Theo dự báo đến năm 2030 khoảng 45% diện tích của Đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL) đối mặt với nguy cơ nhiễm mặn.
17
triệu người tại Việt Nam sống
tại khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long.
Ngăn xâm nhập mặn ĐBSCL, gìn giữ an toàn lương thực của một khu vực hàng
năm đã đóng góp 27% GDP, 90% số lượng gạo xuất khẩu và gần 60% kim ngạch
xuất khẩu thủy sản của Việt Nam và ổn định cuộc sống và an sinh cho trên
17 triệu người là việc làm bắt buộc vào lúc này mặc dù đã quá trễ.
Mặn đã đến chân
Không còn là kịch bản dự đoán nữa, biến đổi khí hậu đã hiện diện thực
tế. ĐBSCL đang bị nước mặn xâm nhập, đất đai bị mặn hóa. Thảm họa này
ngày càng gia tăng bởi tác động kép của biến đổi khí hậu do nước biển
dâng cao và do việc tích nước hàng loạt tại các đập thủy lợi, thủy điện
của các quốc gia lân cận ở thượng nguồn, làm giảm cao độ mực nước hệ
thống sông Cửu Long vào mùa khô.
Hệ thống kênh vùng tứ giác Long Xuyên được xây dựng thời vua Nguyễn với
mục đích thoát lũ, ngọt hóa, lưu thông, chinh phục được những vùng đất
nhiễm phèn, nhiễm mặn biến thành những miệt vườn trù phú. Hệ thống kênh
Phụng Hiệp, kênh xáng Cà No được xây dựng từ thời Pháp thuộc với chức
năng ngọt hóa, khẩn hoang vùng đất nhiễm mặn của Bán đảo Cà Mau thành
vùng đất màu mỡ cả trăm năm qua. Giờ đây thì ngược lại, hệ thống kênh
rạch này bị nước biển xâm nhập đang lan tỏa xâm nhập mặn hầu hết khắp
khu vực, đang biến đất đai tại đây thành đất bị thấm mặn.
Các dòng sông Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long đang bị
xâm nhập mặn vào nội địa trên 70 km, và có chiều hướng tăng nhanh. Hiện
một số địa phuơng trong vùng ĐBSCL đã xuất hiện tình trạng thiếu nước
ngọt trầm trọng.
Những tháng gần đây tại ĐBSCL, việc nước mặn tấn công “Chưa từng thấy”
làm “Đảo lộn cuộc sống”, không phải là bất ngờ mà là tất yếu theo dự
đoán. Người dân các tỉnh Cần Thơ, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên
Giang đang phải “Chạy mặn” từng ngày.
Các tiểu vùng nước ngọt quanh năm bị đảo lộn, bị mặn xâm nhập, đã đe dọa
cả trăm ngàn hecta đất nông nghiệp, nhiều vườn cây ăn trái nằm trên nguy
cơ xóa sổ, thủy sản nước ngọt bị tổn thất lớn. Tất cả nguy hại đang đổ
trên đầu người dân nơi đây.
Một bất ngờ khác là sự vô cảm bao trùm. Cộng đồng mạng không sục sôi như
với những sự kiện khác bị kết luận một cách mơ hồ, võ đoán là có nguy cơ
ảnh hưởng môi trường. Trong khi đó, một sự thật hiển nhiên đang đe dọa
cư dân ĐBSCL là vấn đề nhiễm mặn đang hủy diệt môi trường sống, lại chỉ
nhận được sự thờ ơ của nhiều tầng lớp xã hội, của truyền thông báo chí,
không thấy sự lên tiếng đòi hỏi chính phủ về trách nhiệm, kế hoạch và
phương pháp hữu hiệu để giải quyết “thảm họa”, về giá trị đầu tư phù hợp
và hiệu quả cho giải pháp chống xâm nhập mặn - đang là mối đe dọa hiện
hữu đến kinh tế, đến an toàn lương thực và dân sinh khu vực, thậm chí đe
dọa đến số mệnh của cả quốc gia.
Đầu tư và hiệu quả của việc ứng phó
Nỗ lực của Chính phủ cùng với sự hỗ trợ quốc tế trong ứng phó với biến
đổi khí hậu ở Việt Nam trong những năm qua, bằng nhiều nguồn vốn viện
trợ không hoàn lại từ nhiều quốc gia trên thế giới, cũng đã đạt được một
ít thành công. Ước tính trong 5 năm trở lại đây Việt Nam đã nhận được
khoảng trên 1,3 tỷ USD cho ứng phó với biến đổi khí hậu.
Quyết định số 1397/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch thủy lợi
đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2012 - 2050 trong điều kiện biến đổi
khí hậu, với tổng kinh phí dự kiến thực hiện khoảng 171.700 tỷ đồng, chỉ
gần bằng 1/3 tổng mức xây dựng Sân bay Long Thành - Đồng Nai.
Chính phủ đã có thể có quan điểm, mục tiêu rõ ràng, nhưng giải pháp qui
hoạch tổng thể không đồng bộ, cụ thể, không có chiến lược rõ ràng, thực
tế, triển khai hành động manh mún, nhiều bất cập. Kinh phí dành cho sứ
mệnh thì không đủ đáp ứng, chủ yếu trông chờ vào nguồn vốn ODA và các
nguồn vốn viện trợ của nước ngoài, không thể đem lại kết quả chống xâm
nhập mặn triệt để cho ĐBSCL.
Thực tế “mặn nạn” nhãn tiền đó là do các nguyên nhân trên. Nhìn lại vài
dự án được đầu tư, sứ mệnh ngăn mặn của các công trình thủy lợi bỗng
dưng biến thành “thủy hại”: như cống đập Ba Lai và Âu thuyền Tắc Thủ Cà
Mau đem lại kết quả “ngoài mặn và sâu bên trong cũng mặn”. Bởi hai con
đập đâu ngăn được các khúc sông rồng thông với nhau và đã nhiễm mặn cả
trăm cây số vào nội địa.
Thực trạng thảm họa tràn mặn, thấm mặn trên diện rộng đang diễn ra ở
ĐBSCL cho thấy hiệu quả của giải pháp chống xâm nhập mặn của những năm
gần đây hầu như thất bại, giống như sự bế tắc của công cuộc chống ngập ở
Thành phố HCM.
Thức tỉnh
Lãnh
đạo khu vực hàng năm nhóm họp để có những cam kết hỗ trợ cho khu vực
sông Mekong.
Việc nâng cao độ mực nước an toàn tối thiểu để ngăn xâm nhập mặn cả về
nước mặt và thấm mặn toàn vùng, trữ được lượng nước ngọt lớn, sử dụng
được phần lớn lượng nước ngọt do thượng nguồn đổ về, tạo dòng chảy một
chiều của các cửa sông hệ thống sông Cửu Long đồng loạt, biến ĐBSCL
thành đồng bằng vùng nước ngọt ở phía trên và vùng mặn ở phía dưới gần
biển. Đó là biện pháp giải quyết phù hợp và triệt để vấn đề xâm nhập mặn
đồng thời cải thiện rất tốt việc thoát lũ cho mùa lũ.
Các chuyên gia trong và ngoài nước có nhiều tâm huyết đã đề cập đến giải
pháp kiểu đập ngầm (underwater sill) như trên sông Mississippi của Hoa
Kỳ. Đó là một công trình ngăn mặn hữu hiệu và có tính địa lý tương đồng
với hệ thống sông Cửu Long. Phải chăng chính phủ cần lắng nghe để tìm
một hướng đi, một giải pháp đúng, có hiệu quả triệt để, phù hợp và đã
muộn trước thảm họa gần kề?
Phải tỉnh táo, sáng suốt, dành nhiều trí lực, nguồn tài chính cho công
cuộc chống biến đổi khí hậu.
Đừng trông chờ sự cứu rỗi tình trạng xâm nhập mặn khu vực ĐBSCL vào
lượng mưa thượng nguồn sông Mê Kông. Đừng để bức tranh sự sống trù phú
của ĐBSCL đã bị hủy diệt một ngày nào đó sẽ được trưng bày giữa Bảo tàng
Lịch sử Quốc gia có giá đầu tư lên đến 11.277 tỷ VND, như là mặc niệm
cho chính sự thờ ơ và chủ quan của chúng ta!
Hãy dành nguồn vốn đang hạn hẹp bởi nợ công chồng chất để chống chọi
nguy cơ hủy diệt đất nước hơn là đầu tư những dự án có những hiệu quả mơ
mộng hay ý tưởng viển vông. Làm được sứ mệnh cứu Đồng bằng Nam Bộ không
những không hổ thẹn với tiền nhân mà tránh được lỗi lớn với con cháu
ngày sau.
Đinh Hưng