SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
“Người
động lòng thương”
con người
khổ đau
Thiên Chúa đã tạo
dựng nên con người có cả hồn lẫn xác. Bởi nguyên tội, thân xác của con người
không còn được hưởng những ơn tự nhiên của tình trạng công chính nguyên thủy
nữa, tức không phải cực nhọc làm ăn, phải đớn đau và bị chết. Trong lời hứa cứu
độ của mình ngay sau nguyên tội, Thiên Chúa Hóa Công đã bao gồm việc cứu độ con
người cả hồn lẫn xác, nơi Con của Ngài là Đấng theo thời gian "đã hóa thành nhục
thể" (Gioan 1:14), ở chỗ "vào thời điểm viên trọn, được sinh ra bởi một người
nữ" (Galata 4:4), với một bản tính của con người, đã Vượt Qua từ khổ nạn
tử giá đến phục vinh vinh hiển, hoàn toàn chiến thắng tội lỗi và sự chết.
Là giòng dõi nhiễm
lây nguyên tội, cho dù đã được lãnh nhận Phép Rửa, được tái sinh, con người vẫn
còn đó mầm mống của nguyên tội là đam mê nhục dục và do đó vẫn phải hứng chịu
hậu quả của nguyên tội là đau khổ khi còn sống và chết đi khi đã hết thời. Cảm
nghiệm đau khổ nơi con người, về cả hồn lẫn xác, đều là bóng dáng của chết chóc,
và đạt đến tột đỉnh của nó nơi chết chóc. Thái độ con người luôn trốn tránh đau
khổ, như phòng bệnh hơn chữa bệnh hay nếu nhỡ bị bệnh thì tìm cách chữa trị,
thậm chí tìm cách tận diệt đau khổ, như triệt sinh an tử, triệt sinh trợ tử,
triệt sinh tự tử v.v. cũng cho thấy rằng họ muốn được hạnh phúc.
Không ai hiểu hơn con
người bằng chính Đấng đã tạo dựng nên họ và cũng là Đấng thực sự muốn cứu chuộc
họ, muốn giải thoát họ, muốn thỏa đáng những gì họ khát vọng nhưng tự mình họ
hoàn toàn vĩnh viễn bất lực, không thể tự cứu mình và không thể tự vượt thoát
khỏi tình trạng làm nô lệ cho xác thịt, tình trạng bị thiên nhiên tạo vật chi
phối, sống trong một tâm trạng liên lỉ mong được cứu thoát khỏi mọi gian nan
khốn khổ của mình.
Ý định thần linh hằng
muốn chữa lành con người và tâm trạng luôn muốn được chữa lành của con người, ở
đây, đã gặp nhau trong câu chuyện được Thánh ký Marcô thuật lại về một
trong những phép lạ đầu tay Chúa Giêsu thực hiện đối với một người phong hủi chỉ
vì "Người động lòng thương", thương anh ta bị một chứng bệnh nan y ghê tởm và là
một con người đã biết mình đến hạ mình "quì xuống van xin" Người là Đấng "có thể
làm cho tôi được sạch".
Theo thứ tự của trình
thuật được Thánh ký Marcô thuật lại này thì tâm trạng "Người động lòng thương"
nơi Chúa Giêsu chỉ xẩy ra sau cử chỉ khiêm hạ thiết tha "quì xuống" kèm theo
ngôn từ rất tôn trọng và đầy tin tưởng "nếu Ngài muốn" của nạn nhân bị chứng
phong hủi, và do đó, đúng như lòng mong muốn của anh, phép lạ đã xẩy ra: "'Tôi
muốn, anh sạch đi!' Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch".
Sự kiện nạn nhân bị
phong cùi này được chữa lành, sau đó liền bất tuân những gì Đấng chữa lành cho
anh căn dặn, nhất là vấn đề đầu tiên: "coi chừng, đừng nói với ai cả...", cũng
thật là dễ hiểu và rất đáng thông cảm, vì dầu sao cũng cho thấy nỗi vui mừng hớn
hở quá sức tượng tượng của anh ta, một con người đã hoàn toàn được giải
phóng sau một quãng đời tàn tật phong cùi, hình hài biến dạng hay dị dạng, bị
mọi người khinh chê ghê tởm xa lánh, tưởng không bao giờ thoát được thân phận vô
phúc ấy nữa, nay bỗng nhiên được chữa lành, như chết mà sống lại, thì làm sao có
thể cầm nén mà không la lên, không bộc phát mãnh liệt, không công khai loan
truyền v.v.
Thế nhưng, trường hợp
"Người động lòng thương" nạn nhân phong cùi ở đoạn đầu của Phúc Âm Thánh Marcô
hoàn toàn khác hẳn với trường hợp "Chúa động lòng thương" được Thánh Luca thuật
lại trong Phúc Âm của mình liên quan tới bà góa thành Nain. Ở chỗ, Người tự động
ra tay làm ơn cho bà chứ bà ta không hề xin Người, hay cũng có thể bà ta bấy giờ
không hề biết Người ở đó mà van xin Người hoặc không dám phiền đến Người vì con
bà đằng nào cũng đã chết rồi.
Tại sao lại có sự khác nhau giữa hai trường hợp "động lòng thương" này nơi Chúa Giêsu như thế? Căn cứ theo bề ngoài thì Người có vẻ thương bà góa hơn là nạn nhân phong cùi, mà về hình thức thì nạn nhân phong cùi đáng thương hơn, bởi anh ta chịu một chứng bệnh ghê tởm trước mặt xã hội loài người, còn bà thì hình thù vẫn lành mạnh, mà chỉ bị mất đi đứa con trai duy nhất của bà thôi, tức là cái đau khổ của bà ở trong tâm hồn so với đau khổ của nạn nhân phong cùi ở phần xác.
Tuy ai cũng có một
nỗi đau khổ riêng, nhưng nếu so sánh giữa hai con người này, căn cứ vào hoàn
cảnh của mỗi người, thì bà góa thành Nain đáng thương hơn. Ở chỗ, cho dù thân
xác của bà không bị tàn tật và trở thành ghê tởm như nạn nhân phong cùi, nhưng
đứa con trai duy nhất của cuộc đời góa bụa của bà có thể nói là chính lẽ sống
của bà, đến độ bà không thể nào sống mà không có nó, nên mất nó là mất tất cả
mọi sự, và vì thế tâm trạng đớn đau của bà vượt hơn cái khổ của nạn nhân phong
cùi.
Tâm trạng "Chúa động
lòng thương" nơi trường hợp bà góa thành Nain không phải chỉ nguyên căn cứ vào
tình trạng đớn đau và tâm trạng mất mát tất cả của bà, mà còn gây ra bởi một
nguyên nhân sâu xa hơn thế nữa, một nguyên động lực thẳm sâu không ai có thể
biết được ngoài chính mình Người, đó là, trước mắt của Chúa Giêsu bấy giờ, bà
góa thành Nain này đã tự nhiên gợi lên trong lòng Người hình ảnh về một Mẹ Maria
góa bụa sau này cũng sẽ bị mất đi đứa con duy nhất là chính Người.
Đó là lý do, Thánh ký Luca đã ghi nhận một cách thứ tự và chi tiết tuy vắn gọn nhưng đầy ý nghĩa về những gì Chúa Giêsu làm và nói như sau: "trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: 'Bà đừng khóc nữa!'" Trước hết là Chúa Giêsu đã "trông thấy bà", sau đó Người mới "động lòng thương", rồi đã tự động tiến đến nói với bà như để vừa an ủi vừa trấn an bà rằng: "bà đừng khóc nữa!"
"Chúa động lòng
thương" vì "trông thấy bà" chứ không phải thấy quan tài của đứa con trai của bà,
vì bà là hình ảnh của Mẹ Maria sau này cũng sẽ mất Người là người con trai duy
nhất của Mẹ. "Chúa động lòng thương" bà xong thì lên tiếng nói rằng "bà đừng
khóc nữa", vì nước mắt của bà cũng gợi lên cho Người hình ảnh Mẹ của Người khóc
thương Người dưới chân thập tự giá sau này. Chưa thấy một ai, trong các nạn nhân
được Người cứu chữa, thường về phần xác hơn là tâm thần, đã được "Chúa động lòng
thương" một cách tự động, ân cần và thân thiết như bà góa thành Nain chỉ đau
buồn về tâm thần này. Quả thực "Người là Đấng biết được tâm tưởng của họ (bà)"
(Luca 9:47).
Chắc bấy giờ người mẹ
góa đang khóc thương đứa con trai duy nhất vừa chết đi không bao giờ hai mẹ con
còn được nhìn thấy nhau và sống với nhau như ngày nào nữa nhìn vào vị nói với
mình điều ấy xem là ai mà lại nói những điều gở lạ bất khả chấp như thế. Và
người mẹ góa bị mất đi đứa con trai duy nhất của mình ấy vẫn còn đang ngỡ ngàng
chưa kịp phản ứng gì thì vị ấy đã tiến "lại gần, sờ vào quan tài", khiến "các
người khiêng dừng lại" quan sát xem sao, để rồi tất cả đều nghe Người trịnh
trọng truyền khiến cái thây ma của cậu con trai được sinh ra từ người mẹ của
mình bấy giờ đã bị góa lại càng đơn côi lẻ loi cô độc, rằng: "'Này người thanh
niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy!' Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Ðức
Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng:
'Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm
dân Người'".
Trong cả hai trường
hợp "động lòng thương" này của Chúa Giêsu, nhất là trường hợp của bà góa thành
Nain, đúng như dân chúng là thành phần đã chứng kiến thấy phép lạ Người hồi sinh
cho cậu con rai của bà góa mà còn thấy được cả tấm lòng cảm thương của Thiên
Chúa là Đấng đã sai Người nữa: "Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng
ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người".
Như thế, tất cả những
gì Chúa Giêsu Kitô làm đều xuất phát từ tình thương của Người, một tình thương
hoàn toàn phản ảnh Đấng đã sai Người "giầu lòng xót thương" (Epheso 2:4), "Đấng
nhân hậu và xót thương" (Giacôbê 5:11), Đấng luôn ở với Dân của Ngài - "viếng
thăm dân Người" trong suốt giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ, cho dù họ có bất trung
phản bội Người, nhưng càng bị họ phản bội Người lại càng lợi dụng để tỏ tất cả
mình ra cho họ, cho đến chỗ tột đỉnh ở nơi Chúa Kitô, để nhờ đó họ có thể nhận
biết Người thực sự là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Thiên sai là Chúa
Giêsu Kitô.
Tuy nhiên, vấn đề
thực tế sống đạo ở đây là, tự bản chất yếu duối và thân phận khổ đau chết chóc
của mình, chúng ta đã đáng Chúa thương, và chúng ta cũng cảm thấy vô cùng vinh
dự vì được chính Thiên Chúa vô cùng thương yêu một cách nhưng không và cho đến
cùng cho dù chúng ta vô cùng bất xứng, thế nhưng chúng ta có thực sự để cho Ngài
thương chúng ta hay chăng, hay chúng ta lại sợ Ngài yêu, vì chúng ta nghiệm thấy
rằng ai càng được Ngài yêu càng khổ: "Cành nho nào sinh trái thì Cha Thày cắt
tỉa đi cho càng sai trái hơn" (Gioan 15:2).
Còn ai được Cha yêu
bằng Con thế mà còn ai khổ bằng Con của Ngài, Đấng "đã không dung tha cho Con
mình" (Roma 8:32), đến độ "Chúa Trời con ơi, Chúa Trời con ơi, sao Ngài lại nỡ
bỏ rơi con" (Mathêu 27:46)!
Và cũng chính vì được
Thiên Chúa yêu thương vô cùng như thế mà con người có bổn phận phải yêu thương
tha nhân như được Ngài yêu (xem Gioan 13:34, 15:12, đến độ họ phải hy hiến mạng
sống mình vì anh chị em của mình (xem Gioan 15:13), một hành động họ không thể
nào dám làm nếu họ không được Ngài chiếm đoạt và sống trong họ, một tình trạng
thần linh tuyệt hảo họ chỉ đạt được chỉ khi nào họ hoàn toàn tin tưởng vào tình
yêu vô cùng nhân hậu của Ngài, "Giêsu ơi, con tin nơi Chúa!", để Ngài được tự do
yêu thương họ và toàn quyền tác hành trong họ, và qua họ để Ngài có thể bày tỏ
tất cả sự thật nơi Con Ngài: "Người động lòng thương".
Một tâm hồn thực sự
được chiếm đoạt bởi tình yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa chắc chắn không thể
nào chỉ cảm thương những người anh chị em hèn mọn nhất của Chúa (xem Mathêu
25:42,45) như khi nghe tin tức bất hạnh về họ, mà còn mau mắn bày tỏ lòng thương
của mình bằng hành động cụ thể bao nhiêu có thể, như cầu nguyện, hy sinh đóng
góp, hay trực tiếp dấn thân cứu trợ trong tầm tay.
Chúa Giêsu, chẳng
những "Người động lòng thương" mà Người còn "giơ tay đụng vào" người phong
cùi đang hết lòng tin tưởng van xin Người cứu chữa, hay Người vừa trấn an người
mẹ góa "bà đừng khóc nữa, vừa giải quyết khốn khổ cho bà bằng cách "lại gần, sờ
vào quan tài" của cậu con trai duy nhất của người mẹ góa đang khóc lóc thương
tiếc con mình và thân phận hẩm hịu bất hạnh của mình.
Có thế, chúng ta mới thể hiện hay bộc lộ được phần nào
nơi bản thân mình và tha nhân tất cả thực tại "Thiên Chúa là tình yêu" (1Gioan
4:8,16) mỗi khi "Người động lòng thương".
Đaminh Maria Cao Tấn
Tĩnh, BVL
(Bài này đã được Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp phổ biến
trong Số Báo 2/2016 Năm Thánh Tình Thương)