Hầu
hết mọi người đều biết, một khi vị tu sĩ nào đã được thụ phong chức Linh
Mục rồi, thì vị Linh Mục đó tuyệt đối phải tuân hành các giáo điều của
Giáo Hội Công Giáo truyền dạy, mà một trong các giáo điều đó là tất cả
các Linh Mục phải duy trì tình trạng độc thân và không được phép luyến
ái với bất cứ một người phụ nữ nào sau khi đã được thụ phong chức Linh
Mục. Nếu vị Linh Mục nào muốn lập gia đình hoặc vì một lý do gì lỡ vi
phạm vào 2 giáo điều vừa kể trên, bắt buộc vị Linh Mục đó phải tự mình
tình nguyện nạp đơn lên Giáo Quyền, xin phép được từ bỏ thiên chức Linh
Mục của mình, để trở thành một thường dân ngoài đời, không còn năng
quyền của một Linh Mục, để cử hành những phép bí tích trong Nhà Thờ, tại
những nơi thờ phượng hay tại tư gia nữa; ngoại trừ trường hợp chỉ có một
số rất ít, những vị Mục Sư đã lập gia đình rồi, thuộc vài giáo phái Tin
Lành, nạp đơn xin được phép chuyển nhập vào Giáo Hội Công Giáo và đơn
xin sẽ được Giáo Quyền Tối Cao trong Giáo Hội Công Giáo cứu xét và nếu
đơn xin được chấp thuận, thì những vị Mục Sư này sẽ trở thành những vị
Linh Mục trong hàng ngũ Linh Mục của Giáo Hội Công Giáo, hoặc có một số
ít các Thầy Phó Tế Vĩnh Viễn đã có gia đình rồi, nhưng chẳng may người
vợ qua đời sớm và theo nội quy của Giáo Hội Công Giáo, một khi người
chồng đã được chịu chức Phó Tế Vĩnh Viễn (Permanent Deacon) rồi, thì sau
khi vợ qua đời, không được phép lấy vợ khác, nhưng được Giáo Quyền ban
cho một đặc ân, như trong trường hợp các con đã tới tuổi trưởng thành và
chúng nó đã có thể tự lập được cuộc sống, thì những Phó Tế nằm trong
tình trạng độc thân này, đều có thể nạp đơn xin trở thành Linh Mục lên
Giáo Quyền cứu xét và nếu đơn xin được chấp thuận, thì chỉ phải học thêm
môn Thần Học từ 1 cho đến 2 năm nữa, là hội đủ điều kiện chịu chức Linh
Mục nếu muốn.
hình minh họa
Sau đây chúng tôi xin tường thuật lại một
câu chuyện có thật của một vị Linh Mục giải thích cho chúng tôi nghe về
lý do tại sao Ngài không còn là Linh Mục nữa và Ngài đã được Giáo Quyền
cho phép cởi bỏ áo tu sĩ, để có một cuộc sống ngoài đời bình thường như
trăm ngàn giáo dân khác và Ngài đã lập gia đình. Câu chuyện của cựu Linh
Mục này do chính Ngài tâm sự với chúng tôi như sau:
Cứ mỗi năm Tết đến, khi tôi còn là Linh
Mục, tôi đều về Việt Nam nghỉ phép thường niên 3 tuần lễ, với mục đích
duy nhất là chỉ để thăm viếng thân mẫu của tôi đã già yếu, mà người Công
Giáo thường xưng hô với thân phụ mẫu của một Linh Mục là Ông Bà Cụ Cố
nếu lớn tuổi hoặc Ông Bà Cố nếu còn trẻ tuổi. Năm đầu tiên tôi về thăm
thân mẫu của tôi và một hôm, có một cặp vợ chồng quen thân với Bà Cố tức
Mẹ tôi, họ nghe được tin tôi từ Hoa Kỳ về thăm Bà Cố, nên họ đến thăm
chào hỏi tôi và bà vợ của ông chồng này, tình cờ kể lại cho tôi nghe một
câu chuyện khá thương tâm, về một thiếu phụ bị chồng bỏ, ở cùng trong xứ
đạo với Mẹ tôi, chị ta rất ngoan đạo, Mẹ tôi cũng biết rõ chị này không
bao giờ bỏ Lễ ngày Chủ Nhật. Chị đang phải nuôi 2 đứa con trai, đứa lớn
11 tuổi, đứa nhỏ 9 tuổi, chồng của chị bỏ nhà ra đi, không một lời từ
biệt với vợ và 2 con, biệt tăm tích đã gần một năm nay rồi, để đi theo
tiếng gọi của tình yêu mới với một cô gái trẻ đẹp, kém chị ta cả chục
tuổi.
hình minh họa
Hàng ngày chị phải dậy thật sớm thổi mấy
nồi xôi đậu xanh và đậu đen, để cùng với đứa con trai lớn mang xôi ra
chợ bán, đến gần xế trưa 2 Mẹ con mới trở về nhà, vội vàng ăn uống xong
xuôi đâu đấy, rồi 2 Mẹ con lại cùng với đứa con trai út, rời nhà để đi
ra chợ làm phu khuân vác, dọn dẹp sạch sẽ cho các sập bán hàng lẻ ở
ngoài chợ, 3 Mẹ con làm tới tối mịt mới quay trở về nhà. Ngày nào cũng
như ngày ấy, cả 3 Mẹ con không được nghi ngơi, ngoại trừ sáng sớm ngày
Chủ Nhật, 3 Mẹ con đi dự Thánh Lễ xong, lại ra chợ tiếp tục làm những
công việc hàng ngày mà 3 Mẹ con vẫn làm và kể từ khi chồng chị bỏ nhà ra
đi, 2 đứa con chị phải nghỉ học ở nhà giúp đỡ Mẹ những công việc lao
động vừa được kể trên, mới kiếm được đủ tiền nuôi sống 3 Mẹ con cho đến
ngày hôm nay.
Tôi vừa nghe kể xong câu chuyện này, động
lòng thương xót và tội nghiệp cho 2 đứa trẻ nhỏ không được đi học, nên
tôi liền yêu cầu cặp vợ chồng này, hãy dẫn tôi đến thăm 3 Mẹ con chị ta
ở tại nhà chị ta, để tôi nói cho người Mẹ biết là tôi sẵn sàng giúp đỡ
chị, bằng cách bảo trợ tài chánh cho 2 đứa con chị được tiếp tục cắp
sách đi học trở lại, cho tới khi chúng học xong bậc trung học. Sau khi
chị nghe tôi nói thế, chị tỏ ra rất xúc động, chị nói:
Con xin hết lòng đội ơn Cha, những điều Cha nói làm con cứ ngỡ là con
đang nằm chiêm bao, vì đây là điều ước mong duy nhất của con, mà hàng
ngày con cầu xin Chúa ban xuống cho con cách riêng, để làm sao con có
thể đưa 2 con của con trở lại trường học, như trước kia hàng ngày, chồng
của con vẫn đưa 2 con đến trường, khi anh ấy vẫn còn ở nhà với con. Giờ
đây thật là sung sướng hạnh phúc biết bao cho con và 2 con của con, vì
Cha đã thay mặt Thiên Chúa đến đây để đáp ứng lời cầu nguyện của con từ
bấy lâu nay.
Nhờ vào số tiền hàng năm của tôi gửi về cho
chị và chị coi tôi như là người Bố đỡ đầu tinh thần cho 2 con của chị,
để giúp đỡ cho 2 cháu được tiếp tục đi học, như tôi đã hứa và sau khi
chị trang trải tiền học phí, tiền mua sách vở cho 2 con, chị cho tôi
biết vẫn còn dư thừa chút đỉnh, nên 2 cháu không cần phải làm bất cứ một
công việc gì nặng nhọc, để phụ giúp chị như trước kia nữa, mà chúng chỉ
biết vùi đầu vào sách vở, đến cuối năm cả 2 cháu đều được lãnh nhận phần
thưởng danh dự, là 2 học sinh giỏi nhất lớp, được nhà trường khen
thưởng và mỗi cháu còn nhận được một trăm Mỹ kim của tôi với tư cách là
Bố đỡ đầu tinh thần của chúng từ Hoa Kỳ gửi về, để tưởng thưởng cho
chúng học giỏi. Như đã nói ở phần trên, mỗi năm tôi về Việt Nam một lần,
để thăm nom sức khoẻ của thân mẫu tôi, mỗi lần về như thế, tôi đều có
ghé nhà chị ta để đón 2 đứa con của chị về nhà Mẹ của tôi ăn cơm vài ba
lần và để thăm hỏi sức khoẻ của chúng, đồng thời cũng để kiểm điểm lại
sự học hành của chúng xem chúng học hành tới đâu. Lẽ dĩ nhiên, những lần
tôi đến đón chúng về nhà Mẹ tôi, thì không bao giờ có Mẹ chúng đi theo
chúng.
Qua những kinh nghiệm trong công tác Tông
Đồ Mục Vụ của tôi là một Linh Mục cho tôi biết, việc gì phải đến thì nó
sẽ đến, ngoại trừ Thiên Chúa hay Thượng Đế ra, không ai có thể biết
trước được việc gì sẽ xẩy đến cho mình. Tất cả 6 lần trong 6 năm liên
tục, tôi về Viêt Nam để thăm viếng thân mẫu tôi và cũng như mọi năm,
trong thời gian 3 tuần lễ tôi ở nhà Mẹ tôi, tôi đều có đến đón 2 đứa con
tinh thần của tôi về nhà Mẹ tôi ăn cơm và trò chuyện với chúng vài tiếng
đồng hồ, xong rồi tôi lại lái xe đưa chúng về nhà Mẹ của chúng, thả
chúng xuống trước cửa nhà, mà tôi không cần phải xuống xe để dẫn chúng
vào nhà, lúc đón cũng như lúc đưa chúng về, chỉ có một lần Mẹ chúng thấy
tôi tới, thì chị vội vàng chạy ra chỗ xe tôi đang đậu để chờ chúng, chị
mời tôi vào nhà uống trà, có 2 đứa con cũng ngồi cùng cả đấy, chúng tôi
trao đổi với nhau vài ba câu chuyện xã giao, kéo dài khoảng 15 phút, thì
tôi đứng dậy xin cáo biệt chị ra về, vì còn phải chở Mẹ tôi đưa tôi đến
thăm Cha Chánh Xứ họ đạo Nhà Thờ Tân Định, như đã có hẹn trước với Ngài.
Năm nay tôi về VN là lần thứ 6 như mọi năm, để thăm Mẹ tôi. Cũng như
thường lệ, tôi lái xe đến đón 2 đứa con tinh thần, luôn luôn chúng nó đã
đứng chờ sẵn ở trước cửa nhà, khi xe tới, chẳng cần phải nói lời nào, tự
động chúng mở cửa xe phía sau và leo lên xe ngay. Nhưng lần này, khác
hẳn những lần trước, chỉ thấy Mẹ chúng đang đứng chờ trước cửa nhà và
khi xe của tôi vừa chạy tới, thì chị chạy vội ra, mời tôi vào trong
phòng khách ngồi chờ 2 cháu, chị cho biết là 2 cháu còn đang mắc bận
thay áo quần trong phòng tắm. Trong lúc tôi ngồi trong phòng khách đợi 2
cháu, thì chị ngồi trên chiếc ghế cách xa, đối diện với tôi và nói :
Thưa Cha, con hết lòng tạ ơn Cha đã giúp đỡ cho 2 đứa con của con được
đi học liên tục gần 6 năm qua, ơn trời biển bao la này của Cha dành cho
2 con của con, tất cả chúng con không biết đến bao giờ mới có thể đền
đáp lại ơn này cho Cha, nhưng chúng con sẽ luôn luôn ghi tạc ơn này tận
đáy lòng chúng con, cho tới khi chúng con lìa đời. Hôm nay con dám mạnh
dạn, để xin Cha cho phép con được bầy tỏ sự thầm kín chân thành nhất từ
đáy lòng của riêng con với Cha, là xin Cha bảo lãnh cho 2 đứa con của
con được sang Hoa Kỳ tiếp tục sự học của chúng, để chúng nó có một cơ
hội tiến thân trên con đường học vấn và nhờ đó, chúng nó sẽ có thể trở
thành những nhân tài nổi danh trên thế giới mai sau, góp phần làm vẻ
vang cho dân tộc Việt Nam ở quốc ngoại.
Để có thể thực hiện được ý nguyện thầm kín này của con, con xin Cha vì
tấm lòng nhân từ bác ái của Cha, xin Cha hãy bằng lòng làm giấy hôn thú
giả với con một cách kín đáo, chỉ có Cha và con biết chuyện này mà thôi
và khi sang tới Hoa Kỳ, con và 2 con của con sẽ cư trú tại một tiểu bang
khác, cách xa tiểu bang nơi Cha đang ở, để tránh sự dòm ngó dị nghị của
mọi người chung quanh, không làm phương hại đến thanh danh của Cha là
một Linh Mục thánh thiện, rồi gắng đợi đến 2 năm sau, Cha mới làm giấy
ly dị con, tới lúc đó chúng con đã trở thành thường trú nhân hợp pháp
tại Hoa Kỳ rồi, chúng con không còn sợ bị trục xuất trả về VN nữa.
Tôi cố gắng ngồi yên lặng để nghe chị nói hết lời, chứ thực ra, vừa nghe
chị nói đến câu làm giấy hôn thú giả, thì tôi đã hết hồn, cảm tưởng như
có quân khủng bố đang đặt trái bom dưới nệm ghế tôi ngồi và tôi cố gắng
lấy lại sự bình tĩnh, để giải thích cho chị hiểu rõ rằng:
Đối với Luật Công Giáo, không bao giờ cho phép một Linh Mục làm một điều
gì dối trá trước mặt Chúa và hơn thế nữa, đối với luật pháp Hoa Kỳ lại
càng chết tươi, ăn năn tội chẳng kịp, hành động giả vờ lấy nhau làm vợ
làm chồng, không chóng thì muộn cũng sẽ bị chính quyền phát giác, tới
lúc đó người phối ngẫu ở Hoa Kỳ, sẽ được mời đi nghỉ mát nhiều năm trong
trại tù và có thể cộng thêm một số tiền phạt vạ nữa; còn người phối ngẫu
từ nước ngoài tới, thì ở trong tư thế sẵn sàng khăn gói quả mướp, chờ
ngày lên đường bị tống xuất trở về quê cũ. Vì mới cách đây vài năm tại
tiểu bang California, chính quyền tiểu bang hợp tác với chính quyền liên
bang, đã khám phá ra cùng một lúc, nhiều cặp vợ chồng giả vờ lấy nhau
(Fraud Marriage), nhưng không hề ăn ở với nhau một ngày nào và để áp
dụng đúng theo Luật Di Trú Hoa Kỳ (US Immigration Law) đã quy định, thì
tất cả những người phạm pháp này, đều bị truy tố ra Toà Án Di Trú (US
Immigration Court) xét xử.
Nếu can phạm ở đây có quốc tịch, thì chỉ lãnh bản án đi nghỉ mát nhiều
năm trong nhà tù, còn nếu can phạm chỉ là thường trú nhân thôi, thì sau
khi đã mãn hạn thời gian nghỉ mát ở tù về, thì có thể sẽ bị Sở Di Trú
trục xuất đương sự trả về nguyên quán, riêng những can phạm từ nước
ngoài vào, thì bị tạm giam để chờ ngày lên đường về quê cha đất tổ. Tôi
vừa mới nói tới đây, chưa kịp giải thích thêm, thì chị đã chạy nhào tới
ôm chặt lấy tôi trong vòng tay của chị, ngả đầu lên vai tôi, khóc nức
nở, làm ướt đẫm chiếc áo chùng thâm của tôi đang mặc trên người và lần
này không còn phải là trái bom nổ chậm đặt dưới nệm ghế tôi đang ngồi
nữa, mà hình như có ai đang chích mũi thuốc mê vào người tôi, đưa tôi
vào thế mê hồn trận, nên tôi không còn biết trời trăng mây nước ra sao
nữa, rồi chị cứ vừa khóc vừa tỉ tê kể lể tràng giang đại hải bên tai
tôi, nào là em đã thương yêu Cha từ nhiều năm nay rồi, em biết rõ có một
số Linh Mục đã được Giáo Quyền cho phép cởi áo tu sĩ ra ngoài đời lập
gia đình có sao đâu, lấy vợ đâu có phải là một hành động xấu xa gì, trái
lại hành động này là một hành động can đảm, đáng phục, vì dám công khai
thú nhận một sự thật tình yêu công chính, không việc gì phải sợ sệt, dấu
diếm trước giáo hội và trước giáo dân của mình. Như thế, rõ ràng trường
hợp của Cha, nếu Cha bằng lòng lấy em làm vợ, là vì lòng nhân từ bác ái
của Cha, để cứu giúp một thiếu phụ với 2 đứa con còn nhỏ dại vượt trùng
dương hàng ngàn dặm, để đến được bến bờ tự do hạnh phúc, chứ đâu có phải
vì Cha ham mê sắc dục hay vì mê gái 2 con trông mòn con mắt của em đâu,
mà đến nỗi làm Cha phải xin từ bỏ chiếc áo chùng thâm để lấy em và nếu
sự việc này cho rằng Cha phạm tội trước mặt Chúa, thì hoàn toàn lỗi tại
em vì em đã cám dỗ Cha, chứ Cha đâu có cám dỗ em, Chúa biết rõ từng sợi
tóc trên đầu của mỗi người, nên Chúa sẽ hiểu rõ việc làm này của Cha, vì
con người ta chỉ có thể che mắt thế gian, chứ không thể nào che mắt Chúa
được v.v.....
hình minh họa
Mà thôi, đúng là ma đưa lối quỷ đưa đường, cứ tìm những phút dặm trường
mà đi, sự thể đã ra nông nỗi này rồi, biết nói gì hơn, một khi đôi con
tim của hai kẻ đã cùng nhau hoà chung một điệp khúc tình ca bất hủ, mà
những ai thương yêu nhau vẫn còn nhớ câu hát: Thương Nhau Cởi Áo Cho
Nhau, Về Nhà Mẹ Hỏi Qua Cầu Gió Bay. Thế là tôi đành phải nhắm mắt đưa
chân, để thề hứa với chị, là sau khi tôi được giáo quyền cho phép cởi bỏ
chiếc áo chùng thâm này ra, thì tôi sẽ quay trở về VN cưới chị làm vợ
chính thức và đem 3 Mẹ con chị sang đoàn tụ với tôi ở Hoa Kỳ.
hình minh họa
Đúng 1 năm sau, sau khi
tôi được Giáo Quyền cho phép tôi trở thành thường dân, tôi đã giữ đúng như
lời thề hứa trước kia với chị và tôi đã trở về VN cưới chị làm vợ và đã đưa
cả 3 Mẹ con chị sang Hoa Kỳ chung sống với tôi. Đến lúc này, tôi mới hiểu rõ
rằng, trong mỗi một cuộc sống của con người trên trần thế, dù lập gia đình
hay sống độc thân, trong mọi hoàn cảnh khác biệt nhau và trong mọi môi
trường sinh sống khác biệt nhau, mỗi người đều phải trả cho cái giá đắt hoặc
rẻ của nó, mà mỗi người đã tự chọn lựa môi trường cho cuộc sống của mình.
Nhưng ngay bây giờ,
nếu ai hỏi tôi : Nên
Lập Gia Đình hay Nên Đi Tu,
thì tôi thực tâm sẽ trả lời họ rằng: Nên Đi Tu thì hơn, như người ta
thường nói Tu Là Cõi Phúc, Tình Là Giây Oan. Vì tôi là người đã có diễm
phúc được từng trải nhiều năm sống trong 2 môi trường khác biệt nhau
này, mà nhờ đó, tôi mới biết rõ đời sống vợ chồng không đơn giản như tôi
nghĩ khi tôi còn đang trong thiên chức Linh Mục. Quả thật đúng như câu
nói: Có nằm trong chăn mới biết chăn có rận và giờ đây, làm tôi nhớ lại
những lời nhắn nhủ chân thành của một Linh Mục lớn tuổi, mà tôi kính
trọng Ngài như người Anh Cả của tôi, đã nói với tôi trước ngày tôi về VN
lần đầu:
Tôi biết Cha có một đời sống rất thánh thiện ( Religious life) với lòng
tự tin mãnh liệt (Strongly self-confident) vào Đấng Quyền Năng Tối Cao
sáng tạo ra trời đất và con người chúng ta, đó là 2 yếu tố tiên quyết,
cần phải có đối với những vị tu hành thuộc bất cứ tôn giáo nào, mà Cha
đã có, nhưng trên thực tế, nếu có 2 yếu tố này vẫn chưa đủ sức lực, để
chống chọi lại những cạm bẫy cám dỗ của đồng tiền và tình dục, mà chúng
ta luôn luôn cần phải ý thức và tự cảnh giác lòng mình trước những cạm
bẫy cám dỗ này, kẻo không, chúng ta sẽ bị rơi vào cạm bẫy, rồi tới lúc
đó lại đổ vạ cho ma quỷ cám dỗ chúng ta. Vậy xin Cha hãy ghi nhớ 2 câu
nói sau đây trong đời sống tu hành của chúng ta là:
Phòng Bệnh Hơn Chữa Bệnh và Lúa Chín Đầy Đồng, Nhưng Thợ Gặt Thì Ít, chứ
không thiếu như nhiều người tưởng lầm. Nhiều lúc ngồi một mình thầm lặng
để suy ngẫm lại những lời nhắn nhủ này, tôi mới cảm thấy thấm thía cho
cuộc đời hiện tại của tôi.
Phó Tế Nguyễn
Mạnh San
Cựu Phụ Tá Trưởng
Phòng Tố Tụng
Đặc Trách Luật Sư Đoàn
Liên Bang và Nhập Tịch
Toà Án Liên Bang Hoa
Kỳ
Oklahoma City, Oklahoma
LTS: Nước Mắt Làm Ướt Áo Nhà Tu Kỳ I, tác giả: Phó tế Nguyễn Mạnh
San mô tả một Linh Mục từ Hoa Kỳ về Việt Nam, quen biết một gia đình
có 3 mẹ con, mẹ goá con côi túng thiếu quá, ba mẹ con phải lao động
cực nhọc cũng không đủ miếng ăn. Vị LM thấy thương hại hai đứa nhỏ
bèn ra tay cứu giúp, hàng tháng ông gửi tiền về nuôi hai đứa nhỏ ăn
học. Hai đứa trẻ ngoan và học rất giỏi mà ông nhận là con nuôi, mỗi
kỳ hè ông đều về thăm mẹ và luôn thể thăm hai đứa con nuôi ở cùng
vùng. Qua 5 năm, mọi chuyện vẫn bình thường. Sang năm thứ 6, mẹ 2
đứa trẻ đề nghị LM làm hôn thú giả với cô để cô và 2 con sang Hoa Kỳ
cho hai đứa trẻ tiếp tục học vì chúng học rất giỏi. LM sững sờ vì
lời đề nghị táo bạo, ông từ chối thẳng thừng, giải thích cho người
mẹ quá thương con ấy, rằng gian dối sẽ ở tù, còn nàng và hai đứa con
sẽ bị đuổi trở về VN. Nàng thương con không biết tính sao và vì thất
vọng và xúc động quá nhào tới ôm lấy chân LM xin giúp đỡ, đồng thời
thú nhận là nàng đã yêu ông từ 6 năm nay. Linh mục chịu thua định
mệnh… Sau đó hai người kết hôn, LM cởi áo dòng. Câu chuyện của Phó
Tế Nguyễn Mạnh San chấm dứt ở đây.
Nhà Văn BX Trần Đình Ngọc đọc truyện này. Ông cho rằng chuyện chưa
thể kết thúc được và ông viết tiếp đoạn sau hầu quí độc giả, bằng
vào những kinh nghiệm quí báu ông đã sống, đã suy nghĩ, kinh qua.
Mời quí Diễn Đàn thưởng thức.
(Phó tế là chức phụ tá Linh Mục trong nghi thức phụng vụ của đạo Công
giáo, tuy nhiên không được chủ tế lễ Misa và giải tội.)
Tôi giấu kín không cho ai biết, nhất là mẹ tôi, câu chuyện giữa tôi và
Hồng Trang, góa phụ đã 38 tuổi, mẹ của hai đứa con nuôi của tôi, Phuơng
Hà và Quốc Dũng.
Về thăm mẹ một tháng mỗi kỳ hè, sẵn có xe, tôi đi thăm nhiều Linh
Mục bạn trong vùng, nhiều thánh đường mà lúc nhỏ tôi đã đi qua hay
vào viếng Thánh Thể. Tôi cũng đã thăm lại Đại chủng viện Thánh Giuse
đường Cường Để nơi tôi đã bắt đầu chương trình Thần học. Mẹ tôi đã
75 tuổi, còn minh mẫn và khoẻ mạnh, có cô Lựu ngoài 60 cũng goá
chồng chục năm nay ở với mẹ tôi bầu bạn nên cũng đỡ cô đơn. Chú Lựu
khi xưa làm canh điền cho ông tôi, một vị Chánh tổng được tiếng là
thanh liêm và thương dân ở vùng này. Bố tôi qua đời sau chú Lựu vài
năm, khi tôi đã dâng thánh lễ mở tay. Tôi còn người cậu là em mẹ
thỉnh thoảng khi về VN tôi tới thăm. Hai chị gái của tôi đi lấy
chồng và ở xa, ít khi tôi gặp.
Một buổi tối bên ngọn đèn mờ tại phòng khách bày biện sơ sài tại
ngôi nhà nhỏ của Trang, sau khi chúng tôi ăn cơm xong, hai đứa trẻ
xin phép đi ngủ sớm. Hôm nay tôi nói với mẹ đi thăm người bạn nên
tối ngủ lại đó luôn. Chỉ còn tôi và Trang ngồi ở bộ bàn ghế dùng làm
bàn ăn và bàn học cho hai đứa trẻ.
Chiều chầm chậm rơi ở bên ngoài. Trời mùa hè cao và xanh, những đám
mây trắng đục phía sau nhà còn ửng mầu hồng của nắng chiều chưa đi
hết. Gió nhẹ trên các tàng cây xanh phía bên kia con sông nhỏ. Tiếng
mấy đứa trẻ vừa tắm vừa đùa trên khúc sông lẫn tiếng chân tay đập
bành bạch trên nước. Chiếc radio ở góc nhà đang hát nho nhỏ một bài
ca “nhạc vàng” của miền Nam khi xưa, bản “Trường tôi” hình như là
giọng ca Hồng Hảo.
Tôi sống tại miền Nam VN suốt quãng ấu thơ nên đã quen với loại
“nhạc vàng” này. Cha mẹ tôi di cư vào Nam tháng 10 năm 1954 với
người anh trai và hai chị gái của tôi. Hai năm sau tôi mới ra đời và
khi được 6 tuổi, bố cho tôi đi học ở một ngôi trường trong trại di
cư Ba Bèo, tỉnh Mỹ Tho. Hơn 10 tuổi, bố tôi gửi tôi vào Tiểu chủng
viện Vĩnh Long, với tính cách lưu học sinh chứ không phải đi tu.
Thời gian ấy bố tôi đã là một quân nhân Quân lực VNCH. Ông chỉ có
bằng Trung học nên được đi huấn luyện tại Đồng Đế và ra Sĩ quan
Trung đội trưởng.
Ở
lưu xá 5 năm, tôi được Ơn gọi, tôi không thích lập gia đình như bố tôi
và anh tôi mà lại nghĩ sau này tôi phải làm một điều gì tích cực để
phụng vụ Giáo Hội Chúa. Biến cố 30-4-1975 nổ ra như một quả bom nguyên
tử lúc tôi vẫn đang trong Chủng viện. Rồi người ta bắt các Chủng sinh ai
về nhà nấy. Tôi về Trung Chánh với cha mẹ nhưng cha tôi đã phải đi trình
diện học tập cải tạo tháng trước rồi. Mẹ xoay xở vay vàng cho tôi, gia
đình anh tôi, chị dâu và hai đứa cháu vượt biên. Chuyến đi vô cùng gian
khổ, chúng tôi đã gặp hải tặc Thái lan cả thảy 4 lần. Chúng bóc lột sạch
nhưng may chúng không giết ai. Chúng lôi phụ nữ ra hãm hiếp dã man nhưng
chị dâu tôi thoát vì chị lấy phân trát vào mặt, vào người, chúng tởm nên
tha cho chị. Khi tầu gần đến Indonesia thì bị bão. Sau nửa ngày chống
chỏi, con tầu khốn nạn vỡ toang. Anh tôi lấn bấn với vợ con nên chết
thảm cùng với vợ con anh. Tôi may mắn bám được một mảnh ván trôi dạt
trên biển suốt một đêm và nửa ngày rồi được tầu dầu của Mỹ cứu đem về
Galăng.
Sau gần một năm ở đảo, tôi được đi tị nạn tại Hoa Kỳ, sau đó tôi làm
đơn xin trở lại Chủng viện. Đức Giám mục tại Orange, California đã
cho phép tôi được tiếp tục tu học và năm tôi 32 tuổi tức 1988, tôi
được thụ phong Linh Mục.
Từ khi Hoa Kỳ bỏ cấm vận với VN, tôi đã liên lạc được với cha mẹ và
thỉnh thoảng gửi chút quà về (bằng tiền lương tháng của Linh Mục do
giáo phận trả) gọi là tấm lòng đứa con đối với cha mẹ già. Hai chị
gái tôi đi lấy chồng xa ở Hà lan và Na Uy, anh trai và vợ con anh đã
chết như đã trình bày ở trên nên cha mẹ tôi chỉ còn có tôi là niềm
an ủi tuổi già. Bố tôi khi xưa, sau khi anh tôi mất, bố tỏ ý không
muốn tôi đi tu tiếp mà xuất tu lập gia đình vì ông vẫn còn cái quan
niệm con trai phải sinh con nối dòng. Mẹ tôi lại khác, mẹ yểm trợ ý
muốn đi tu trọn đời của tôi. Bà còn nói, dâng cuộc đời cho Thiên
Chúa xứng đáng hơn ở bất cứ vị trí nào! Bà khuyên tôi đừng nghe lời
bố mà phải bền đỗ đến cùng. Bà thường lấy gương cha Diên ở Trung
Chánh, Hóc Môn, đã đi làm đám hỏi chờ ngày cưới nhưng rồi cha đổi ý
đi tu và trở thành Linh Mục rất đạo đức.
Tôi được Đức Giám Mục giáo phận Orange bổ nhậm về làm Phó Xứ xứ đạo
St Patrick gần Laguna Beach. Công việc nơi giáo xứ mới rất bề bộn
nhưng nhờ ơn Chúa giúp sức và tuổi trẻ hăng say vì lý tưởng, tôi đã
qua vượt nhiều trở ngại được Đức Giám mục lưu ý và khen ngợi. Cuộc
sống Linh mục bình thường và êm ả cho đến khi tôi về VN năm đó gặp
hai đứa nhỏ nghèo khổ cùng với mẹ chúng, và lòng bác ái muốn giúp
người nổi lên…
Kể từ bữa Hồng Trang quì xuống ôm lấy chân tôi van xin tôi thương ba
mẹ con nàng, đây là buổi tối đầu tiên chúng tôi ngồi tâm sự với nhau
như một cặp vợ chồng, cặp vợ chồng mới cưới thì đúng hơn. Tim tôi
đập thụi thụi trong lồng ngực, còn Hồng Trang, nhìn nét mặt nàng tôi
cũng đoán ra nàng hồi hộp không kém.
Hồng Trang mặc rất giản dị: cái quần đen, áo ngắn mầu hồng có
đăng-ten trắng viền quanh cái cổ trắng mà cao trông ngây thơ như
thiếu nữ mới đôi mươi. Tóc đen mun vẫn để dài, bỏ xõa xuống hai bên
ngực trông càng hấp dẫn. Hồng Trang không son phấn hay chỉ là một
lượt phấn rất nhẹ, một chút son môi nhưng toàn thân nàng toát ra một
vẻ đẹp hiền hậu và đức hạnh, các cô gái ở Việt Nam mà tôi đã gặp ở
Sàigòn, Bình Thuận ngay cả Huế…không thể so sánh. Cái dở của nhiều
cô là tô son trát phấn quá nên mặt như mặt tượng, còn chi là vẻ đẹp
tự nhiên. Mà tôi thì chỉ thích những cái tự nhiên, không hồ tảo,
nhân tạo. Cũng buổi tối hôm nay tôi mới nhận ra Hồng Trang có sắc
đẹp kín đáo, đức hạnh nhưng mặn mà.
Sau vài chén trà ác-tí-sô khô Hồng Trang nói do ông bác ở Lâm Đồng
gửi về cho, bằng một giọng trầm buồn nhiều đoạn xúc động phải ngưng,
Hồng Trang kể cho tôi nghe về cuộc đời gian nan của nàng.
Cha mẹ đã mất cả khi Hồng Trang còn là một bé gái 10 tuổi đầu. Chiến
tranh vẫn tàn phá mọi nơi, đêm vẫn nghe tiếng đại bác đùng đoàng gần
xa. Gia đình Hồng Trang sống trong lo sợ buồn bã. Đời sống thiếu
thốn và gian nan đến tận cùng. Có đêm cha cõng Hồng Trang chạy ra bờ
ao nằm chết dí bên bụi rậm, chờ cho êm tiếng chân người đi ở ngoài
đường và tiếng súng, rồi mới lại vào nhà. Cũng có đêm hai bố mẹ và
Hồng Trang phải lội xuống ao ẩn trốn khi nghe những tiếng người đi
ruồng bắt gọi nhau ở ngoài đường. Mùa hè còn đỡ, mùa đông lạnh thấu
xương cũng vẫn phải trầm mình xuống nước. Có khi chỉ để cái mũi thò
lên để thở còn cả cái đầu chìm trong nước cho đến khi hai bên thù
địch đã bỏ đi, cha mẹ và Hồng Trang mới lóp ngóp bò lên về nhà.
Cũng chính là chiến tranh đã cướp đi hai người thân yêu nhất đời của
Hồng Trang. Từ đó, được cậu đưa về nuôi, cậu là em của mẹ Hồng Trang,
rất thương yêu cháu nhưng bà mợ quá cay nghiệt. Ba đứa con bà, bà cho đi
học nhưng bà bắt Hồng Trang ở nhà làm việc nhà phụ với bà. Ông cậu
thương Hồng Trang, bảo với vợ là nên cho cháu đi học vì cháu cũng như
con, cha mẹ nó đã mất, tứ cố vô thân, chỉ còn cậu và mợ là nguồn nuôi
dưỡng và an ủi.
Vì ông cậu nói nhiều quá, bà mợ phải cho Hồng Trang đi học, nhưng chỉ
được 2 năm, sau khi hết lớp 8, bà lại bắt Hồng Trang ở nhà nuôi lợn vớt
bèo, nấu cơm cho thợ gặt làm mùa.
Hồng Trang học rất giỏi vì thông minh và có trí nhớ tốt, luôn đứng
hạng cao trong lớp. Lớp đông cả 70, 80 học sinh nhưng Trang luôn
đứng trong 5 người đầu. Chính sự học hành giỏi giang và giữ điểm
hạnh kiểm cao của Hồng Trang hơn hai đứa con gái của bà nhiều nên bà
ghét và đày đọa Hồng Trang. Sau này Hồng Trang cứ hối hận mãi là nếu
biết vậy thì học thường thường thôi, không quá xuất sắc thì bà mợ có
thể sẽ cho học hết Trung học đệ nhất cấp tức lớp 9 thời VNCH. Có
bằng Trung học lúc đó có thể xin thi vào thư ký hành chánh, nếu
trúng tuyển ấy là no ấm. Có bằng tiểu học xin thi vào thư ký đánh
máy, trúng tuyển cũng bảo đảm được đời sống mà công việc vừa sức,
không phải giãi nắng dầm mưa.
Một điểm nữa làm bà mợ ghét bỏ Hồng Trang. Ấy là ở tuổi dậy thì, con
gái thường có má hồng, mông cong, ngực nở, mắt ướt long lanh, chân
tay tròn trịa hấp dẫn thì hai cô con gái bà mợ, chẳng biết có cái
gene của ai mà môi thâm mắt trắng, người như que củi, chẳng thanh
niên nào đá động trong khi Hồng Trang đi ra ngoài sửa soạn một chút
thì đám trai thị trấn bu đông, anh nào cũng có vẻ thích Hồng Trang.
Một bữa, bà mợ lựa lúc ông cậu đi vắng, bà gọi Hồng Trang lên phòng
khách, bảo ngồi xuống một cái ghế rồi bà giẽ giàng nói:
“Trang cũng biết cậu mợ thương cháu thế nào. Đối xử như con, cho đi
học đi hành cho bằng người. Nay cháu đã lớn, cũng đã học xong lớp 8,
cậu mợ muốn cháu phải ra ngoài tự lập thân thì sau này mới khá được.
Cậu mợ đã hỏi hai bác Diễn ở chợ huyện, đây lên đó không xa, cháu sẽ
lên hai bác Diễn ở với hai bác từ ngày mai. Làm công việc nhà và coi
vài đứa nhỏ con bác. Công xá để bác liệu trả cho cháu không bị thiệt
chứ ở với cậu mợ mãi, cháu không có tiền. Vậy chiều nay sắp xếp cái
giỏ quần áo rồi sáng mai đi. Nếu mợ rảnh thì mợ đưa cháu đi, còn
không thì mợ chỉ đường cho cháu. Mợ cho vài hào đáp xe Lam lên kiếm
đúng số nhà là thấy.”
Hồng Trang vừa nghe đã sửng sốt cả người. Từ thuở bé chưa đi đâu chỉ
ở nơi nhà cậu mợ, nay ra ngoài không biết lành dữ ra sao đây? Nhưng
sao cậu không nói chuyện này mà lại là mợ. Trang hỏi mợ:
“Thưa mợ, thế cậu đâu sao cậu không cho con hay?”
“Cậu đi công tác 3 ngày mới về mà chờ cậu về thì trễ nên cậu bảo mợ
cho cháu hay.”
Hồng Trang nghi ngờ là có lẽ mợ đã tự ý làm chuyện này khi cậu đi
vắng. Lúc cậu về thì sự đã rồi. Thôi cũng đành nhắm mắt đưa chân,
người ta không cho ở nữa thì phải đi chứ biết sao hơn.
Gia tài cơ nghiệp của Hồng Trang chỉ là một cái túi nhỏ đựng hai bộ
quần áo, một cỗ tràng hạt mẹ cho từ ngày mẹ còn sống giữ mãi đến
giờ, một cái lược, bàn chải và kem đánh răng, một hộp nhỏ đựng kim
và chỉ may vá để lỡ vá áo quần rách, và mấy tấm ảnh của bố mẹ.
Sáng hôm sau, dạy lúc 6 giờ như mọi bữa, Hồng Trang đã thấy bà mợ
sắp cơm cho Trang ăn đặng lên đường.
(còn tiếp)
Bút Xuân Trần Đình Ngọc