TÌNH HÌNH THỜI CUỘC
2015
Biến cố Mậu Thân
Cuộc thảm sát tại khe Đá Mài
Vài lời mở đầu
Biến cố tết Mậu Thân sắp được hầu hết toàn thể dân tộc VN, đặc
biệt nhân dân miền Nam, kỷ niệm lần thứ 40 với trái tim vẫn còn rỉ máu, vì
hàng trăm ngàn nạn nhân của cuộc thảm sát này –mãi cho tới hôm nay- chưa bao
giờ nghe được một lời tạ lỗi và thấy được một cử chỉ sám hối từ phía các tay
đồ tể là đảng Cộng sản Việt Nam, đồng bào ruột thịt của họ. Chúng tôi nói là
hàng trăm ngàn người, vì ngoài con số 14.300 nạn nhân vô tội gồm tu sĩ, công
chức, giáo sư, giáo viên, sinh viên, học sinh, dân thường ở miền Nam (riêng
Huế chiếm gần một nửa), còn phải kể đến 100.000 bộ đội miền Bắc (con số do
chính CS đưa ra) đã bị nướng vào cuộc tàn sát dân tộc này, cuộc tàn sát man
rợ nhất lịch sử đất nước mà người chủ xướng là Hồ Chí Minh và các lãnh đạo
cao cấp trong đảng CS thời đó.
Chúng tôi viết lên bài này như nén hương lòng tưởng nhớ các ân
sư, thân nhân, bằng hữu, đồng nghiệp của chúng tôi đã bị CS tàn sát trong
biến cố ấy như 3 linh mục người Huế là Hoàng Ngọc Bang, Lê Văn Hộ, Nguyễn
Phúc Bửu Đồng, ba linh mục người Pháp là Guy, Cressonnier và Urbain, 3 tu sĩ
dòng Thánh Tâm là Héc-man, Bá-Long, Mai-Thịnh, ba chủng sinh là Nguyễn Văn
Thứ, Phạm Văn Vụ và Nguyễn Lương, hai sư huynh dòng La San là Agribert và
Sylvestre cùng nhiều người khác… Chúng tôi cũng viết lên bài này như lời kêu
gọi đảng và nhà cầm quyền CSVN phải biết thừa nhận sự thật, lãnh nhận trách
nhiệm, công nhận tội ác tầy trời mà chính họ đã gây ra cho dân tộc VN trong
những ngày xuân năm 1968, phải chấm dứt ngay việc trình bày biến cố Mậu Thân
như một chiến thắng lừng lẫy, phải phục hồi danh dự cho các oan hồn bằng
cách chính thức tạ tội và để tự do cho bất cứ cá nhân hay tập thể nào tưởng
nhớ các nạn nhân này, phải tôn tạo ít nhất ngôi mộ tập thể chôn cất di hài
của họ tại núi Ba Tầng (núi Bân), phía Nam thành phố Huế. Ngôi mộ này lưu
giữ hơn 400 bộ hài cốt chủ yếu bốc từ Khe Đá Mài nhưng đã bị chính CS phá đổ
trụ bia và để cho hoang phế suốt 32 năm trời.
Đây cũng là điều mà mới đây, trong Thỉnh nguyện thư viết ngày
29-09-2007 cùng 124 Kitô hữu VN khác, chúng tôi đã đề nghị với Hội đồng Giám
mục Việt Nam: “Việc tưởng nhớ, cầu nguyện, minh oan cho họ (các nạn nhân
biến cố Mậu Thân) để linh hồn họ được giải thoát, gia đình họ được an ủi là
căn cốt trong truyền thống của mọi tôn giáo và nhất là của Kitô giáo. Đây
cũng là cơ hội để các đao phủ thảm sát đồng bào bày tỏ thành tâm thiện chí,
thống hối lỗi lầm, dọn đường cho việc hòa giải dân tộc cách đích thực. Nhớ
lại năm 2002, nhân kỷ niệm 30 năm biến cố Đại lộ kinh hoàng Quảng Trị
(1972), Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã làm lễ cầu siêu cho các
nạn nhân. Chúng con thiết tưởng Công giáo chúng ta cũng nên nhân cơ hội
tưởng niệm 40 năm biến cố Tết Mậu Thân để làm nghĩa cử đối với các oan hồn
uổng tử đồng bào đồng đạo. Vậy chúng con kính xin Quý Đức Cha và Hội đồng
Giám mục can đảm tổ chức lễ cầu nguyện khắp nơi cho các nạn nhân vô tội, đặt
ra một ngày tạm gọi là “ngày nhớ Mậu thân”. Đồng thời yêu cầu nhà cầm quyền
cộng sản dựng một tấm bia mới tại nghĩa trang Ba Tầng (thành phố Huế), nơi
chôn cất hài cốt của hơn 400 nạn nhân, vì tấm bia cũ đã bị phá hủy ngay sau
năm 1975”.
Trong toàn bộ biến cố Tết Mậu Thân, có lẽ những gì xảy ra tại
Huế là đau thương và đánh động hơn cả. Nhưng trong những gì xảy ra tại Huế,
thì có lẽ cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài là rùng rợn, dã man và thê thảm nhất.
Tiếc thay, theo sự am hiểu của chúng tôi, hình như người ta chỉ biết đến kết
cục của nó là hàng trăm bộ hài cốt dồn lại một đống dưới khe sau khi thịt
thối rữa bị nước cuốn đi lâu ngày, từ đó suy diễn ra sự việc hơn là biết rõ
diễn tiến của toàn bộ sự việc kể từ lúc các nạn nhân bắt đầu bị dẫn đi đến
chỗ hành quyết. Lý do là vì chỉ có hai con người duy nhất trong đoàn tử tội
đã chạy thoát được trước khi thảm kịch xảy đến, họ nắm được một ít chi tiết
nhưng lại chẳng biết rõ địa điểm, do vụ việc xảy ra giữa đêm khuya trong
rừng già; họ lại còn quá trẻ rồi sau đó đăng lính, mất hút vào cơn bão chiến
tranh, khiến mãi tới ngày 19-09-1969, tức gần hai năm sau, nhờ khai thác tù
binh Việt cộng, chính phủ VNCH mới biết đó là Khe Đá mài trong vùng núi Đình
Môn, Kim Ngọc, thuộc quận Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên (xã Dương Hòa, huyện
Hương Thủy ngày nay) và mới tiến hành việc tìm kiếm hài cốt các nạn nhân xấu
số. Thời gian sau, một trong hai người đã chết trận, đem theo bí mật xuống
đáy mồ. Chúng tôi may mắn gặp được chứng nhân duy nhất còn lại, nay gần lục
tuần. Ông đã tường thuật mọi việc cho chúng tôi khá tỉ mỉ. Nhưng vì lý do an
ninh của đương sự, chúng tôi viết theo dạng tự thuật để khỏi nêu tên ông.
Chúng tôi cũng xin phép bỏ đi nhiều chi tiết có thể giúp CS lần hồi dấu vết
của ông để báo thù.
Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải và Linh mục Phêrô Phan Văn
Lợi
********************************
Hồi ấy tôi mới 17 tuổi, đang là học sinh trung học đệ nhị cấp.
Vì tình hình bất an, gia đình tôi đã từ quê chạy về thành phố, cư ngụ tại
giáo xứ Phủ Cam, thôn Phước Quả, xã Thủy Phước, tỉnh Thừa Thiên (nay gọi là
phường Phước Vĩnh, thành phố Huế) từ mấy năm trước.
Sáng sớm mồng một tết Mậu Thân, tôi cùng gia đình đi thăm bà con
thân thuộc và du xuân với các bạn đồng trang lứa, trong một khung cảnh tạm
an bình, vắng tiếng súng, nhờ cuộc hưu chiến mà hai miền Nam Bắc đã cam kết
tuân giữ.
Bỗng nhiên, khuya mồng một rạng mồng hai tết, nhiều tiếng đại
bác và súng lớn súng nhỏ vang rền khắp xứ đạo của chúng tôi. Sáng hôm sau,
tôi nghe nói Việt Cộng đang tấn công vào toàn bộ thành phố Huế và đã chiếm
nhiều nơi rồi. Hoảng hốt, cả gia đình tôi cũng như rất nhiều giáo dân chạy
đến nhà thờ (lúc ấy mới hoàn thành phần cung thánh và hai cánh tả hữu) để ẩn
trú, vì đó là nơi an toàn về mặt thể lý (xây vững chắc, tường vách dày, trần
xi măng rất cao) cũng như về mặt tâm lý (có thể trông cậy vào ơn phù hộ của
Chúa và đông đảo người bên nhau thì bớt hãi sợ…). Tôi thấy đủ hạng: nữ nam
già trẻ, linh mục tu sĩ, ngồi chen chúc nhau cả mấy ngàn người (giáo xứ Phủ
Cam lúc đó lên tới 10.000 giáo dân). Đang khi ấy, ở bên ngoài, lực lượng địa
phương quân, nhân dân tự vệ cùng các quân nhân chính quy về nghỉ phép hợp
đồng tác chiến, chống giữ không cho Cộng quân tiến vào giáo xứ từ hướng An
Cựu, Bến Ngự, Nam Giao, Ngự Bình... Cuộc chiến đấu xem ra rất ác liệt!
Thế nhưng, đến chiều mồng 6 Tết, do lực lượng quá nhỏ, lại không
có tiếp viện (vì mặt trận lan khắp cả thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên), các
chiến sĩ đang bảo vệ giáo xứ đành phải rút lui, bỏ chạy. Thế là VC tràn vào!
Khuya hôm đó, lúc 1g sáng, chúng mang AK và đèn đuốc xông vào nhà thờ Phủ
Cam để gọi là “bắt đầu hàng” và lục soát mọi ngõ ngách. Sau này tôi mới biết
chúng có ý lùng bắt cha xứ mà chúng nghi là người chỉ huy cuộc kháng cự,
lùng bắt tất cả những ai mà chúng nghĩ đã chống cự lại chúng trong 5 ngày
qua, cùng mọi cán bộ viên chức chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, như xảy ra tại
nhiều nơi khác trong thành phố Huế lúc ấy.
Thấy chúng vừa xuất hiện, tôi liền lợi dụng bóng tối, nhanh chân
chạy đến cầu thang sắt phía cánh trái nhà thờ (gần mộ Đức Cố Tổng Giám mục
Nguyễn Kim Điền hiện nay), leo lên trần xi măng, sát mái ngói. Từ trên đó,
qua mấy lỗ trổ sẵn để gắn đèn cao áp (nhưng chưa gắn), tôi mục kích khá rõ
sự việc diễn ra bên dưới. Tôi thấy lố nhố VC địa phương (du kích nằm vùng)
lẫn bộ đội chính quy miền Bắc. Chúng lật mặt từng người, chỉ chỏ bên này bên
kia. Một câu nói được lặp đi lặp lại:
- Đồng bào yên tâm! Cách mạng đến là để giải phóng! Các mẹ, các
chị, các em có thể ra về. Còn các anh được mời đi học tập, chỉ 3 ngày thôi!
Không sao đâu!!!
Thế là mọi tráng niên và thanh niên từ 15 đến 50 tuổi đều bị lôi
đứng dậy và dẫn đi, dù là học sinh, thường dân hay công chức…. Tiếng kêu
khóc thảm thiết vang động cả nhà thờ. Con khóc cha, vợ khóc chồng, cha mẹ
khóc con. Ai nấy linh cảm chuyến đi “học tập” này sẽ chẳng có ngày đoàn tụ.
Sau này tôi biết thêm là linh mục quản xứ chúng tôi, cha Nguyễn Phùng Tuệ,
nhờ ngồi giữa đám nữ tu dòng Mến Thánh Giá với lúp đội trên đầu, nên may mắn
chẳng bị VC nhận diện. Bằng không thì bây giờ ngài đã xanh cỏ. VC ở lại
trong nhà thờ suốt đêm hôm đó vài tên, còn những tên khác đi lùng khắp giáo
xứ để bắt thêm một số người nữa, cũng từ 15 đến 50, thành thử có nhiều thanh
niên hay học sinh gặp nạn.
Sáng hôm sau, lúc 8 giờ, bỗng có hai tên VC theo thang sắt trèo
lên trần và khám phá ra tôi. Một đứa tên Hồ Sự, du kích gốc Long Hồ, vừa
được đồng bọn giải thoát khỏi nhà lao Thừa Phủ (là nhà lao nằm giữa lòng
thành phố Huế, ngay sau lưng tòa hành chánh tỉnh). Tên kia là Đỗ Vinh, sinh
viên, người gốc làng Sịa. Sau khi lôi tôi xuống, chúng hỏi tôi tại sao lại
trèo lên núp (nấp). Tôi trả lời là vì nghe con nít khóc ồn ào, chịu không
nổi, phải trèo lên đấy để nghỉ.
Chúng dẫn một mình tôi -lúc ấy chẳng còn hồn vía gì nữa- đi
xuống dốc nhà thờ, nhưng đến chắn xe lửa thì quẹo trái, men theo đường xe
lửa tới chắn Bến Ngự. Từ đây, chúng dẫn tôi lên chùa Từ Đàm là nơi VC đang
đặt bản doanh. Chúng rất đông đảo, vừa sắc phục vừa thường phục, vừa bộ đội
miền Bắc vừa du kích nằm vùng miền Nam. Vào trong khuôn viên chùa, tôi nhận
thấy ngôi nhà tăng 5 gian thì 4 gian đã đầy người bị bắt, đa số là giáo dân
giáo xứ Phủ Cam của tôi. Gian thứ 5 (đối diện với cây bồ đề) còn khá trống,
để nhốt những người bị bắt trong ngày mồng 7 Tết. Tôi cũng trông thấy ông
Tin, chủ hiệu ảnh Mỹ Vân, người rất đẹp trai, đang bị trói nơi cây mít. Một
tên VC nói:
- Thằng ni trắng trẻo chắc là cảnh sát, bắn quách nó đi cho rồi!
May thay, có một người trong nhóm bị bắt đã vội lên tiếng:
- Tội quá mấy anh ơi, đây là ông Tin chụp ảnh tại Bến Ngự, cảnh
sát mô mà cảnh sát!
Nhờ thế ông Tin thoát nạn, được cho về. Tiếp đó, VC đưa cho tôi
một tờ giấy để làm bản lý lịch. Chúng bảo phải khai rõ tên cha, tên mẹ, tên
mình, nguyên quán ở đâu, cha mẹ làm chi, bản thân bây giờ làm chi. Khai rõ
ràng chính xác, Cách mạng sẽ khoan hồng. Khai tơ lơ mơ, khai dối láo là bắn
ngay tại chỗ. Lúc ấy không hiểu sao Chúa cho tôi đủ sự thông minh và điềm
tĩnh nên đã khai hoàn toàn giả, giả từ tên cha mẹ đến tên mình, và giả mọi
chi tiết khác, như nghề của cha là kéo xe ba gác, nghề của mẹ bán rau hành ở
chợ Xép, bản thân thì đang học trường Kỹ thuật!?! May mà bọn VC chẳng kiểm
tra chéo bằng cách hỏi những người cùng giáo xứ bị bắt đêm hôm trước. Bằng
không thì tôi cũng rồi đời tại chỗ!
Chúng tôi ngồi tại chùa Từ Đàm suốt cả ngày mồng 7 Tết, không
được cho ăn gì cả. Lâu lâu tôi lại thấy VC dẫn về thêm một số tù nhân, trong
đó tôi nhớ có cậu Long, 16 tuổi, học sinh, con ông Nguyện ở xóm Đường Đá
giáo xứ Phủ Cam. Thỉnh thoảng chúng lại trói ai đó vào gốc cây bồ đề, bắn
chết rồi chôn ngay trong sân chùa. Sau này người ta đếm được có 20 xác,
trong đó có anh Hoàng Sự, vốn là cảnh sát gác lao Thừa Phủ, bị đám VC khi
được thoát tù đã bắt đem theo lên đây.
VC cũng cho một vài kẻ về nhắn thân nhân bới cơm nước lên cho
người nhà, nhưng với điều kiện: nhắn xong phải đến lại trong ngày, bằng
không bạn bè sẽ bị chết thế. Thế là một số anh em Phủ Cam lên tiếng xin thả
ông Hồ (khá lớn tuổi, làm nghề hớt tóc, nhà ở gần cabin điện đường Hàm Nghi)
để ông về lo chuyện tiếp tế thực phẩm. Tay VC liền hỏi: “Ai tên Hồ?” thì có
một cậu thanh niên nào đó nhảy ra nói: “Hồ đây! Hồ đây!” Thế là nó được thả
về và rồi trốn luôn, thoát chết. Một vài bạn trẻ cùng tuổi với tôi cũng được
cho về nhắn chuyện bới xách rồi quyết không lui, nhờ vậy thoát khỏi cơn thảm
tử. Còn ai vì hãi sợ hay thương bạn mà lên lại Từ Đàm thì cuối cùng bị mất
mạng như tôi sẽ kể. Các “sứ giả” về thông báo với bà con là ai có thân nhân
“đi học tập” hãy bới lương thực lên chùa Từ Đàm. Vậy là vài hôm sau, người
ta ùn ùn gánh gồng lên đó gạo cơm, cá thịt, muối mắm, bánh trái ê hề (Tết
mà!)… Họ chẳng thấy thân nhân đâu mà chỉ gặp mấy tên cán bộ VC bảo họ hãy an
tâm trở về nhưng để đồ ăn lại. Nhờ mưu mô thâm độc này mà VC tạo được một
kho lương thực khổng lồ để ăn mà đi giết người tiếp!!
Lân la dò hỏi và nhìn quanh, tôi thấy trong số thanh niên Phủ
Cam bị bắt có rất nhiều người bạn của tôi: anh Trị tây lai con ông Ngọc đàn
ở nhà thờ, con trai ông Hoàng lương y thuốc Bắc ở chợ Xép, hai con trai ông
Thắng nấu rượu, hai con trai ông Vang thổi kèn, anh Thịnh con ông Năm, hai
anh em Bình và Minh con ông Thục mà một là bạn học với cha Phan Văn Lợi… Tôi
cũng nghe nói có hai thầy đại chủng viện mà sau này tôi mới biết là thầy
Nguyễn Văn Thứ, nghĩa tử của cha Nguyễn Kim Bính và bạn cùng lớp với cha
Nguyễn Hữu Giải, rồi thầy Phạm Văn Vụ, đồng nghĩa phụ với cha Lợi…
Khi trời bắt đầu sẫm tối, VC bắt chúng tôi ra sân xếp hàng và
một tên tuyên bố:
- Anh em yên tâm! Như đã nói, Cách mạng đưa anh em đi học tập 3
ngày cho thấm nhuần đường lối rồi sẽ về thôi! Bây giờ chúng ta lên đường!
Rồi chúng bắt đầu dùng dây điện thoại trói thúc ké từng người
một chúng tôi, trói xong chúng xâu lại thành chùm bằng một sợi dây kẽm gai,
20 người làm một chùm. Tôi nhớ là đếm được trên 25 chùm, tức hơn 500 người.
Khi chúng tôi bị lôi ra đường (đường Phan Bội Châu hiện giờ),
chừng 7g tối, tôi thấy có một đoàn cố vấn dân sự Hoa Kỳ khoảng 14 người cũng
bị trói nhưng sau đó được dẫn đi theo ngã khác hẳn. Áp giải chúng tôi lúc
này không phải là VC nằm vùng, địa phương, nhưng là bộ đội miền Bắc, khoảng
30 tên. Bọn nằm vùng ở lại để đi bắt người tiếp. Bỗng một kẻ mặc áo thầy
chùa xuất hiện, đến cạnh chúng tôi mà nói:
- Mô Phật! Dân Phủ Cam bị bắt cũng nhiều đây! Chỉ thiếu Trọng Hê
và Phú rỗ!
Trọng (con ông Hê) và Phú (mặt rỗ) là hai thanh niên công giáo,
nhưng lại là “tay anh chị” khét tiếng cả thành phố. Về sau tôi được biết đa
phần những thanh niên bị bắt đêm mồng 6 Tết tại nhà thờ Phủ Cam và sau đó bị
giết chết đều là học sinh, sinh viên, thanh niên nhút nhát hiền lành. Còn
hạng can đảm, có máu mạo hiểm hay hạng “du dãng, anh chị” đều đã đi theo
binh lính, dân quân để chiến đấu tự vệ hoặc nhanh chân trốn chạy, không tới
nhà thờ trú ẩn, nên đều thoát chết. Sự đời thật oái oăm!
Hết đường Phan Bội Châu, chúng tôi đi vào đường Tam Thai (bên
trái đàn Nam Giao), sau đó men theo đường vòng đan viện Thiên An, xuôi về
lăng Khải Định (xin xem bản đồ). Từ con đường trước lăng Khải Định, VC dẫn
chúng tôi bọc phía sau trụ sở quận Nam Hòa (lúc đó chưa bị chiếm), ra đến bờ
sông Tả Trạch (thượng nguồn sông Hương). Chúng tôi lầm lũi bước đi trong
bóng tối, giữa trời mờ sương và giá lạnh, vừa buồn bã vừa hoang mang, tự hỏi
chẳng biết số phận mình rồi ra thế nào, tại sao VC lại tấn công vào đúng
ngày Xuân, giữa kỳ hưu chiến!?!
Tới bờ sông, VC cho chặt lồ ô (nứa) làm bè để tất cả đoàn người
vượt qua phía bên kia mà sau này tôi mới biết là khu vực lăng Gia Long,
thuộc vùng núi Tranh hay còn gọi là vùng núi Đình Môn Kim Ngọc. Lúc ấy vào
khoảng 9g tối. Từ đó, chúng tôi bắt đầu đi sâu vào rừng, lúc lên đồi, lúc
xuống lũng, lúc lội qua khe, lần theo con đường mòn mà thỉnh thoảng lại được
soi chiếu bằng những cây đèn pin hay vài ngọn đuốc của 30 tên bộ đội. Tôi
thoáng thấy tre nứa và cây cổ thụ dày đặc. Trời mưa lâm râm. Đến khoảng 11g
rưỡi đêm, chúng tôi được cho dừng lại để tạm nghỉ ăn uống. Tôi đoán chừng đã
đi được hơn chục cây số. Mỗi người được phát một vắt cơm muối mè, đựng trên
lá ráy (môn rừng). Hai cánh tay vẫn bị trói. Ít người ăn nổi. Riêng tôi làm
hai vắt.
Ăn xong thì được cho ngủ. Chúng tôi ngồi gục đầu dưới cơn mưa,
cố gắng chợp mắt để lấy lại sức. Bỗng nhiên như có linh tính, tôi chợt
choàng dậy và thấy rung động toàn thân hết sức dữ dội. Máu tôi sôi sùng sục
trong đầu. Có chuyện chẳng lành rồi đây! Quả thế, tôi thoáng nghe hai tên VC
gần kề nói nhỏ với nhau: “Trong vòng 15–20 phút nữa sẽ thủ tiêu hết bọn
này!” Tôi nghe mà bủn rủn cả người! Nghĩ mình đang là học sinh vô tội, lại
còn trẻ trung, thế mà 15 phút nữa sẽ bị giết chết, tôi như muốn điên lên. Dù
thế tôi vẫn cầu nguyện: “Lạy Chúa, từ lâu Chúa dạy con phải hiền lành thật
thà, không được làm hại ai, vậy mà giờ đây lại có người muốn giết con và các
bạn của con nữa. Xin Chúa ban cho con mưu trí, can đảm và sức mạnh để tự
giải thoát mình…”. Tôi ghé miệng vào tai thằng bạn bị trói ngay trước mặt:
“Tụi mình rán mở dây mà trốn đi! Mười lăm phút nữa là bọn hắn bắn chết hết
đó!”. Chúng tôi quặt ra tay sau, âm thầm lần múi dây trói. Nhờ trời vừa mưa
vừa tối, dây điện thoại lại trơn nên chỉ ít phút sau là nút buộc lỏng, vung
mạnh cánh tay là sẽ bung ra. Chúng tôi cũng mở múi buộc dây thép gai đang
nối mình với những người khác. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn giữ vị thế bị trói
thúc ké, để bọn VC khỏi nghi ngờ. Tôi dặn thằng bạn tiếp: “Hễ tao vỗ nhẹ sau
lưng là tụi mình chạy nghe!”
Đánh thức chúng tôi dậy xong, một tên lên tiếng nói lớn cho cả
đoàn:
- Chúng ta sắp đến trại học tập rồi. Vậy trong anh em ai có một
là vàng, hai là tiền, ba là đồng hồ, bốn là bật lửa thì nộp lại để Cách mạng
giữ cho, học xong 3 ngày sẽ trả. Kẻo vào trại, ăn cắp lẫn nhau rồi lại đổ
lỗi cho Cách mạng, nói xấu cán bộ!
Thế là mọi người riu ríu và khổ sở móc ra những thứ quý giá còn
giữ trong người. Ai chậm chạp hoặc ngần ngừ thì mấy tên bộ đội tới “giúp”
cho. Bọn chúng lột sạch và cho tất cả vào mấy cái ba lô vải. Lúc đó tôi mới
để ý thấy tay bộ đội áp giải chùm của tôi đang mang trên hai vai và cột
quanh lưng ít nhất cả chục cái radio lớn nhỏ mà chắc hắn đã cướp được của
dân dưới thành phố. Với khẩu AK trên tay lại thêm từng ấy máy móc trên
người, hắn bước đi lặc lè, chậm chạp, khá cách quãng mấy tên khác.
Chúng tôi lại bắt đầu đi xuống dốc. Tôi nghe có tiếng nước róc
rách gần kề. Lại một khe nữa! Được vài bước, tôi vỗ nhẹ vào lưng thằng bạn.
Cả hai chúng tôi vung tay, dây tuột, và nhanh nhẹn phóng ra khỏi hàng. Lấy
hết sức bình sinh, tôi đá mạnh vào gót rồi vào dưới cằm tên bộ đội áp giải
(tên mang cả chùm radio ấy!). Hắn ngã nhào. Hai chúng tôi lao vào rừng lồ ô.
Bọn VC tri hô lên: “Bắt! Bắt! Có mấy thằng trốn” rồi nổ súng đuổi theo chúng
tôi. Chạy khoảng mấy chục mét, thoáng thấy có một lèn đá -vì trời không đến
nỗi tối đen như mực- tôi kéo thằng bạn lòn vào trong mất dạng. Tôi dặn hắn:
“VC nó kêu, nó dụ, tuyệt đối không bao giờ ra nghe! Ra là chết!” Một lúc
sau, tôi nghe có tiếng nói trong bóng đêm: “Bọn chúng chạy mất rồi, nhưng
rừng sâu thế này khó mà thoát chết nổi! Thôi đi tiếp!!!”.
Khi nghe tiếng đoàn người đi khá xa, chúng tôi mới bò ra khỏi
lèn, đi ngược lên theo hướng đối nghịch. Chừng 15-20 phút sau, tôi bỗng nghe
từ phía dưới vọng lên tiếng súng AK nổ vang rền và lựu đạn nổ tới tấp, phải
mấy chục băng và mấy chục quả. Một góc rừng rực sáng! Chen vào đó là tiếng
khóc la khủng khiếp –chẳng hiểu sao vọng tới tai chúng tôi rõ ràng- khiến
tôi dựng tóc gáy, nổi da gà và chẳng bao giờ quên được. Hai chúng tôi đồng
nấc lên: “Rứa là chết cả rồi! Rứa là chết cả rồi! Trời ơi!!!” Lúc đó khoảng
12 đến 12g30 khuya đêm mồng 7 rạng ngày mồng 8 Tết. Tôi bàng hoàng bủn rủn.
Sao lại như thế? Các bạn tôi dưới ấy đều là những người hiền lành, chưa lúc
nào cầm súng, chưa một ngày ra trận, chẳng hề làm hại ai, họ có tội tình gì?
Bọn chúng có còn là người Việt Nam nữa không? Có còn là người nữa không? Sau
này tôi mới biết đấy là vụ thảm sát khủng khiếp nhất trong cuộc chiến
Quốc-Cộng. Địa danh Khe Đá Mài –mà lúc ấy tôi chưa rõ- in hằn vào lịch sử
nhân loại và cứa vào da thịt dân tộc như một lưỡi dao sắc không bao giờ cùn
và một thỏi sắt nung đỏ chẳng bao giờ nguội.
Chúng tôi tiếp tục chạy, chạy mãi, bất chấp lau lách, gai góc,
bụi bờ, vừa chạy vừa thầm cảm tạ Chúa đã cho mình thoát chết trong gang tấc
nhưng cũng thầm cầu nguyện cho những người bạn xấu số vừa mới bị hành quyết
quá oan ức, đau đớn, thê thảm. Sáng ra thì chúng tôi gặp lại con sông. Biết
rằng bơi qua ngay có thể gặp bọn VC rình chờ bắt lại, chúng tôi men theo
sông, ngược lên thượng nguồn cả mấy cây số, đến vùng Lương Miêu thượng. Tới
chỗ vắng, tôi hỏi thằng bạn:
- Mày biết bơi không?
- Không!
- Tao thì biết. Thôi thì hai đứa mình kiếm hai cây chuối. Mày ôm
một cây xuống nước trước, tao ôm một cây bơi sau, đẩy mầy qua sông. Rán ôm
thật chặt, thả tay là chìm, là chết đó. Trời lạnh này tao không lặn xuống
cứu mày được mô!
Đúng là hôm đó trời mù sương và lạnh buốt. Thời tiết ấy kéo dài
cả tháng Tết tại Huế. Có vẻ như Ông Trời bày tỏ niềm sầu khổ xót thương bao
nạn nhân vô tội ở đất Thần Kinh này. Vừa bơi tôi vừa miên man nghĩ tới các
bạn tôi. Máu của họ có xuôi theo triền dốc, hòa vào giòng nước sông Tả trạch
này chăng? Oan hồn họ giờ đây lảng vảng nơi nào? Có ai còn sống không nhỉ?
Chúng tôi cập gần bến đò Lương Miêu. Từ đây, xuôi dòng sẽ về trụ
sở quận Nam Hòa, hy vọng gặp binh lính quốc gia, nhưng cũng có nguy cơ gặp
bọn VC chặn đường bắt lại. Thành thử chúng tôi nhắm hướng bắc, tìm đường về
Phú Bài. Thằng bạn tôi, do suốt đêm bị gai góc trầy xước, đề nghị đi trên
đường quang cho thoải mái. Tôi gạt ngay:
- Ban đêm thì được, chớ ban ngày thì nguy lắm. Chịu khó lần theo
đường mòn!
Chúng tôi thấy máu và bông băng rơi vãi nhiều nơi, chứng tỏ có
trận đánh gần đâu đó. Đang đi, tôi đột nhiên hỏi thằng bạn:
- Chừ (=bây giờ) gặp dân thì mày trả lời ra răng (=thế nào), nói
tao nghe.
- Nhờ anh chứ tôi thì chịu!
Lúc khoảng 9g, chúng tôi gặp 3 thằng bé chăn trâu. Tôi lên tiếng
nói:
- Hai anh là học sinh ở đường Trần Hưng Đạo dưới phố (con đường
chính của khu buôn bán, không nói là Phủ Cam). Cách mạng (không gọi là Việt
cộng) số về đánh dưới, số còn trên ni. Hai anh vừa mang gạo lên chiến khu
hôm qua cho họ. Nay họ cho hai anh về, nhưng ướt cả áo quần lại đói nữa. Mấy
em biết Cách mạng có ở gần đây không, chỉ cho hai anh, để hai anh kiếm chút
cơm ăn, kẻo đói lạnh quá!
- Hai anh qua khỏi đường này thì sẽ thấy mấy ông Cách mạng đang
hạ trâu ăn mừng!
Thế là chúng tôi hoảng hốt tuôn vào rừng lại. Chạy và chạy, chạy
tốc lực, chạy như điên, không dừng lại để nghỉ. Một đỗi xa, chúng tôi mới
hướng ra lại đồng bằng. Bỗng một đồn lính xuất hiện đằng xa, đến gần thấy
bên trong lố nhố mũ sắt. Phe ta rồi! Lần này thì vô đây chứ không đi mô nữa
cả. Nhất định vô! Lúc đó khoảng 10 giờ trưa. Đây là đồn biên phòng của một
đơn vị quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi nghe từ trong đồn có tiếng dõng
dạc vang vọng: “Hai thằng VC muốn về hồi chánh hả? Vào đi! Nhớ để tay lên
đầu. Thả tay xuống là bắn đó!”
Chúng tôi nhất nhất tuân theo. Vào được bên trong, hoàn hồn,
chúng tôi mới nói:
- Hai đứa em là học sinh ở dưới Phủ Cam, Phước Quả, bị VC bắt
lên rừng từ tối hôm qua với mấy trăm người khác. Nghe tụi nó định giết hết,
hai đứa em đã liều mở dây trói, đánh thằng VC rồi bỏ chạy. Còn mấy người kia
chắc là chết hết cả rồi! Giờ tụi em chỉ có một nguyện vọng : xin đồn phát
súng cho bọn em đánh giặc với, chớ không thể đi ra khỏi đồn nữa.
Viên sĩ quan chỉ huy cất tiếng: “Tổ quốc đang lâm nguy! Đứa con
nào trung, đứa con nào hiếu lúc này là biết liền. Thôi, mấy em thay áo quần,
xức thuốc xức men, ăn uống thoải mái rồi ở lại với mấy anh. Tội nghiệp!!!”
Họ hỏi chúng tôi về chỗ xảy ra cuộc hành hình nhưng chúng tôi
hoàn toàn không thể trả lời được. Giữa rừng rậm lại đêm khuya, biết đâu mà
lần. Gần nửa tháng sau tôi mới gặp lại gia đình họ hàng, bằng hữu thuộc giáo
xứ Phủ Cam đang chạy về lánh nạn tại Phú Lương và Phú Bài. Hai chúng tôi
quyết định bỏ học để đăng lính. Phải cầm súng bảo vệ tổ quốc thôi. Phải báo
thù cho anh em bạn bè bị VC giết quá ư dã man, tàn ác, vô nhân đạo. Tôi nhập
bộ binh. Thằng bạn tôi đi nhảy dù. Nhưng vài năm sau, tôi nghe tin nó chết
trận! Tội nghiệp thật, nhưng đó là cái chết ý nghĩa!
Đến gần tháng mười năm 1969, nhờ bắt được và khai thác mấy tù
binh VC, chính phủ VNCH mới biết địa điểm tội ác chính là Khe Đá Mài, nằm
trong rừng Đình Môn Kim Ngọc thuộc quận Nam Hòa (nay là xã Dương Hòa, quận
Hương Thủy). Nơi đây không thể vào được bằng xe vì đường đi không có hoặc
không thể đi lọt, mà chỉ vào được bằng lội bộ. Cây cối chỗ này rất cao, lá
dày và mọc theo kiểu hai tầng, tầng thấp gồm những bụi tre và cây nhỏ, tầng
cao gồm những cây cổ thụ, với những nhánh lớn xoè ra như lọng dù che khuất
đi những gì bên dưới. Bên dưới hai tầng lá này, ánh sánh mặt trời không
chiếu sáng nổi. Đúng là nơi có thể giết người mà không cần phải chôn cất.
Công binh đã phải bỏ hai ngày, dùng mìn phá ngã các cây cổ thụ để tạo ra một
khoảng trống lớn đủ cho máy bay trực thăng đáp xuống, và tiểu đoàn 101 Nhảy
Dù Quân lực VNCH đã phụ trách việc bốc các di hài nạn nhân. Các binh sĩ đã
tìm thấy cuối một khe nước chảy trong veo (về sau mang thêm tên Suối Máu,
Phủ Cam Tử bộ), cả một núi hài cốt, nào sọ, nào xương sườn, nào xương tay
xương chân trắng hếu, nằm rời rạc, nhưng cũng có những bộ còn khá nguyên.
Xen vào đó là dây điện thoại và dây thép gai vốn đã trói chúng tôi thành
chùm. Rồi áo quần (vải có, da có, len có) nguyên chiếc hay từng mảnh, lỗ chỗ
vết thủng. Rồi tràng chuỗi, tượng ảnh, chứng minh thư, ống hít mũi, lọ dầu
nóng… vương vãi trên bờ, giữa cỏ, dưới nước. Nhờ những di vật này mà một số
nạn nhân sẽ được nhận diện. Khi tất cả hài cốt, di vật được chở về trường
tiểu học Nam Hòa (nay gọi là Thủy Bằng) bên hữu ngạn sông Hương, đem phân
loại, thân nhân đã ùa đến và không ai cầm nổi nước mắt. Tất cả òa khóc,
nghẹn ngào. Có người cầu nguyện, có người nguyền rủa, có người lăn ra ngất
xỉu khi khám phá vật dụng của người thân. Cái chủ nghĩa nào, cái chế độ nào,
cái chính đảng nào đã chủ trương dã man như thế? đã tạo ra những con người
giết đồng bào ruột thịt cách tàn nhẫn như thế?
Cuối cùng, đa phần các hài cốt (hơn 400 bộ) được quy tập một
chỗ, mang tên nghĩa trang Ba Tầng, nằm phía Nam thành phố Huế, khá cận kề
khu vực Từ Đàm (đất của Phật giáo) và Phủ Cam (đất của Công giáo). Nghĩa
trang xây thành hình bán nguyệt. Hai bên, phía trước, có hai bàn thờ che
mái, cho tín đồ Phật giáo và Công giáo đến cầu nguyện. Ở giữa, phía sau, một
trụ đá dựng đứng với giòng chữ Hán làm bia tưởng niệm. Từ đó, tại giáo xứ
Phủ Cam của tôi, hàng năm, ngày mồng 10 Tết được coi là ngày cầu nguyện
tưởng nhớ các nạn nhân Mậu Thân. Chúng tôi có thể tha thứ cho người Cộng sản
nhưng chúng tôi không bao giờ quên được tội ác của họ, y như một câu ngạn
ngữ tiếng Anh: “Forgive yes! Forget no!”
Tiếc thay, sau khi vừa chiếm được miền Nam, Cộng sản đã dùng mìn
phá ngay trụ bia và hai bàn thờ. Lại thêm một phát súng vào hương hồn các
nạn nhân mà nỗi oan vẫn chưa được giải. Đến bao giờ họ mới được siêu thoát
đây? Cũng phải nói thêm một điều đáng tiếc nữa là trong Đại hội thường niên
từ 8 đến 12-10-2007 năm nay tại Hà Nội, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã hoàn
toàn im lặng trước đề nghị Giáo hội Công giáo VN hãy tưởng niệm 40 năm biến
cố này, theo như Thỉnh nguyện thư mà cha Giải, cha Lợi cùng nhiều linh mục
và giáo dân khác đã viết hôm 29-09-2007.
Kể lại cho hai cha Nguyễn Hữu Giải và Phan Văn Lợi trong
tháng kính các đẳng linh hồn,
Tháng 11-2007