NẾU
VIỆT CỘNG CHỌN HOA KỲ LÀ ĐỒNG MINH. TRUNG CỘNG CÓ TÁI DỤNG ĐỐI SÁCH
1979?
Sau
chuyến đi Hoa kỳ của Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú
Trọng diễn ra từ ngày 7 đến 10-7-2015 vừa qua, có dự đoán lạc quan rằng
Việt cộng có thể chấm dứt chính sách ngoại giao đi dây bao lâu nay, dứt
khoát chọn Hoa Kỳ là đồng minh, không phải để dương đầu với các đồng
chí Trung quốc, mà chỉ cốt tìm một thế dựa để được bảo vệ trước việc
nước này ỷ mạnh lấn yếu, ngày càng có hành động trắng trợn lấn chiếm chủ
quyền biển đảo của Việt Nam, coi thường công luận và luật pháp quốc tế.
Một
câu hỏi được nhiều người đặt ra là, nếu dự đoán trên xẩy ra trên thực
tế, liệu Trung Cộng có lập lại đối sách năm 1979 khi Việt cộng ngả theo
Liên Xô? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi lần lượt trình bầy:
- Đối
sách với Việt Nam năm
1979 của Trung Quốc.
- Trung Quốc có lập lại đối sách năm 1979 với Việt Nam ?
- Kết
luận.
I/- ĐỐI
SÁCH VỚI VIỆT NAM NĂM
1979 CỦA TRUNG QUỐC.
Theo
nhận định của chúng tôi, sau khi Việt cộng ngả theo Liên Xô, đối sách
năm 1979 của Trung quốc có mục đích trừng phạt và khuất phục Việt Nam
bằng cách gây khó khăn nghiêm trọng, toàn diện vế đối nội cũng như đối
ngoại cho Việt Nam . Để thành đạt mục đích này, Trung cộng đã tiến hành
các biện pháp tấn công quân sự , phá hoại kinh tế, gây bất ổn chính trị
và cô lập Việt Nam trên trường quốc tế hầu dễ bề ỷ thế nước lớn mạnh
“bắt nạt” một nước láng giềng nhỏ yếu như Việt Nam.
Thật
vậy, như mọi người đã biết, trong thời kỳ chiến tranh ý thức hệ giữa
cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, cuộc tranh chấp quyền lãnh đạo
phe xã hội chủ nghĩa giữa Liên Xô và Trung Cộng đã đến mức phân hai khối
cộng sản, một số nước theo Liên Xô, một số nước theo Trung cộng. Việt
Nam trong thời kỳ này, đất nước bị chia đôi theo Hiệp Định Geneve 1954,
Việt cộng thống trị Miền Bắc đang làm công cụ mũi nhọn tấn công mở mang
bờ cõi cho đế quốc cộng sản quốc tế, đã phát động và tiến hành cuộc
chiến tranh nhuộm đỏ Miền Nam Việt Nam thuộc chính quyền quốc gia, được
Hoa kỳ và các nước đồng minh phe tư bản chủ nghĩa yểm trợ như một công
cụ ngăn chặn, đẩy lùi cuộc xâm lăng của cộng sản Bắc Việt. Vì nhu cầu
chiến tranh cần sự yểm trợ vũ khí, lương thực của cả Liên Xô và Trung
cộng, nên nội bộ Việt cộng lúc đó dù có mâu thuẫn giữa hai khuynh hướng
thân Nga và thân Tầu, song vẫn cố giữ thế trung lập. Nhưng sau khi cuộc
nội chiến Quốc-Cộng chấm dứt vào ngày 30-4-1975, đã đến lúc Hà nội phải
dứt khoát chọn Mạc Tư Khoa hay Bắc Kinh và khuynh hướng thân Nga đã
thắng thế nên đã chọn Liên Xô là “Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa” của mình.
Giận kẻ bạc tình, vong ơn bội nghĩa (do Trung cộng đã tài trợ cho Việt
cộng ¾ chi phí trong chiến tranh), Trung cộng đã sử dụng lá bài Kapuchia
để dẫn vào một đối sách trừng phạt kẻ “tham phú” (vì Việt Nam đã chọn
Liên Xô giầu mạnh hơn), phụ bần (bỏ Trung cộng lúc đó nghèo yếu hơn Liên
Xô). Đối sách này gồm ba mũi giáp công.
1.-Mũi nhọn thứ nhất, Trung cộng đã sử dụng chính quyền công cụ Pol Pot
và Ieng Sary ở Kampuchia mở các cuộc tiến công quân sự quấy phá biên
giới Tây Nam, đánh chiếm vài đảo nhỏ của Việt Nam, kích động lòng hận
thù dân tộc…Mục đích của mũi nhọn này như nhằm chọc giận Việt cộng để dụ
“kẻ phản bội” vào thế sa lầy ở Kapuchia. Hà Nội đã mắc mưu, sau ba năm
chịu đựng sự quấy phá quân sự, với những tổn thất nhân lực, tài lực đáng
kể, Việt cộng đã không còn kìm chế được nữa, nên đã kéo đại binh chính
phạt Pot-Pot vào mùa xuân năm 1979.
Trong
vòng không đầy một tháng tiến công, quân đội nhân dân Việt Nam đã “giải
phóng” được đất nước Chùa Tháp khỏi nạn diệt chủng vào ngày 7-1-1979,
trước sự kháng cự yếu ớt đáng ngạc nhiên của quân Khmer Đỏ. Mặc dầu Hà
Nội cố giải thích hành động này như là làm theo yêu cầu của “chính phủ
Cộng Hòa Nhân Campuchia” (với chính quyền Heng Samring do Hà Nội dựng
lên) để cứu nhân dân nước này khỏi họa diệt chủng Khmer Đỏ. Thế nhưng
nói gì thì nói, hành động kéo quân chiếm đóng Kampuchia của CSBV lúc đó
đã bị cả thế giới lên án là kẻ xâm lược. Chế độ Hà Nội bị cô lập về
chính trị, ngoại giao và bị bao vây kinh tế bởi chính sách cấm vận của
Hoa Kỳ được hầu hết các nước tư bản tham gia. Liên Xô và các nước XHCN
Đông Âu lệ thuộc Mạc Tư Khoa thì đang có nhiều khó khăn nội bộ, lại
không có lợi ích gì nên chỉ biết đứng nhìn Trung cộng tự tung tự tác
đưa Việt cộng vào cái bẫy mà Trung cộng gài cho Việt cộng sa vào. Vì
Trung cộng đã cho công cụ của mình tháo chậy mà không kháng cự theo kiểu
“Di tản chiến thuật” của Quân lực VNCH trước đây, bỏ ngỏ Pnom Penh như
VNCH bỏ ngỏ các thành phố ở Nam Việt Nam cho Việt cộng tiến vào tiếp
thu.
Thế
nhưng, Việt cộng tiến vào Kampuchia thì dễ, rút ra khó, vì đây là “trận
địa vũng lầy” được Trung cộng chuẩn bị cho Việt cộng sa vào chỉ có lún
sâu không thể rút ra. Đây quả là ý đồ thâm độc của Trung cộng, vì nếu
không họ đã phải có hành động khác hơn là kéo quân vào cứu nguy công cụ
Pon Pot, điều mà Trung cộng có thể làm được như đã từng làm trong cuộc
chiến tranh Triều Tiên (1950-1953). Ý đồ thâm độc của Trung cộng chính
là để cho Việt cộng phải ngã sấp mặt vào vũng lẫy Kampuchia và cũng muốn
kéo Liên Xô vào cuộc. Vì từ đây Việt cộng đã phải ôm lấy chiến trường
Kampuchia và thực tế đã phải chịu đựng một cuộc chiến tranh hao người
tốn của kéo dài hàng chục năm như mọi người đã biết (1979-1991)
2.-Mũi nhọn thứ hai là sau khi gài thế chôn chặt hai chân Việt cộng vào
vũng lầy chiến tranh trường kỳ ở Kampuchia và những khó khăn chồng
chất hậu chiến, Trung cộng đã mở cuộc đại tấn công quân sự tràn qua
biên giới phía Bắc Việt Nam gọi là để “dậy cho Việt Nam một bài học”.
Theo
tài liệu tố cáo của Việt cộng, trong trận chiến này,Trung cộng đã huy
động tới 600.000 quân, với 800 xe tăng và xe bọc thép, hàng ngàn trọng
pháo, hàng trăm máy bay đủ loại, đồng loạt mở cuộc tấn công trên toàn
biên giới phía Bắc Việt Nam dài khoảng 1000 km. Đặng Tiểu Bình, lãnh tụ
cải cách hàng đầu của Trung cộng (tác giả câu nói phản ý thức hệ cộng
sản “Mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là mèo bắt được
chuột”) lúc đó gọi hành động quân sự này là để “dậy cho Việt Nam một bài
học”. Trên thực tế, Trung cộng đã tự rút về, sau một tháng tấn công,
chiếm đóng sáu tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam (Từ 17-2 đến 18-3-1979),
triệt phá các cơ sở chính quyền, kinh tế của Việt Nam, tàn sát nhiều
người, phá trụi bốn thị xã Lào Cai, Cẩm Đường, Cao Bằng, Lạng Sơn…
Nhận
định về hành vi quân sự của Trung cộng ngang nhiên đánh chiếm một vùng
lãnh thổ của một quốc gia láng giềng là Việt Nam, cũng là hội viên Liên
Hiệp Quốc, vi phạm Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và công pháp quốc tế, đúng
ra phải bị cộng đồng thế giới lên án quyết liệt và Hội Đồng Bảo An Liên
Hiệp Quốc phải có biện pháp tức thời đối với hành động xâm lăng trắng
trợn này của một nước lớn đối với một nước nhỏ. Thế nhưng cộng đồng thế
giới, ngay cả Liên Hiệp Quốc lúc đó cũng chỉ có phản ứng chiếu lệ. Ngay
cả Liên Xô lúc đó cũng không dám ra mặt bênh đỡ và không có hành động
quyết liệt nào để cứu nguy Việt cộng, dù biết rằng đây là hậu quả của
lòng trung thành khi Hà Nội tuyên xưng nhận Moscow là “Tổ quốc xã hôi
chủ nghĩa” của mình (Vì lúc đó nội tình Liên Xô đang gặp nhiều nguy cơ
phải giải quyết và không thấy có lợi ích gì phải ra mặt bênh đỡ, có
chăng là ngầm chi viện cho một số vũ khí tồn đọng).
3.-
Ngoài hai mũi nhọn trên, Trung cộng còn tung mũi nhọn tấn công trên lãnh
vực kinh tế và chính trị của Việt cộng.
Về
kinh tế, ngay sau khi Hà Nội nghiêng hẳn về Mạc Tư Khoa (Moscow), lập
tức Bắc Kinh đòi nợ khẩn cấp, cắt hết viện trợ hậu chiến, ngưng ngang
các công trình đang xây dựng và rút hết chuyên gia về nước. Đồng thời
cắt đứt đường vận chuyển qua đường sắt Vân Nam-Hà Nội, vốn là con đường
vận tải đường bộ duy nhất lúc bấy giờ để Liên- Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa giao lưu hàng hóa với Việt cộng; khó khăn là từ nay Hà
Nội chỉ còn đường biển để giao thương với bên ngoài.Hệ quả là nhân dân
cả nước ăn “bobo” (thực phẩm dành cho súc vật do Liên Xô chi viện), trừ
giai cấp cán bộ đảng viên có chức có quyền và dân giả giấu có.Về chính
trị, mũi nhọn Trung cộng tấn công Việt cộng vào thời điểm này là vụ “Nạn
kiều” vào năm 1978, nhằm gây xáo trộn chính trị, kinh tế, gây bất ổn xã
hội cho chế độ Việt cộng…
II/-
TRUNG QUỐC CÓ LẬP LẠI ĐỐI SÁCH NĂM 1979 VỚI VIỆTNAM ?
Quá
khứ là vậy, còn hiện tại và tương lai thì sao?
Theo
nhận định của chúng tôi, câu trả lời tổng quát là: Trung cộng ngày
nay sẽ không giám sử dụng lại đối sách trên đây đối với Việt Nam, một
khi thực tế Hà nội chọn Hoa Kỳ là đồng minh, để thoát khỏi sự kìm kẹp
trấn áp bao lâu nay của các đồng chí Bắc Kinh đầy tham vọng bá quyền,
xâm lăng các nước nhỏ yếu trong vùng, trong đó có Việt Nam. Vì sao?
Là vì
vị thế và tình hình Việt Nam trong
tương quan với cộng đồng các quốc gia trên thế giới ngày nay so với 36
năm trước đây (1979-2015) đã khác xa. Chiến lược toàn cầu hay là nền
trật tự quôc tế mới hay là một hệ thống kinh tế quốc tế mới đã được các
cường quốc xác lập từ lâu, trong đó có sự tham gia của cả cường quốc
Trung cộng và Việt Nam cũng đã và đang đi vào nền trật tự ấy. Hơn ai
hết, ngày nay Trung Quốc phải hiểu là mình không còn có thể tự tung tự
tác muốn làm gì thì làm mà không gánh hậu quả nghiệm trọng về chính trị,
kinh tế và ngoại giao. Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ và các cường quốc tư bản
sẽ không đứng nhìn Trung quốc tự tung tự tác như thới khoảng năm 1979.
Vì
vậy có thể nhận định rằng, cả ba mũi giáp công của đối sách năm 1979,
Trung cộng sẽ không thể tái dụng được để gọi là “dạy cho Việt Nam một
bài học” một khi Việt Nam chọn Hoa kỳ là đồng minh.
1.-
Thực tế Trung cộng sẽ không thúc đẩy đến cuộc chiến tranh giữa hai nước
Việt Nam-Kapuchia để có cớ trừng phạt Việt Nam, mặc dầu có những dấu
hiệu khơi mào tương tự đưa Việt cộng đến cuộc chiến tranh chinh phạt
Kampuchia vào năm 1979 ; và mặc dầu có những tin đồn đoán đôi bên có sự
chuyển quân về phía biên giới. Nếu có bàn tay xúi dục gây xung đột biên
giới Việt-Miên của Trung Quốc thì chỉ có ý nghĩa phụ họa với những lời
hù dọa quân sự quen thuộc lâu nay qua các cơ quan truyền thông không
chính thức của Bắc Kinh mà thôi.
Dấu
hiệu khơi mào đầu tiên trước chuyến đi Hoa Kỳ của Tổng Bí Thư đảng CSVN
là việc Kampuchia đã chủ động khơi lại vấn đề tranh chấp biên giới với
Việt Nam xẩy ra vào ngày 28-6-2015 và những hành động tiếp theo vào
những ngày sau đó trên vùng biên giới giáp ranh tỉnh Svay Rieng của
Campuchia và tỉnh Long An của Việt Nam.
Dấu
hiệu tiếp theo xẩy ra một ngày sau chuyến đi Hoa Kỳ của Tổng Bí Thư đảng
CSVN là một phái đoàn gồm 23 quan chức quân sự và an ninh cấp cao do Bộ
trưởng Quốc phòng Campuchia Tea Banh dẫn đầu khởi sự chuyến đi 5 ngày
tới Bắc Kinh hôm 8 tháng 7. Tạp chí mạng Diplomat hôm 13-7-2015 đăng bài
viết của ông Prashanth Parameswaran, chủ biên của tạp chí này, tường
thuật rằng Trung Quốc không nói gì nhiều về tin này trong khi Bộ trưởng
Quốc phòng Campuchia Tea Banh nói rằng chuyến thăm nằm trong khuôn khổ
một cuộc ‘trao đổi thường niên’. Nhưng tác giả bài viết lưu ý rằng tham
gia chuyến đi có các Tư Lệnh của cả 3 quân chủng thuộc Quân đội Hoàng
gia Campuchia, và Tư Lệnh Quân Cảnh Quốc gia. Nhà báo này nói sự hiện
diện của các quan chức quân sự cấp cao nhất của Campuchia nói lên tầm
quan trọng của chuyến đi, bất chấp lời phát biểu của ông Tea Banh, cố
làm giảm tầm quan trọng của chuyến đi. Chuyến đi cũng diễn ra chỉ vài
ngày sau các cuộc xung đột biên giới giữa Campuchia và Việt Nam vào
cuối tháng 6.
Thế
nhưng trên thực tế, cũng có những dấu hiệu cho thấy những xung đột lẻ
tẻ ở biên giới Việt-Miên sẽ không dẫn đến chiến tranh giữa hai nước như
năm 1979. Nhà chức trách hai nước đã tức thời gặp nhau và khẳng định
tiếp tục giải quyết vấn đề biên giới thông qua thương lượng, căn cứ trên
bản đồ lịch sử và luật pháp quốc tế. Chính Thủ Tướng Kampuchia Hunsen
cũng đã cho hay là Ông đã yêu cầu các chính phủ Pháp, Anh, Hoa Kỳ cung
cấp cho các bản đồ ổn cố từ thời Đông Dương thuộc Pháp làm căn cứ để xác
định biên giới hai nước, mà ông tin văn khố các nước này hiện còn lưu
trữ.
2.-
Mặc dầu có nhưng sự đồn đoán về sự chuyển quân về phía biến giói Việt-
Trung, song Trung cộng sẽ không giám ngang nhiên tấn công quân sự gọi là
để “dậy cho Việt Nam một bài học” như năm 1979, nếu nay Việt Nam ngả
theo Hoa Kỳ. Vì Hoa Kỳ hiện nay khác Liên Xô trong quá khứ. Hoa Kỳ sẽ
không đứng nhìn Trung cộng tự tung tự tác như Liên Xô trước đây. Vì Hoa
Kỳ không phải là “Con Cọp giấy” như Trung cộng thường rêu rao trước đây,
mà là “Con Cọp thật” đã và đang thể hiện sức mạnh thực sự của một mãnh
hổ, vượt trội Trung quốc về quân sự cũng như nhiều mặt khác, để nếu xẩy
ra bất cứ xung đột quân sự nào, ưu thế vẫn nghiêng về phía Hoa Kỳ.
Vì
vậy, Hoa Kỳ đã khộng ngần ngại công khai lên án mạnh mẽ hành động xâm
lấn Biển Đông, lấn áp các nước nhỏ yếu trong vùng trong đó có Việt Nam
của Trung Quốc và khẳng định nhiều lần, rằng Hoa Kỳ có quyền lợi quốc
gia trong vùng Biển Đông phải bảo vệ. Hoa Kỳ không chỉ công khai lên
tiếng bầy tỏ quyết tâm mà còn đi kèm các hành động chuẩn bị quân sự cần
thiết, chủ động, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống. Đồng thời, cũng
công khai bằng lời nói và hành động cho Trung cộng ngầm hiểu rằng Hoa Kỳ
vì quyền lợi thiết thân, công lý, ổn định khu vực và hòa bình thế giới,
sẽ sẵn sàng can thiệp, bảo vệ các quốc gia trong vùng, trong đó có Việt
Nam, trước ý đồ xâm thực và tham vọng độc chiếm biển đông của Bắc Kinh.
Dường
như Trung cộng cũng hiểu được ý chí, quyết tâm và hành động thực sự của
Hoa Kỳ lần này không thể coi thường. Vì vậy đã có dấu hiệu một sự xoa
dịu tình hình. Một điển hình là ngay sau chuyến đi Hoa Kỳ của Tổng Bí
Thư đảng CSVN, Phó Thủ Tướng Trung quốc đã tới thăm Việt Nam trong ba
ngày (16 đến 19-7-2015). Theo Tân Hoa Xã, Phó Thủ tướng Trung
Quốc Trương Cao Lệ đã hội kiến với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang và Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng. Trong cưộc gặp
Ông Sang, Phó Thủ Tướng Trung Quốc nói rằng mối quan hệ truyền thống, do
hai lãnh đạo của hai nước là Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh từng nuôi
dưỡng, là “một tài sản quý giá của hai đảng và nhân dân hai nước”. Phó
Thủ tướng Trung Quốc cũng được trích lời nói thêm rằng vì “quyền lợi cơ
bản của hai nước, cần phải thắt chặt mối quan hệ truyền thống này”. Bản
tin của Tân Hoa Xã không đề cập tới vấn đề tranh chấp biển Đông.
Tuy
nhiên, báo chí Việt Nam cho hay, trong cuộc gặp với ông Trương, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị hai bên “tuân thủ các thỏa thuận và nhận
thức chung quan trọng của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước về những
bất đồng trên biển và sớm cùng các nước ASEAN hoàn tất xây dựng Bộ Quy
tắc ứng xử ở Biển Đông (COC)”.
Trong
các bức ảnh được truyền thông quốc tế đăng tải, các nhà lãnh đạo Việt
Nam cười tươi khi đón tiếp quan chức từ nước láng giềng phương Bắc, trái
ngược hẳn khi lãnh đạo đôi bên gặp nhau hồi năm ngoái, khi Trung Quốc
đưa giàn khoan dầu gây tranh cãi vào vùng biển mà Hà Nội nói là thềm lục
địa của mình.
Về sự
thân mật giữa Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và ông Trương, một bản tin
của Channel NewsAsia có tựa: “Cái ôm chặt của tình anh em Việt – Trung
sau chuyến đi Mỹ lịch sử” đã đưa ra nhận xét, rằng chuyến đi của Phó Thủ
tướng Trung Quốc diễn ra nhanh chóng ngay sau khi ông Trọng kết thúc
chuyến thăm Hoa Kỳ, là dấu hiệu cho thấy Mỹ đang tăng cường nỗ lực củng
cố quan hệ với nước cựu thù có mối quan hệ gần gũi nhưng đầy sóng gió
với Trung Quốc.
Các
chuyên gia cho rằng điều đó đang đẩy Việt Nam vào thế tranh giành ảnh
hưởng giữa Bắc Kinh và Washington.
3.-
Ngoài hai mũi nhọn trên của đối sách năm 1979 không giám tái sử dụng,
Trung cộng có thể tung mũi nhọn tấn công trên lãnh vực kinh tế và chính
trị của Việt cộng ?
Vì
kinh tế Việt Nam hiện nay lệ thuộc kinh tế Trung quốc khá nhiều mặt,
nhưng nếu Bắc Kinh đã chọn đối sách hòa dịu, sẽ không sử dụng mũi nhọn
này tấn công Việt Nam. Nếu có sử dụng đi nữa cũng không gây khó khăn
nhiều cho Việt Nam như
năm 1979. Vì nền kinh tế Việt Nam khác
xưa, không còn bị bế môn tỏa cảng (do chế độ kinh tế chỉ huy, bị cấm
vận) , mà nay kinh tế đã vững mạnh nhờ mở rộng làm ăn theo kinh tế thị
trường. Nếu Trung quốc gây khó khăn về kinh tế, Việt Nam sẽ
vượt qua, nhờ sự trợ giúp của Hoa Kỳ và các nước tư bản có đầu tư tại
Việt Nam .
Về
chính trị, Trung quốc cũng khó tạo biến cố gây bất ổn chính trị cho ViệtNam .
Vì một khi chọn Mỹ và các cường quốc tư bản là đồng minh, thoát khỏi sự
kềm kẹp của Trung cộng, chế độ sẽ tạo được sức hậu thuẫn mạnh mẽ của
toàn dân, tình hình chính trị sẽ ổn định và ngày một củng cố, sẽ vô hiệu
hóa mọi thủ đoạn của Trung cộng nhằm phân hóa nội bộ, gây bất ổn chính
trị và xáo trộn xã hội Việt Nam.
III/-
KẾT LUẬN:
Tóm
lại, theo nhận định của chúng tôi, nếu Việt cộng chọn Hoa kỳ là đồng
minh, Trung cộng sẽ không thể thực hiện đối sách năm 1979 với Việt Nam,
sau khi Việt cộng ngả theo Liên Xô. Vì tình hình Việt Nam và
cục diện thế giới đã thay đổi. Tư thế và nội lực Hoa Kỳ ngày nay khác tư
thế và nội lực Liên Xô ngày xưa. Trung cộng chắc cũng đã hiểu rõ điều đó
và có đủ khôn ngoan để có một đối sách khác hơn năm 1979 đối với Việt
Nam vì quyền lợi thiết thân của mình.
Nếu
các nhà lãnh đạo đảng và nước Việt Nam hiện nay không chọn Hòa Kỳ là
đồng minh, thì sẽ mất cơ hội vô tiền khoáng hậu để thoát khỏi sự kềm kẹp
bao lâu nay của Trung cộng, để cứu nước và cứu chính đảng CSVN, họa mất
nước chỉ còn là vấn đề thời gian. Đảng CSVN sẽ phải hoàn toàn chịu trách
nhiệm trước quốc dân và lịch sử Việt Nam mai hậu./.
Thiện Ý