộng nổ súng trước không phải không có khả năng xảy ra. Nó
có thể xảy ra một cách cố ý với một sự tính toán rõ rệt từ nhà cầm quyền
Trung Cộng nhưng cũng có thể xảy ra một cách ngẫu nhiên và bất ngờ, hay
nói theo giáo sư Michael Auslin, như “một tai nạn” khi máy bay hoặc
chiến hạm hai bên đụng vào nhau gây ra thương vong, từ đó, dẫn đến những
phản ứng mạnh mẽ từ cả hai phía và hậu quả là chiến tranh sẽ bùng nổ.
Một
cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Trung Cộng chắc chắn sẽ vô cùng khốc liệt và
rất dễ dẫn đến nguy cơ lan rộng thành chiến tranh thế giới, và đặc biệt,
chiến tranh hạt nhân. Viễn cảnh ấy chắc chắn sẽ làm chột dạ mọi người.
Tuy nhiên, Trung Cộng vẫn có thể khẳng định vị thế siêu cường trong khu
vực của mình bằng một cuộc chiến tranh khác, ví dụ, chiến tranh với một
nước đang tranh chấp nào đó. Đó là những nước nào? Có ba nước tranh chấp
biển và đảo quyết liệt nhất với Trung Cộng: Nhật Bản, Philippines và
Việt Nam .
Trong ba nước ấy, mạnh nhất là Nhật Bản. Về quân sự, trừ vũ khí hạt
nhân, có khi Nhật Bản còn mạnh hơn cả Trung Cộng. Hơn nữa, sau Nhật Bản
là Mỹ. Có lẽ Trung Cộng sẽ không phiêu lưu vào cái nơi nguy hiểm và
không nắm chắc phần thắng ấy. Nước yếu nhất là Philippines .
Nhưng Philippines lại
có liên minh về quốc phòng với Mỹ. Nếu Trung Cộng muốn tránh đương đầu
với Mỹ, họ cũng sẽ không gây chiến với Philippines .
Chỉ còn lại Việt Nam là
vừa yếu vừa thân cô thế cô, dễ đánh nhất. Bởi vậy, chúng ta có kịch bản
thứ hai: Chiến tranh giữa Việt Nam và
Trung Cộng.
Trong
bài “Why A War Between China And Vietnam Is Inevitable” đăng trên tờ
Business Insider vào tháng 7 năm 2011, Dee Woo cho chiến tranh giữa
Trung Cộng và Việt Nam là chuyện không thể tránh khỏi. Ông cho cuộc
chiến tranh ấy phục vụ lợi ích của chính quyền ở cả hai nước: Trung Cộng
thì muốn chiếm trọn Trường Sa và, từ đó, Biển Đông, còn Việt Nam thì
muốn làm lệch hướng sự quan tâm của dân chúng để không ai còn lên án
những thất bại thảm hại về phương diện kinh tế và xã hội của nhà cầm
quyền. Nhưng Dee Woo lại vẽ nên một viễn cảnh thê thảm của Việt Nam: sau
khi tấn công cả trên biển lẫn trên đất liền, Trung Cộng sẽ phá huỷ toàn
bộ các cơ sở hạ tầng của Việt Nam rồi rút về, để lại ở Việt Nam một cảnh
tan hoang và thậm chí, nội chiến triền miên cả nửa thế kỷ sau cũng chưa
chắc đã hồi phục được.
Viễn
cảnh ấy, tuy bi quan, nhưng không có gì quá đáng. Tương quan lực lượng
của Việt Nam và
Trung Cộng hiện nay khác xa với thời chiến tranh biên giới vào năm 1979.
Trung Cộng không những giàu hơn về kinh tế mà còn có kho vũ khí, khi tài
cũng như các phương tiện phục vụ chiến tranh dồi dào và tối tân hơn Việt Nam cả
mấy chục lần. Việt Nam có
đổ thêm bao nhiêu tiền để mua sắm vũ khí thì cũng không thể nào bắt kịp
được Trung Cộng. Hơn nữa, cần lưu ý: Đánh nhau trên bộ người ta còn có
thể sử dụng chiến thuật du kích và huy động chiến tranh nhân dân nhưng
trên mặt biển, yếu tố quyết định nhất vẫn là vũ khí và kỹ thuật. Thua vũ
khí và thua kỹ thuật là thua hẳn cuộc chiến. Chắc chắn chính quyền Việt Nam biết
rõ điều đó nên họ vẫn tiếp tục chịu đựng và nhân nhượng. Nếu sách lược
này kéo dài mãi, chúng ta sẽ có kịch bản thứ ba: Trung Cộng bất chiến tự
nhiên thành.
Nên
nhớ một trong những sách lược chính của Trung Cộng ở Biển Đông là sách
lược tằm ăn dâu (salami slicing). Họ cứ lấn dần dần. Lấn đến cỡ nào Việt Nam cũng
nhịn, đến một lúc nào đó, tất cả những gì họ muốn đều biến thành hiện
thực. Họ tuyên bố về đường lưỡi bò bao trùm lên 80% diện tích Biển Đông
của Việt Nam :
Việt Nam nhịn.
Họ đem giàn khoan đến thềm lục địa Việt Nam :
ViệtNam nhịn.
Họ tái tạo bãi đá ngầm thành đảo nhân tạo: Việt Nam nhịn.
Một lúc nào đó, họ tuyên bố thành lập vùng nhận dạng hàng không: Việt Nam lại
nhịn. Thậm chí, họ có thể chiếm nốt các hòn đảo khác ở Trường Sa: Việt Nam cũng
vẫn tiếp tục nhịn. Đến lúc đó, thực tình họ chả cần đánh nhau với Việt Nam làm
gì: Họ đã có tất cả những gì họ muốn. Và đến lúc ấy, mâu thuẫn giữa ViệtNam và
Trung Cộng không còn nữa.
Chỉ
còn mâu thuẫn trong nội bộ Việt Nam :
giữa nhân dân và một chính quyền bất lực, nhu nhược và đớn hèn.
Tiến sĩ
Nguyễn Hưng Quốc