ƠN GỌI NHÂN BẢN
Bài viết nhân dịp kỷ niệm 30/4:
"Này em có
nghe mênh mông đất trời
Tiếng chim
lẻ bạn
đi tìm
người thương"
Cuộc đời mỗi con người ai cũng có những lúc thăng trầm, biến đổi; tôi cũng không
ra ngoài quy luật ấy. Nhưng mỗi lần ôn lại dĩ vãng thì đoạn đời gian khổ đã gây
cho tôi ấn tượng mạnh mẽ nhất vẫn là đoạn đời những năm sau 1975, khi mà đất
nước bị lật sang một trang sử đau thương.
Tôi còn nhớ như in đầu tháng 4/1975, tôi và ông xã chạy di tản từ Nha Trang về
Sài Gòn. Khi vừa chạy ra tới chợ Đầm, chúng tôi bị ba đào binh (vừa phá tù thoát
ra) dùng súng chặn lại, lục soát và cướp đoạt tất cả tiền bạc, tư trang, quần áo
chúng tôi mang theo trong valy và cả trong người. Do đó khi di tản về tới Sài
Gòn, chúng tôi chỉ còn trên mình mỗi người một bộ đồ cũ (mặc giả dạng để khỏi bị
cướp, nhưng cũng không thoát), may là tôi đã lo gửi con trai nhỏ cho bạn dạy
cùng trường đi máy bay đem về Saigon với Ngoại từ trước.
Sau đó chồng tôi lên đường đi học tập cải tạo theo diện sĩ quan chế độ cũ với
lời hứa hẹn mười ngày.Hoàn cảnh tôi lúc bấy giờ thật bi đát: Tiền bạc tài sản đã
bị cướp sạch, thậm chí quần áo cũng không có để mặc, phải đi xin quần áo cũ của
người quen để mặc. Con trai lớn còn quá nhỏ (mới 3 tuổi) lại thêm bào thai hai
tháng trong bụng, chồng thì đi học tập không biết ngày về. Tôi, một phụ nữ chân
yếu tay mềm, đơn độc, với hai bàn tay trắng lúc đó lại còn quá trẻ…nhưng phải
đương đầu với nhiều áp lực từ tinh thần tới vật chất ở khắp mọi phía: từ tổ dân
phố cho đến tổ công đoàn trong nhà trường... Ở đâu tôi cũng được kêu gọi: phải
làm việc gấp đôi, gấp ba người khác để chồng được sớm thả về. Ôi! cái mệnh đề
“chồng được thả về sớm”quả là có một sức mạnh huyền bí và mãnh liệt biết bao! Nó
đã khiến tôi làm việc quần quật mà không dám nghỉ ngơi, không biết mỏi mệt. Tôi
luôn luôn phấn đấu vượt chỉ tiêu, chỉ với một mục đích duy nhất: được cấp giấy
“chứng nhận công tác tốt” hầu nộp hồ sơ bảo lãnh chồng về :
“Ước gì anh ở đây giờ này
Uớc gì em được nghe giọng
cười, và hơi ấm đã bao ngày qua mình luôn sát vai kề”
Sáng tôi đi dạy, chiều vô trường công tác đoàn thể và tham gia chăn nuôi. Lúc đó
ban lao động trường SNA có sáng kiến “nuôi heo” vì chế độ mới luôn hô hào:“lao
động là vinh quang” nên các thầy cô bị xếp lịch vô trường thay phiên chăn nuôi
heo. Tới phiên chăn nuôi heo, phải xắn quần áo lên vô chuồng heo, tắm rửa heo,
cho heo ăn, chà rửa chuồng heo... nhưng vì không có “chuyên môn” nên heo hay bị
sút chuồng chạy ra sân chơi, có khi heo còn chạy tọt vào lớp học. Vậy là phải
vác chổi chà chạy rượt theo để lùa heo về chuồng, kẻo heo chạy lạc mất thì phải
đền Thế là cảnh bi hài xảy ra : Cả cô đứng lớp và cô phụ trách chăn nuôi heo
cùng với sự hợp tác của các em học sinh trong lớp, xúm nhau "dí heo" rồi "lùa
heo", tiếng heo kêu "eng éc" chạy tán loạn trong lớp học gây ra một cảnh náo
nhiệt "độc đáo" chỉ có dưới mái trường XHCN, nơi mà "Lao động là vinh quang"
được đề cao triệt để ! Thật là một hình ảnh bi thảm và cười ra nước mắt, còn đâu
hình ảnh ngày nào: cô giáo với tà áo dài tha thướt, đi đứng đoan trang, dịu dàng
đúng với tư cách nhà giáo? Ngoài ra trường còn bắt đi trực đêm, nên thỉnh thoảng
tới phiên trực, tôi phải dỗ con ngủ sớm, rồi gửi con cho ngoại để vô trường ngủ
trực đêm. Như vậy vẫn chưa hết, mỗi tuần 3 buổi tối tôi còn tham gia tình nguyện
dạy bổ túc văn hóa cấp 3. Chúa nhật thì công tác theo tổ dân phố: quét đường, đi
đào kinh, đắp đập…
Tôi luôn luôn phải làm việc theo khẩu
hiệu thời đó: “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm”. Biết bị bóc lột mà vẫn cứ
lăn xã vào làm để có giấy “chứng nhận công tác tốt” hầu nộp hồ sơ cho chồng được
về sớm. Mỗi lần nghe đồn có địa chỉ mới để nộp hồ sơ bảo lãnh cho chồng là chị
em chúng tôi, những người vợ tù cải tạo, lại chuyền tai nhau chạy tới chầu chực,
chờ đợi nộp hồ sơ, để nghe họ hống hách, miệt thị, tra hỏi mà vẫn cứ phải nhún
mình chịu lép vì chồng Thật là tội nghiệp! Lâu dần đợi mãi, chẳng thấy kết quả
gì, lúc đó chị em chúng tôi mới vỡ lẽ ra là mình đã bị lừa. Thực ra đó chỉ là
“củ cà rốt để nhử thỏ”.
Bây giờ đôi khi ngồi nhớ lại chuyện xưa,
tôi thành thực tự khâm phục mình, không biết hồi đó sức đâu mà một người phụ nữ
trẻ gầy yếu đang mang thai như tôi lại có thể làm việc “khủng khiếp” đến như
vậy, mà không hề biết mỏi mệt? Có lẽ vì niềm hy vọng nơi lá bùa “chồng được thả
về sớm” đã tăng thêm sức mạnh bội phần cho tôi, nên tôi đã làm việc không phải
với tất cả sức mình, mà là trên cả sức mình với hy vọng chồng được thả về trước
khi tôi sinh con. Tôi không muốn sinh con trong cảnh cô đơn, tôi không muốn con
tôi ra đời mà không có mặt cha! Nhưng hy vọng đó đã dần dần bị “cạn kiệt”, lúc
này đây tôi phải luôn luôn tự nhủ lòng:
“Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng !"
Thời gian đầu mỗi ngày ở truờng về, thấy “thời hạn 10 ngày” qua lâu rồi, nên câu
hỏi đầu tiên của tôi với con trai hay đứng đợi mẹ trước cửa, luôn luôn là câu :
“Bố về chưa con?” Cứ nuôi hy vọng rồi lại ê chề thất vọng khiến tôi chợt nhớ tới
câu hát du ca thời sinh viên, đúng là : “Hy vọng đã vươn lên trong màn đêm bao
ưu phiền”, đúng vậy nhưng không thể bỏ “niềm hy vọng” vì nó là “liều thuốc”
cần thiết để giúp tôi tiếp tục sống còn. Những người vợ tù cải tạo liên
lạc hỏi thăm tin tức nhau, nhưng không hề thấy một tia sáng nào “ló dạng cuối
đường hầm”cho ngày về của chồng. Bế tắc quá chúng tôi bèn rủ nhau đi xem bói
nhưng tốn tiền mà cũng chẳng giúp ích được gì, chỉ toàn là những u sầu và thất
vọng tràn trề. Làm gì có hình ảnh mơ ước:
“Khi đất nước tôi thanh bình…mọi người
ra phố mời rao nụ cười”
vì xã hội thời đó đã hoàn toàn tắt hẳn những nụ cười. Tất cả chỉ là “bánh vẽ” là
“rổ danh từ” hoa mỹ: “Đất nước thống nhất: Hạnh phúc – Độc lập - Tự do” nhưng
Hạnh Phúc là như thế này ư??
Cuối cùng, sau nhiều tháng chờ đợi mõi
mòn, tôi đã phải sinh con trong cô đơn âm thầm, rồi nuôi con trong thiếu thốn
khó khăn mọi bề. Những cảnh xếp hàng cả ngày (XHCN) để mua từng ký gạo tổ đầy
sạn, về ăn độn với bo bo, vậy mà cũng không được ăn no. Thịt thì mỗi tháng cấp
phiếu một lần, phải xếp hàng rồng rắn để đuợc mua những miếng thịt ôi và bạc
nhạc, hoặc những con cá ươn, nhưng cũng quý lắm, đem về cắt nhỏ, kho mặn để dành
riêng cho con ăn “nhín nhín” kẻo hết. Bên cạnh những nỗi khổ vật chất còn là
những nổi khổ tinh thần. Không phải chỉ là sự hù dọa, o ép bắt đi kinh tế mới
của tổ dân phố mà còn là sự chèn ép, đối xử bất công của tổ công đoàn nhà
trường, vì lỡ mang cái nhãn hiệu “vợ tù cải tạo”. Bên cạnh đó là những nỗi cô
đơn về tinh thần, sự bơ vơ khi phải một mình bươn chải, chống chèo để nuôi 2 con
thơ, nuôi chồng bị tù cải tạo trong một “xả hội mới” với quá nhiều biến đổi lọc
lừa... Không phải ai cũng có sự hỗ trợ nâng đỡ từ gia đình chồng hay những người
chung quanh. Nhiều đêm sau một ngày dài vật lộn với cuộc sống mệt nhoài, khuya
về ru con thơ đau ốm, khóc quấy mà nước mắt người mẹ trẻ lặng lẽ tuôn trào:
“Bạn buồn còn chốn thở than.
Tôi buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya”
Hình ảnh ngọn nhang tàn lụi dần trong đêm khuya là hình ảnh cô đơn, chịu đựng
trong câm lặng của biết bao người vợ tù cải tạo thời đó.Đôi khi gian khổ, cô đơn
“bóp nghẹt” trái tim khiến tôi cảm thấy không thở nổi và rất cần một “bờ vai” để
nương tựa, cho đỡ mỏi mệt, cho dễ thở một chút. Vậy mà những lần tập trung đi
chấm thi TNPT, hay đến nhà thương, có ai đó muốn đưa “bờ vai” để tôi nương tựa,
tôi lại phải từ chối và chỉ vào ngón tay đeo nhẫn của mình để xác nhận: “Tôi là
gái đang có chồng”, nhưng họ vẫn không tin (có lẽ do thấy tôi còn quá trẻ). Tôi
phải chạy kiếm bạn dạy cùng trường tới làm chứng là tôi nói thiệt, để rồi sau đó
bạn ái ngại nhìn tôi khẻ nói:
- Thiệt tình chưa thấy ai như bạn, bạn còn quá trẻ và cuộc đời cũng khổ quá
nhiều rồi, sao không “buông thả” một chút cho lòng dễ chịu, sao cứ “giữ chặt”
lòng minh chi cho kỹ quá, để khổ dữ vậy?
Tôi biết bạn thương tôi nên nói vậy, nhưng tôi có cảm tưởng trái tim tôi đã bị
bỏ vào trong một cái hộp vô hình và khóa lại. Tôi không thể nào làm khác hơn. Có
lẽ:
Tẻ, vui âu cũng tính trời biết sao” (ND)
Mỗi ngày khi mặt trời sắp ló dạng, tôi lại phải nuốt vào lòng sự cô đơn buồn
tủi, để còn tỉnh táo tiếp tục vật lộn với cuộc sống, xông xáo mưu sinh lo cho 2
con, cho chồng.Ngoài giờ đến trường, tôi phải chạy từ góc phố này sang xó chợ
kia để may ra kiếm thêm được chút gì lo cho chồng, cho con được tốt hơn .Đôi khi
còn bị công an rượt đuổi, bị đánh lừa, mất trắng tay đành lủi thủi ra về. Rồi
ngậm ngùi nhớ lại mà xót xa thương thân :
“Xưa
sao phong gấm rũ là.
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
(ND).
Ôi
! không giấy bút nào có thể lột tả hết được những gian
truân của người vợ tù cải tạo thời đó. Tôi đã từng lăn lộn
trong chốn bụi đời ô trọc đó, nên biết được nhiều hoàn cảnh
đáng thương, thấy phận mình đã quá cực, nhưng nhìn lại
thấy nhiều người còn khổ hơn. Từ đó tôi bỗng tự hỏi: không
biết giữa người đi tù cải tạo và người vợ ở lại, ai khổ hơn ai? ai sầu hơn ai?:
“ Lòng chàng, ý thiếp, ai sầu, mối sầu nào hơn?”
Thời gian mang tính chất tâm lý, nên không có gì khổ bằng sự chờ đợi mòn mỏi trong vô vọng. Chờ đợi mà không biết chờ đợi tới bao giờ? Chẳng thà họ đem ra xét xử rồi kêu án 5,10 năm gì đó, đằng này cứ thấp thỏm lo âu, hy vọng rồi lại… thất vọng. Nỗi buồn chồng chất nỗi sầu khiến người vợ tù cải tạo mệt nhoài như một giòng sông cạn đầy nghiệt ngã:
"Tôi như giòng sông cạn
cuốn quanh đời mệt nhoài
cuốn
theo giòng nghiệt ngã" (TCP)
Nỗi
sầu muộn đã gặm mòn tuổi thanh xuân của biết bao nguời vợ trẻ! Những lần đi gửi
quà, đi thăm nuôi, có dịp gặp gỡ tâm sự với các chị đồng cảnh, mới càng thấy
thấm thía hơn tâm tình chung thủy của đa số phụ nữ Việt Nam. Chồng càng gian lao
tù tội, càng thương xót, càng chung thủy, mặc dù trước đó có thể chàng cũng từng
trăng hoa hay đèo bồng. Đó là tâm trạng “thà chàng phụ thiếp, chứ thiếp không
phụ chàng” của hầu hết phụ nữ Việt Nam. Vì chồng, chúng tôi chấp nhận hy sinh và
làm tất cả những gì có thể làm được. Tôi đã từng tới “Hội trí thức yêu nước”
thành phố Saigon, để nhờ họ can thiệp cho chồng về sớm, họ khuyên tôi nên đi
kinh tế mới thì mới có hy vọng. Vậy là tôi đã lần mò đi lên tận khu kinh tế mới
Củ chi xem đất, với ý định chấp nhận gian khổ này để cứu chồng ra khỏi cảnh tù
tội , bởi tôi muốn”đồng cam cộng khổ” với chồng trong lúc gian nan :“đói no
thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam”. Nhưng khi về nhà, ba tôi biết chuyện đã can
ngăn vì con còn quá nhỏ làm sao có thể chiu đựng “kinh tế mới” cho được? Nghĩ
lại vì thương con thơ nên tôi tạm dẹp ý định này.
Sau một thời gian dài “bặt vô âm tín” họ bắt đầu cho gửi quà. Chúng tôi hết sức
vui mừng đón nhận tin này, nhưng việc đi gửi quà cho nguời tù cải tạo cũng đã
nói lên biết bao tấm lòng của những người vợ. Chúng tôi phải bươn chải ngược
xuôi trong một xả hội đầy khó khăn và xáo trộn để chắt bóp từ đồng xu bỏ ống để
dành, phải nhịn ăn, nhịn mặc, gói ghém đầu nọ, đầu kia để có tiền mua quà cho
chồng, thành thử gói quà tuy nhẹ vài ký, nhưng tình nghĩa thì nặng đến nghìn
cân.Ngày đầu tiên họ cho phép gửi quà chúng tôi phải thức dậy từ 2, 3 giờ sáng
ra xếp hàng trước bưu điện, để 8 giờ sáng khi bưu điện bắt đầu mở cửa làm việc
là có thể vào gửi ngay. Ai cũng nóng ruột muốn được gửi sớm để chồng nhận được
quà sớm nên lo đến sớm, xếp hàng dài lê thê “rồng rắn”trong cảnh nửa đêm về sáng
đầy lạnh giá. Hơn nữa lo gửi sớm cho chắc ăn, lỡ sau này họ bỗng thay đổi ý kiến
không cho gửi nữa thì sao? Làm sao tin được, họ là kẻ đang nắm quyền, tráo trở
nói sao cũng được, như vụ “hứa đi học tập 10 ngày và 1 tháng” là một bằng chứng
rõ ràng nhất, nhưng thực tế chúng tôi phải đằng đẳng đợi chờ trong vô vọng.Họ đã
biến chúng tôi thành những "hòn vọng phu" trong thời đại mới với tâm trạng :
"
Tôi buồn
trong lặng yên
như con
chim lạc loài
cô đơn
trong rừng chiều" (MDĐL)
Tôi đứng
cô đơn một góc đời...
Khóc cười, sầu khổ riêng tôi biết
(MDĐL)
Cuộc đời
những nguời vợ tù cải tạo là một chuổi dài những cô đơn và sầu khổ, bên cạnh
những vất vả lo toan cho cuộc sống, lại
luôn trông ngóng tin chồng không biết giờ này ra sao? đang bị đày đọa ở
nơi đâu? sống chết thế nào?..Những câu hỏi không một lời giải đáp càng làm chúng
tôi héo hắt hơn, nên thật là một tin vui lớn khi
họ bắt đầu cho đi thăm nuôi. Mỗi lần nhận được giấy báo cho thăm nuôi là tôi vừa
mừng vừa lo. Mừng vì được đi thăm chồng, ít ra cũng được thấy chồng bằng xương,
bằng thịt vẫn còn bình an, để yên dạ một chút (dù là chỉ có 15’) Còn lo là vì
tiền đâu ra để vừa mua quà, vừa trang trãi tất cả mọi chi phí cho chuyến đi? Vậy
là tôi bắt đầu phải lo bươn chãi nhiều hơn để kiếm tiền, rồi “bóp hầu, bóp họng”
không phải chỉ mẹ mà cả con nữa, chi tiêu phải dè sẻn, tằn tiện tới độ “vắt cổ
chày ra nước”. Áo mặc không phải chỉ sờn vai, mà rách vá bạc màu nguyên cả lưng
nữa nhưng vẫn không dám thay. Vậy mà khi đi mua quà thăm nuôi chồng thì lại rất
hào phóng cái gì cũng muốn mua, vì cứ nghĩ: “tội nghiệp trong tù thiếu thốn đủ
thứ, mà biết đến bao giờ chúng mới cho thăm nuôi lần nữa?” Nên cứ cố mang nhiều
chừng nào tốt chừng nấy, dù phải đi vay nợ bạn bè để mua thêm quà cũng không
sao. Do đó những bao quà chuẩn bị đi thăm nuôi cứ to dần và nặng thêm theo tấm
lòng yêu chồng trong cảnh tù tội. Lòng yêu chồng đã khiến chị em chúng tôi trở
thành những “lực sĩ điền kinh” sẵn sàng khuân vác, đeo mang những bao quà to
đùng trên những tấm thân gầy yếu, vì phải thắt lưng buộc bụng triền miên. Chưa
hết tôi lại còn phải “tha con” đi cho bố biết mặt con, hay cho bố đỡ nhớ con.
Phương tiện giao thông thời đó vô cùng khó khăn, dù phải tốn nhiều tiền, phải
chen chúc xếp hàng mua vé trước. Tới ngày đi, lại phải chịu cảnh chen lấn xô đẩy
nhau lên tàu lửa, rồi còn phải lôi, khuân vác hành lý to nặng, rồi thêm phải
“tha con thơ” theo. Đã vậy phải đổi xe nhiều chuyến: xe lửa, xe kéo rồi ngủ qua
đêm ở chợ. Tối đến vào chợ đi tìm những sạp thịt heo bỏ trống, trãi đỡ tấm báo
cho đỡ dơ, lấy hết áo che cho con thơ, bao bọc con cho khỏi bị muỗi cắn, kẻo bị
bịnh vì con còn nhỏ quá, muỗi cắn mẹ thì không sao, làm ơn đừng cắn con thơ!
Nhìn con trăn trở khó ngủ, mẹ phải ngồi dậy kiếm quạt, quạt cho con mát, ru con
ngủ mà nổi niềm cay đắng trào dâng:
“Lời
mẹ ru con nghe ra nỗi niềm
Ru con nghiêng nghiêng nằm
con ngủ giấc tròn cho mẹ ngồi trông” (TCS)
Hai hàng nước mắt tự nhiên ứa ra vì
thương con còn nhỏ mà “sao tội quá phải chịu nhiều gian
khổ để đi thăm bố”.May là ba tôi thương con gái, nên đi theo đỡ đần
khiêng phụ đồ nặng, rồi lo dùm cho thằng lớn. Nhìn ông ngoại ôm cháu nằm co quắp
ở sạp bên kia sao thấy thương quá đỗi là thương! Tôi phải thức trắng đêm để
trông cho con ngủ và canh chừng đồ đi thăm nuôi kẻo mất. Hình như bóng đêm luôn
luôn đồng lỏa với nổi buồn, nhìn cảnh “cha con, ông cháu” dắt díu nhau lên đây
“ngủ đường, ngủ chợ”, lòng tôi bỗng dâng lên một nổi buồn không kềm chế được,
nghe sao xót xa thương đất nước mình chìm trong dâu bể, thế hệ mình sao chịu quá
nhiều đắng cay, hết chiến tranh chết chóc tang thương, mất mát. Bây giờ “hòa
bình” rồi thì lại chia lìa với bao vất vả, u sầu, cô đơn cho những người vợ trẻ
phải chịu cảnh lẻ loi một mình :
“Ðêm nay hòa bình không nụ
cười trên môi
Nhìn quanh em không ai còn lại
Không ai còn lại
Ru đỡ tình người cho có đôi” (TCS)
Sáng sớm hôm sau phải lo dậy sớm kiếm thuê xe lam đi vào rừng…rồi mới tới được
chỗ thăm nuôi. Trăm ngàn gian khó, vất vả là thế mà khi vào trại thăm nuôi, tôi
đưa con cho bố bồng, để biết mặt con, thì con khóc òa lên, cương quyết lắc đầu
không chịu:
- Không phải bố, bố con ở nhà.
Thế có chết không? Vì ở nhà, khi con lẩm chẩm bắt đầu biết đi, biết nói, cứ luôn
miệng hỏi:
- Mẹ ơi! bố đâu? bố đâu?
Tôi phải chọn tấm hình đẹp nhất của bố đưa cho con xem và nói:
-
Đây là bố con, nhớ chưa?
Bé rất thích tấm hình nên cứ hay hỏi bố hoài để có dịp lấy hình ra xem, tôi bèn
bọc plastic tấm hình đó và đưa bé giữ luôn. Bé cất tấm hình đó ở ngăn kéo trong
phòng, đợi ai tới chơi hỏi thăm về bố là chạy vào phòng lấy ra đem khoe.
Sau này bố được thả về bất ngờ do nhu
cầu y tế của Saigon đang thiếu trầm trọng, nên sở Y tế thành phố đã can thiệp để
tất cả các y, nha, dược sĩ được trở về để đi làm ngay.Tối đó, tôi đang ngược
xuôi tìm mua thêm mấy thứ thuốc cần thiết để ngày mai đi thăm nuôi sớm. Khi về
gần đến nhà, tôi hoảng hốt lo sợ, không biết chuyện gì đã xảy ra ở nhà mình, vì
thấy người bu đông nghẹt từ trong ra ngoài? Tôi chen vào được trong nhà mới sửng
sốt khi thấy chồng bằng xương bằng thịt đang ngồi ở phòng khách trả lời các câu
hỏi của bà con lối xóm vây quanh hỏi thăm tin tức của “người về từ trại cải
tạo”. Tôi lại được hàng xóm kể lại chuyện bé không chịu nhận bố. Khi mọi người
đẩy cháu đến mừng bố mới về, cháu không chịu cứ đứng xa xa nhìn rồi nói:
- không phải bố con, bố con ở trong
phòng
Rồi chạy vào phòng lấy tấm hình bố ra khoe với mọi người :
- Đây mới là bố con nè!.
Sau đó phải mất vài tháng, cháu mới quen
dần và chịu nhận bố. Hiện nay trong gia đình cháu là người duy nhất nối nghiệp
bố và cũng từng phục vụ trong quân đội (Mỹ) một thời gian dài.
Thực ra khi nhắc tới thời kỳ gian khổ của cá nhân, trong thời gian chồng đi tù
cải tạo, tôi chỉ muốn nhắc lại một đoạn đời đáng ghi nhớ của mình. Vì nếu so với
những gian khổ của các chị có chồng đi cải tạo cả chục năm, hoặc lâu hơn nữa,
rồi còn phải đi thăm nuôi chồng tận ngoài Bắc, thì gian khổ của tôi nào có thấm
thía vào đâu. Nhưng dù sao tôi vẫn thấy tấm lòng ân nghĩa luôn luôn là vô giá và
cần phải được trân trọng. Nó không thể đong, đo, đếm bằng bất cứ đơn vị nào, dù
là thời gian dài, ngắn hoặc mức độ gian khổ ra sao. Vì tôi vẫn thường quan niệm:
“Ơn ai, một chút chớ quên.
Sầu ai một chút để bên cạnh lòng”.
Sở dĩ tôi nhắc đến điều này, vì bây giờ
nhìn quanh tôi thấy nhiều ông sau khi được ra tù…rồi được qua Mỹ, thì bao nhiêu
hy sinh nhọc nhằn của vợ ngày xưa “bỗng chốc hóa hư không” Nhớ tới còn chưa có,
nói chi tới việc đền đáp. Do đó nhiều chị em phụ nữ đã cảm thấy những điều mình
từng "mơ ước" ngày chồng về thuở xưa bỗng
trở thành:
Trên bãi
cát vàng hão huyền
Chợt nghe lớp sóng xô lên đời mình nhiều cay đắng (TCP)
Vì không phải chị em chỉ chịu đựng những khó khăn, gian khổ khi các ông đang tù
cải tạo, mà còn nhiều nghiệt ngã, đắng cay hơn ở thời kỳ hậu cải tạo. Các ông
trở về với những tâm trạng tràn đầy bất mãn: hận người, hận đời.Nhất là khi sang
Mỹ mà lại không thành công như ý trong sự nghiệp, thì bao nhiêu “uất ức ngút
trời” đều trút lên đầu người bạn đời của mình. Hãy nghe tâm sự của một phụ nữ
qua một bài báo: “Hình
như mỗi mảnh đời phụ nữ là một bi kịch, một bất hạnh lớn, họ tất bật ngược xuôi
với cuộc sống chạy vạy từng miếng cơm, manh áo cho con, lo cho chồng những ngày
tháng sau cuộc đổi đời tháng 4/75 bi thảm. Họ nhịn miếng ăn, mặc tấm áo vá để
nhường phần ăn cho con được đầy đủ hơn, để chắt chiu nuôi
chồng trong các trại cải tạo.Vết thương của họ không phải là vết thương ngoài
da, mà là những vết cắt sâu lút đến tận tâm khảm. Khi chồng từ trại cải tạo về
bất mãn, mặc cảm, hoạnh họe… khi con cái lớn lên vô ơn, bạc nghĩa, đặc biệt là
những gia đình H. O. khi sang Mỹ thì vết thương lòng của họ lại càng trầm trọng
hơn, không bút mực nào có thể kể xiết, nhưng nhìn bên ngoài không ai hay biết”
Đúng vậy “nhìn bên ngoài không ai hay biết” vì phụ nữ Việt Nam vốn chịu đựng
giỏi và chính sự chịu đựng này đã làm nên sức mạnh của họ:
“Lan Huệ sầu ai, Lan Huệ héo
Lan Huệ sầu đời trong héo, ngoài tươi”
Ngoài ra có một số ông khi sang Mỹ thất bại trong sự nghiệp thì chuyển sang
“khẳng định giá trị” mình bằng cách giải trí với “danh sách các người
tình” (qua những hẹn hò trên internet) Cách nào thì cuối cùng người phụ nữ vẫn
là nạn nhân đáng thương:
“Ta lần mò leo mãi không qua được vách
sầu
Ta tìm một tiếng yêu thấy toàn là sầu đau” (VTA)
Và như thế, nhiều chị em lại âm thầm “vì tương lai các con” nơi xứ người,
muốn giữ một gia đình ổn định cho các con khỏi bị shoc, lại phải “ngậm đắng
nuốt cay” chịu đựng tiếp.Họ cố gắng năng động nơi xứ người, không quản ngại
làm tất cả mọi việc có thể làm được (từ phụ bếp, tới bồi bàn, giữ trẻ…) để có
tiền lo cho gia đình. Bên cạnh đó, họ vừa đi làm vừa trở lại đi học
(vì đó là cách tốt nhất để hội nhập và
tiến thân nơi xứ nguời) với bao nhiêu gian khổ khó khăn nhưng vẫn kiên nhẫn
quyết tâm vượt qua.Vậy mà không hề nhận được bất cứ sự hổ trợ tinh thần nào từ
chồng dù là nhỏ bé, ngoài sự “bắt khoan, bắt nhặt” triền miên do sĩ diện hảo.
Hãy nghe nhà văn Lệ Hằng diễn tả mạnh mẽ, táo bạo thẳng thừng vấn nạn này như
sau:
“Kinh hoàng nhất là các ông ra đường bị mặc cảm thua bại, về nhà càng gầm gừ vợ
con dữ dằn hơn. Họ đay nghiến, không muốn các bà tỏ ra năng động, càng không
muốn vợ tháo vát, lanh lợi hay thành công hơn mình. Họ bắt lỗi bắt phải vợ suốt
ngày, suốt đêm.Tỉ lệ đổ vỡ gia đình thường thuận chiều với những người đàn ông
kém cỏi, không thành công. Không phải vì đàn bà ham danh hám
lợi đâu. Số người này rất ít, phụ nữ khi đã lập gia đình, đa số coi trọng hạnh
phúc hơn mọi giống của cải phù du ngoài đường.”
Hoặc diễn tả dịu dàng nhẹ nhàng hơn, nhưng cũng tràn đầy cay đắng như nhà văn
Bùi Bích Hà viết trong thư tâm tình của một người vợ:
“Suốt chặng đường gian lao này, em luôn kề cận chia sẻ cùng anh vì đã là vợ
chồng chúng ta có cùng chung một số phận. Thế nhưng chính cái cảm giác bị bỏ
rơi, bất lực trước cuộc đời đã dày vò anh, làm anh mất lòng tự tin, trở nên đa
nghi và cay đắng. Đôi lúc em thử chuyện trò với anh để giúp anh giải tỏa các mặc
cảm dồn nén làm khổ anh, thì anh quát nạt cho là em muốn dạy khôn. Nhiều lúc em
nín nhịn, anh lại nghĩ là em lên mặt kẻ cả, coi thường anh. Anh ơi hận người hay
hận đời có làm cho đời sống chúng ta tốt hơn không? Cáu kỉnh, dằn vặt, nghi ngờ
có làm cho anh hạnh phúc hay không?”
Trên đây là thực trạng của một số gia đình Việt Nam ở xứ người, là hậu quả dư âm
sâu xa của 30/4 xưa. Nó là nổi đau âm thầm nhưng dai dẳng trong lòng một
số chị em phụ nữ Việt Nam, tuy sống ở nước ngoài nhưng lòng vẫn tha thiết yêu
cái đẹp của đời sống gia đình và luôn mơ ước một hình ảnh gia đình dễ thương mà
Phạm Duy đã từng vẽ lên qua một bản tâm ca:
“Ngồi
gần, ngồi thật lâu.
Cho đến khi hai ngọn đầu.
Thành một người trong nhau nguyện cầu.”
Nhưng tiếc rằng đôi khi mơ ước vẫn chỉ là ước mơ thôi! Xin chân thành gửi đến
các chị em, những người vợ tù cải tạo, những người đôi lúc nhìn lại đã cảm thấy:
“Ôi
thôi đời ta phung phí trong cơn buồn phiền”
một ước nguyện nhỏ bé:
“Xin như là giọt nắng
Thắp trong đôi mắt buồn
Sáng lên niềm hy vọng
Sau tháng ngày đau thương” (TTT)