SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
“Người
động lòng thương”
con người
lạc lõng
Dự án cứu độ và công cuộc cứu độ của Thiên Chúa cho thấy Ngài quả thực muốn cứu
con người cả hồn lẫn xác. Như Chúa Kitô đã làm cho xác cho Lazarô hồi sinh để
làm cho những ai chứng dự bấy giờ tại hiện trường, bao gồm cả các tông đồ lẫn
dân chúng, nhận biết mà được sự sống đời đời về phần hồn (xem Gioan 11:1-41).
Hay như trong trường hợp của người nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Người
chẳng những cứu chị khỏi chết về phần xác mà còn làm cho thành phần tố cáo chị
biết mình hơn về phần hồn nữa (xem Gioan 8:1-11).
Tuy nhiên, trong việc chữa lành phần xác của con người, Chúa Kitô cũng đã nhắm
đến sự sống đời đời của chính nạn nhân nữa, ở chỗ, nhờ được chữa lành mà họ nhận
biết để được sự sống đời đời (xem Gioan 17:3). Về trường hợp bà góa thành Nain
(xem Luca 7:11-17), Chúa Kitô chẳng những hồi sinh về phần xác cho cậu con trai
duy nhất của bà, nhờ đó Người làm cho dân chúng chứng dự bấy giờ về phần hồn
nhận biết Thiên Chúa, mà Người còn chữa lành cả tâm thần buồn thương của người
mẹ góa vì vĩnh viễn bị mất đi những gì đã từng là lẽ sống của bà.
Cũng vậy, trong hai bài Phúc Âm được Thánh ký Mathêu
thuật lại, một ở đoạn 9 và một ở đoạn 14, liên quan đến tác động "Người chạnh
lòng thương", cũng bao gồm hai phương diện nơi con người, phương diện tâm linh,
khi thấy họ "lầm than vất vưởng" bơ vơ lạc lõng (đoạn 9), và phương diện thể
xác, bị bệnh nạn tật nguyền cùng mệt mỏi đói khát (đoạn 14). Thế nhưng, ở cả hai
trường hợp này, "Người động lòng thương" không phải chỉ tập trung vào từng cá
nhân nữa, cho dù Người luôn lợi dụng cá nhân để nhắm đến lợi ích của nhiều người
liên hệ bấy giờ, mà là chung dân chúng. Đó là lý do tại sao Thánh ký Mathêu đã
viết rất rõ ràng rằng: "Ðức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương"
(9:36); "Ðức Giêsu trông thấy một đám người
đông đúc thì chạnh lòng thương"
(14:14).
Đúng thế, cho dù Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai của dân Do Thái, nhưng đồng thời
Người cũng là Chúa Cứu Thế của toàn thể nhân loại. Và chính vì Người là Đấng
Thiên Sai của dân Do Thái mà là Chúa Cứu Thế của nhân loại. Bởi Chúa Cứu Thế
được Thiên Chúa hứa ban cho chung loài người sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên
3:15) thuộc giòng dõi Do Thái, như gia phả về trần gian của Con Thiên Chúa làm
người đã chứng thực: một gia phả được Thánh ký Mathêu thuật lại ngay ở đầu cuốn
Phúc Âm ngài viết cho dân Do Thái, một gia phả được liệt kê từ tổ phụ Abraham
của dân này xuống cho tới Chúa Kitô (xem 1:1-17), và một gia phả được Thánh ký
Luca thuật lại ngay sau biến cố Chúa Kitô lãnh nhận phép rửa ở Sông Dược Đăng
(Jordan) trong cuốn Phúc Âm ngài viết cho Dân Ngoại, một gia phả được liệt kê từ
Chúa Kitô ngược về tận nguyên tổ Adong của chung loài người (xem 3:23-38).
Theo Lịch Sử Cứu Độ thì dường như Thiên Chúa yêu thương
dân Do Thái hơn Dân Ngoại, vì họ là thành phần dân được Ngài tuyển chọn giữa các
dân tộc trên thế giới này để Ngài tỏ mình ra cho họ, làm cho họ nhận biết Ngài
mà được sống. Thế nhưng, nếu chủ đích tối hậu của Thiên Chúa là cứu độ toàn thể
loài người thụ sinh, trong đó có cả dân Do Thái, được Ngài tạo dựng nên theo
hình ảnh của Ngài và tương tự như Ngài ngay từ ban đầu (xem Khởi Nguyên 1:26),
thì dân Do Thái chỉ là đường lối, là phương tiện được Ngài dùng để qua họ Ngài
có thể đến với chung loài người, tỏ mình ra cho loài người, nhờ đó Ngài hoàn
thành dự án cứu độ của Ngài là vị "Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý. Và chân lý đó là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, và chỉ có
một vị trung gian duy nhất là con người Giêsu Kitô, Đấng đã hiến mình làm giá
chuộc cho tất cả mọi người" (1Timothêu 2:4-6).
Hình ảnh "đám đông" ở hai đoạn Phúc Âm của Thánh ký Mathêu được "Người động lòng
thương" đây, ở một khía cạnh nào đó và một nghĩa nào đó, bao gồm cả "đám đông"
nhân loại nữa, vì nếu dân Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn và luôn ở với họ mà
còn ở trong tình trạng, như Thánh ký Mathêu viết "lầm than vất vưởng, như bầy
chiên không người chăn dắt" (9:36), thì Dân Ngoại lại càng đáng thương hơn họ
gấp bội phần, vì Dân Ngoại khát vọng chân thiện mỹ nhưng lại sống đa thần theo
niềm tin thiển cận chủ quan của họ, bởi họ đâu có được ai chăn dắt như dân Do
Thái.
Thật vậy, dân Do Thái là thành phần dân luôn được Thiên Chúa chẳng những
sai ngôn sứ của Ngài đến nhắc nhở họ sống đúng với giao ước của Ngài, mà còn sử
dụng thành phần vua chúa được các vị tiên tri xức dầu để lãnh đạo họ về đời theo
ý muốn của Ngài, cũng như thành phần tư tế để đại diện họ và cùng với họ tôn thờ
Thiên Chúa theo đúng các qui định của Ngài trong lề luật v.v. Dân Ngoại, mang
bản tính loài người bị nhiễm mắc nguyên tội như dân Do Thái, chẳng lẽ không bị
bệnh hoạn tật nguyền như dân Do Thái và đói khát mệt mỏi như dân Do Thái hay
sao, để được "Người động lòng thương" như dân Do Thái hay hơn dân Do Thái.
Phải chăng vì họ, cho dù có mục tử đó, thành phần được
Thiên Chúa sai đến với họ, nhưng họ vẫn không chấp nhận thành phần lãnh đạo của
họ, như họ "đã không chấp nhận" Lời Nhập Thể của Ngài (xem Gioan 1:11)?
Hay là phải chăng họ bị thành phần lãnh đạo của họ làm
gương mù gương xấu, hay họ được thành phần lãnh đạo của họ chăn dắt họ theo
đường sai nẻo xấu, bao gồm cả Moisen là vị được Thiên Chúa dùng để giải phóng họ
khỏi cảnh làm tôi bên Ai Cập, và Đavit là vị vua được gọi là Thánh Vương với một
đời sống gương mẫu nhất trong Chư Vương?
Bằng không tại sao chính Chúa Giêsu đã phải vừa phủ định vừa khẳng định rằng:
"Tất cả những ai đến trước đều là trộm cướp" (Gioan 10:8), chỉ duy mình Người
mới chính là Đấng "đến cho chiên được sự sống và là sự sống viên trọn" (Gioan
10:10), vì "Tôi là mục tử nhân lành; vị mục tử nhân lành hiến mạng sống mình vì
chiên" (Gioan 10:11).
Bằng không nhà giải phóng Moisen, về đặc ân, đâu có
phải là con người duy nhất được Thiên Chúa tỏ danh tính của Ngài ra cho (xem
Xuất Hành 3:14), đâu có quyền năng khiến Vua Pharaon buộc phải để dân Do Thái
rời đất nước Ai Cập (xem Xuất Hành các đoạn 5-11), đâu có được một mình trong
dân thông dự vào cuộc thần hiển vô cùng uy linh của Thiên Chúa ở Núi Sinai
(xem Xuất Hành đoạn 19 và 33), và đâu có được đại diện dân Do Thái để lãnh nhận
2 bia đá Thập Giới của Thiên Chúa trên Núi Sinai (xem Xuất Hành đoạn 34), về tư
cách đâu để có thể can thiệp hiệu nghiệm vào việc ngăn tay công thẳng của Thiên
Chúa muốn hủy diệt dân Do Thái khi họ bỏ Ngài mà thờ con bò vàng (xem Đệ Nhị
Luật đoạn 9), và về nhân đức đâu thể nào gánh vác nổi đám dân cứng cổ Do Thái
đến độ được Thánh Kinh khen là "người hiền nhất loài người trên mặt đất này"
(Dân Số 12:3). Thế mà ông vẫn không được vào Đất Hứa, chỉ vì một lần duy nhất
không hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, "không trung thành với Ta trong việc
tỏ sự thánh thiện của ta ra trước mắt dân Yến Duyên (
Bằng không Thánh Vương Đavít, một con người chẳng những mãnh liệt tin tưởng vào
Thiên Chúa, qua việc đơn phương, với thân mình nhỏ bé và chẳng trang bị giáp y
và vũ khí mà dám ngang nhiên giáp đấu với tên đại cao thủ khổng lồ Goliat trang
bị hùng hậu đầy mình, mà vẫn vẻ vang thắng được đối thủ vô địch thiên hạ bấy giờ
(xem 1Samuel 17:32-51), mà còn đầy lòng bác ái, nhất là đối với chính Vua Saulê
là người ghen với Đavít sau chiến thắng oanh liệt đối với tên Goliát và đã hai
lần đích thân lùng giết Đavít cô thân yếu thế, nhưng cả hai lần Đavít cho dù có
cơ hội hạ sát vị vua của mình một cách dễ dàng mà vẫn không nỡ ra tay vì kính
trọng vua là đấng đã được thiên Chúa xức dầu (xem 1Samuel đoạn 24 và 26). Thế mà
Thánh Vương Đavít cũng đã từng chẳng những phạm tội ngoại tình với vợ của bày
tôi của mình mà còn mưu sát chồng của bà ta nữa (xem 2Samuel đoạn 11).
Cho dù vị giải phóng dân Do Thái là Moisen, hình ảnh của Đấng đến giải phóng
nhân loại, cũng là tiền thân của Chúa Kitô mà ông tiên báo "Chúa là Thiên Chúa
của các người sẽ làm nổi lên cho anh em trong số con cháu của các người vị tiên
tri như tôi" (Đệ Nhị Luật 18:15), và cho dù Thánh Vương Đavít có là vương tổ của
Chúa Kitô chăng nữa (xem Luca 1:32), và cho dù cả hai nhân vật Moisen và Đavít
này có không bị vướng mắc phải một chút (như trường hợp của Moisen) hay khá trầm
trọng (như trường hợp Đavít), đến độ trở thành một trong "những kẻ đến trước đều
là trộm cướp" (Gioan 10:8), phá hoại, hủy hoại, thì ngược lại, các vị cũng không
thể nào có thể và có đủ tư cách mang lại "sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan
10:10) cho chiên của mình như Chúa Kitô, vị mục tử nhân lành đã hiến mạng sống
vì chiên, đã Vượt Qua!
Trong cả 2 bài Phúc Âm liên quan đến tâm trạng "Người động lòng thương" của Chúa
Kitô đối với chung đám đông dân chúng, Người đã bày tỏ lòng thương của Người qua
các tông đồ ở cả 2 trường hợp, và vẫn tiếp tục như thế qua Giáo Hội của Người
trong giòng lịch sử của con người. Thật vậy, vì "động lòng thương" dân chúng
"lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt" mà "Người nói với môn
đệ rằng: 'Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt
sai thợ ra gặt lúa về'". Ở Phúc Âm Thánh ký Marcô, cùng đoạn tương đương với
Phúc Âm Thánh Mathêu này, Thánh ký Marco còn cho biết cách thức Chúa Kitô bày tỏ
tâm trưởng "động lòng thương" của Người ở chỗ "Người bắt đầu giảng dạy họ thật
dài" (Marco 6:34).
Cũng vì "động lòng thương" dân chúng bệnh hoạn, còn đói khát nữa, con số lên đến
5 ngàn người đàn ông, như trong Phúc Âm Thánh Mathêu ghi nhận (14:14), cũng
như đã được ghi chú kỹ hơn nữa trong Phúc Âm Thánh Marco ở đoạn 4 ngàn
người, liên quan đến lý do Chúa Kitô ra tay làm phép lạ bánh hóa ra nhiều lần 2
đó là "vì cho đến nay họ đã theo Thày 3 ngày rồi mà không có gì ăn" (Marco 8:2).
Tuy nhiên, trong cả 2 lần bánh hóa nhiều này, Chúa Kitô đều cần đến sự cộng tác
của các tông đồ. Ở chỗ, các ông cần cung cấp cho Người những gì tối thiểu nhất
của các ông và phân phát đi tất cả dồi dào của Người.
Trong Huấn Từ Truyền Tin trưa Chúa Nhật ngày 3/8/2014, Đức Thánh Cha Phanxicô đã
dẫn giải bài Phúc Âm này rất hay như sau:
“Trước đám đông vây quanh mình, đến độ có thể nói rằng
‘không để cho Người yên’, Chúa Giêsu đã không phản ứng một cách khó chịu. Người
không nói rằng: ‘đám dân này làm phiền Ta!’ Không. Không. Người đã phản ứng bằng
một cảm xúc xót thương, vì Người biết rằng họ không tìm kiếm Người bởi tò mò, mà
là vì nhu cầu. Hãy lưu ý: cảm
thương là những gì Chúa Giêsu cảm thấy chứ không phải chỉ cảm thấy thương hại. Nó
còn hơn thế nhiều! Nghĩa là có cảm tình, tức là cảm xúc trước nỗi khổ đau của
những người khác cho đến độ tự mang lấy nó vào thân! Chúa
Giêsu là như thế! Người cùng với chúng ta chịu khổ, Người chịu khổ với chúng ta,
Người chịu khổ cho chúng ta.
“Dấu hiệu của lòng cảm thương này ở nơi nhiều lần Người đã ra tay chữa lành. Chúa
Giêsu dạy chúng ta hãy đặt nhu cầu của người nghèo trước nhu cầu của chúng ta.
Các nhu cầu của chúng ta, cho dù là chính đáng, không bao giờ được khẩn trương
bằng các nhu cầu của người nghèo là những con người không có cả những cái cần để
sống nữa. Chúng ta thường nói
về người nghèo, thế nhưng khi chúng ta nói về người nghèo chúng ta có cảm thấy
rằng những con người nam nữ ấy, những em bé ấy, không đủ sống hay chăng? Họ
không có lương thực để ăn, họ không có quần áo để mặc, họ không có thuốc men để
uống, thậm chí trẻ em không có cơ hội đến trường? Vì thế, nhu cầu của chúng ta
cho dù có hợp tình hợp lý đến đâu vẫn không bao giờ khẩn trương bằng những nhu
cầu của thành phần nghèo khổ, những con người thiếu cả những gì thiết yếu để
sống.
“Trước tiên lòng cảm thương là những gì Chúa Giêsu cảm thấy, và rồi sau đó
là chia sẻ. Thật là hữu ích khi so sánh phản ứng của các môn đệ, trước đám dân
chúng mệt mỏi và đói khát, với phản ứng của Chúa Giêsu. Các vị tỏ ra dửng dưng.
Các môn đệ nghĩ rằng giải tán họ thì tốt hơn, nhờ đó họ có thể đi mua đồ ăn.
Trái lại, Chúa Giêsu lại nói: ‘Chính các con hãy cống hiến cho họ ăn gì đi’. Hai
phản ứng khác nhau, phản ảnh hai thứ lý lẽ đối nghịch, ở chỗ, các môn đệ thì lập
luận theo trần gian là thứ lập luận ai cũng cần phải nghĩ đến bản thân mình. Các
vị phản ứng như thể các vị muốn nói rắng: ‘Ai
có thân thì người ấy lo - fend for yourselves!’
“Trái lại, Chúa Giêsu lại nghĩ theo lý
lẽ của Thiên Chúa, thứ lý lẽ của chia sẻ. Biết
bao lần chúng ta quay mặt đi để khỏi nhìn thấy anh em của chúng ta đang thiếu
thốn cần thiết. Việc quay đi này là một cách nói lịch sự phủi tay rằng: ‘Có thân
thì lo lấy - fend for yourselves’. Thái độ này không phải là thái độ của Chúa
Giêsu. Đó là thái độ vị kỷ!
“Nếu Người giải tán đám đông dân chúng thì rất nhiều người sẽ phải bỏ về bụng
trống. Trái lại, một ít ổ bánh và cá ấy, được Chúa chia sẻ và chúc phúc, đã trở
thành đầy đủ cho hết mọi người. Hãy chú ý: đây không phải là một màn ảo thuật
che mắt, mà là một ‘dấu lạ - sign’! Một dấu lạ mời gọi lòng tin tưởng vào Thiên
Chúa là Người Cha quan phòng, Đấng không để chúng ta thiếu ‘lương thực hằng
ngày’, nếu chúng ta biết chia sẻ nó như là những người anh chị em với nhau! Hãy
Thương cảm, hãy Chia sẻ”.
Việc "Người động lòng thương" dân chúng "lầm than vất vưởng, như bầy chiên không
người chăn dắt", bằng cách sai các tông đồ đi rao giảng nước trời cho dân chúng,
và việc "Người động lòng thương" dân chúng "đã theo Thày 3 ngày rồi mà không có
gì ăn", bằng cách đóng góp công của từ các tông đồ, tất cả đều cho thấy nhu cầu
cần thiết của thừa tác vụ được Chúa Kitô ủy thác cho Giáo Hội trong sứ vụ loan
truyền Lòng Thương Xót Chúa và ban phát Lòng Thương Xót Chúa như các "chứng nhân
về những điều ấy" (Luca 24:48) cho chung nhân loại, nhất là cho riêng thành phần
"anh chị em hèn mọn nhất của Thày" (Mathêu 25:40,45).
Nếu ngày xưa dân Do Thái, trong con mắt Chúa Kitô, mà còn "lầm than vất vưởng,
như bầy chiên không người chăn dắt" và còn "không có gì ăn", thì con người ngày
nay còn lạc loài đến đâu, tới độ họ hầu như hoàn toàn đã bị tước lột trần
trụi căn tính nhân bản đích thực của mình bởi quyền lực độc đoán của chủ nghĩa
tương đối duy nhân bản và duy thực dụng, khiến tâm linh của họ cảm thấy đói khát
bất khả lấp và bất khả dồn nén hơn bao giờ hết, cho dù họ có no thỏa với đủ mọi
thứ văn minh vật chất chưa từng thấy và hưởng thụ đủ mọi thứ tiện nghi thoải
mái. Bởi thế, cũng như xưa kia, thành phần thừa tác viên của Lòng Thương Xót
Chúa và cho Lòng Thương Xót Chúa vẫn là những gì bất khả thiếu để hiện thực tất
cả những gì "Người động lòng thương" cũng như vào bất cứ lúc nào "Người động
lòng thương".
Tóm lại, “Người động lòng thương” con người lạc lõng ngay từ ban đầu nơi 2
nguyên tổ, ở chỗ họ đã đi tìm kiếm những gì ngoài ý muốn của Thiên Chúa, nên
Người đã nhập thể để làm Chủ Chiên nhân lành của họ, đến độ đã hiến Thánh Thể
cho chiên được sự sống và là sự sống viên mãn (xem Gioan 10:10).
Đaminh Maria Cao Tấn
Tĩnh, BVL
(Bài này đã được Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp phổ biến
trong Số Báo 3/2016 Năm Thánh Tình Thương)