Nguyễn Văn Bon, PhD (UWS)
Muc đích của bài viết nầy nêu lên những nét nhân bản của chương trình
môn quốc văn bậc tiểu học của nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa trước 1975.
Rất tiếc, sau biến cố 30 tháng 4, năm 1975, nhà cầm quyền ra lịnh tiêu
hủy các loại sách của Miền Nam kể cả sách giáo khoa môn quốc văn các
cấp. Do đó, việc sưu tập các sách quốc văn cũ rất khó khăn.
Tài liệu sử dụng trong bài nầy gồm Bộ quốc văn giáo khoa thư, Luân lý
giáo khoa thư do các nhà xuất bản nước ngoài tái bản, và một số bài
trong các sách quốc văn bậc tiểu học được giảng dạy tại các trường miền
Nam được vài nhà sưu tầm đưa lên trang mạng “internet”(không ghi ngày
tháng), thêm vào đó một số bài do trí nhớ hạn chế của người viết, nên
chắc chắn những điều trình bày còn thiếu sót.
I. Dẫn nhập
Mục đích của giáo dục không phải chỉ truyền thụ những kiến thức, mà là
đào tạo con người toàn diện, không thể tách rời kiến thức và đạo đức.
Đạo đức làm người phải được đề cao, như đức hiếu thảo, yêu thương gia
đình, ông bà cha mẹ, yêu thương họ hàng thân tộc, có lương tâm trong mọi
sinh hoạt, có trách nhiệm với tha nhân, góp phần bảo vệ cuộc sống cho xã
hội.
Muốn đạt được mục đích nầy, không thể không quan tâm đến vai trò của sách
giáo khoa.
Khi đề cập đến vai trò của sách giáo khoa bậc tiểu học, nhiều nhà giáo
dục luôn nhắc đến bộ sách Quốc văn giáo khoa thư của quí ông Trần trọng
Kim, Đổ Thận, Nguyễn văn Ngọc và Đặng đình Phúc, xuất bản từ những năm
1930 – 1940, là một trong những cuốn sách giáo khoa Việt ngữ được dạy ở
các trường tiểu học Việt Nam trong suốt những thập niên thuộc nửa đầu
thế kỷ 20.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, nước Việt Nam tạm thời chia đôi ở vĩ
tuyến 17, thành hai miền Nam, Bắc. Miền Bắc xây dựng một nền giáo dục
theo chủ thuyết Mac-Lênin , hướng mục tiêu đến Chủ nghĩa xã hội .
Trong khi đó, tại Miền Nam theo chính thể tự do. Các nhà giáo dục Miền
Nam tỏ ra rất thận trọng. Họ chủ trương cải tổ từ từ, chọn lọc để thích
ứng với hoàn cảnh mới. Những gì người Pháp thiết lập không bị hủy bỏ
ngay. Hệ thống giáo dục Pháp từ cấp tiểu học đến đại học được từ từ Việt
hóa.
Chương trình giáo dục Việt Nam cũ ban hành năm 1945, dưới thời chính phủ
Trần trọng Kim, được gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn vẫn còn áp dụng
cho đến giữa thập niên 1950. Dưới thời Đệ nhứt Cộng Hòa, chương trình
Việt mới bắt đầu thay thế chương trình Pháp.
Nhờ quyết định đúng đắn và thận trọng của những nhà giáo dục miền Nam mà
sự chuyển sang một nền giáo dục mới không bị trục trặc.
Một lớp học cấp tiểu học của Việt Nam Cộng Hòa trước 1975
Riêng chương trình môn Quốc văn bậc tiểu học, dựa theo nội dung các bài
học về đạo đức trong bộ sách Quốc văn giáo khoa thư và Luân lý giáo khoa
thư làm cơ sở rồi soạn một chương trỉnh phù hợp với hoàn cảnh mới, nhằm
rèn luyện cho thế hệ tương lai cả đức lẫn tài để chuẩn bị trở thành
những con người hữu dụng đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Theo chủ trương, một chương trình, nhiều sách giáo khoa, chỉ cần theo
chương trình và hướng dẫn của Bộ Giáo dục, các
soạn giả sách giáo khoa được tự do chọn bài, trích dẫn từ
những tác phẩm của những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng hoặc có thể tự mình
sáng tác những bài thơ, bài văn theo chủ đề giảng dạy để đưa vào sách,
và giáo viên cũng có quyền chọn quyển sách giáo khoa để giảng dạy. Nhờ
vậy, các soạn giả cố gắng để soạn ra những sách giáo khoa có giá trị.(1)
Thông thường, ở trang bìa của quyển sách, soạn giả ghi: “Soạn theo
chương trình hiện hành của Bộ Quốc gia Giáo dục”…Có thể kể một số tên
sách như: 100 bài tập đọc Lớp Nhứt và Lớp Nhì (Một Nhóm Giáo Viên. NXB:
Việt Hương), Nhị thập tứ hiếu (Lý văn Phức.NXB: Bình dân thư quán), Quốc
văn Lớp Nhì, Quốc văn Lớp Nhứt (Một nhóm Giáo viên. NXB: Việt Hương),
Quốc văn toàn thư, Lớp Ba (Phạm trường Xuân & Yên Hà –Kinh Dương & Một
Nhóm giáo viên.NXB: Việt Hương), Việt ngữ tân thư, Lớp Nhất, Việt Ngữ
Tân Thư, Lớp Nhì (Bùi văn Bảo, Bùi quang Minh. NXB: Sống Mới), Việt văn
Tân thư, Lớp Nhì (Bùi văn Bảo, Bùi quang Minh. NXB: Sống Mới), Việt văn
Toàn thư (Bùi văn Bảo, Bùi quang Minh. NXB: Nhật Tảo), Tân Việt Văn, Lớp
Bốn (Bùi văn Bảo. NXB: Sống Mới), Quốc văn Toàn Tập, Lớp Nhất (Bùi văn
Bảo, Đoàn Xuyên. NXB: Sống Mới), Giảng văn, Lớp Đệ Thất (Đỗ văn Tú, NXB:
Việt Nam Tu Thư) Tiểu Học Nguyệt san (NXB: Nha Học Chánh Bắc Việt) (2)
Ngoài những sách giáo khoa, giáo viên có thể sử dụng những tác phẩm của
những nhà văn có uy tín để bổ sung cho bài học trong lớp, như cuốn Tâm
Hồn Cao Thượng (nguyên tác Grand coeurs của Edmond de Amicis. Dịch giả:
Hà Mai Anh, 1952. NXB: Mai Đình), Thơ ngụ ngôn (Les Fabres de la
Fontaine, Dich già: Nguyễn văn Vĩnh)…
Trong phạm vi bài viết ngắn, xin trích dẫn một số bài học về bổn phận
đối với xã hội trong các sách “Quốc văn Giáo khoa Thư”, “Tâm Hồn Cao
thượng” và một số sách giáo khoa của tác giả khác. Những bài học nói lên
tinh thần nhân bản của nền giáo dục miền Nam trước năm 1975. Bài viết
gồm:
* Khái niệm về nhân bản và triết lý nhân bản của nền giáo dục Miền Nam
trước năm 1975.
* Nội dung các bài học mang tính nhân bản trong sách quốc văn bậc tiểu
học.
II. Khái niệm về nhân bản và triết lý nhân bản của nền giáo dục Miền Nam
trước năm 1975.
Từ năm 1959, nền giáo dục Miền Nam (Việt Nam Cộng Hòa) đã lấy nguyên tắc
căn bản: Nhân
bản, Dân tộc và Khai phóng làm triết lý giáo dục, và được ghi
lại trong hiến pháp 1967.
Ba nguyên tắc căn bản: Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng là mục đích và
tôn chỉ của nền giáo dục Miền Nam. Chính những nguyên tắc nầy đã giữ cho
truyền thống dân tộc được bảo tồn và phát triển vững vàng, nhưng không
bảo thủ, và từng bước theo kịp đà tiến triển của nhân loại.
Nền giáo dục nhân bản
lấy con người làm gốc, tôn trọng giá trị của con người, đề
cao giá trị siêu việt của con người. Con người khác hơn các sinh vật
khác, con người có suy tư, có sáng tạo và làm cho đời sống càng ngày
càng nâng cao. Con người cần được no cơm ấm áo, tự do tín ngưỡng, tự do
tư tưởng.
Trong xã hội có những
cá nhân khác biệt, nhưng không thể đánh giá con người qua sự khác biệt
đó để kỳ thị giàu nghèo, giới tính, tôn giáo, địa phương,
chủng tộc…
Mọi người đều được
hưởng đồng đêu về giáo dục (3). Đường hướng của nền giáo dục
nhân bản là rèn luyện con người có nhân cách, có thái độ sống phù hợp
với nguyên tắc đạo lý mà mọi người thừa nhận.
Do đó, một con người có nhân cách sẽ có lòng yêu thương: yêu gia đình,
yêu đồng bào đồng loại và yêu quê hương đất nước. Nói cách khác, giáo
dục không phải chỉ dạy kỷ năng nghề nghiệp hay kiến thức mà phải dạy làm
người.
III. Nội dung các bài học mang tính nhân bản trong sách quốc văn bậc tiểu
học
Nội dung, tư tưởng trong các sách giáo khoa tác động đến hình thành và
phát triển nhân cách của trẻ thơ, nó in sâu vào tâm não trẻ thơ ngay
trong giai đọan đầu cắp sách đến trường cho đến lúc trưởng thành.
Các sách giáo khoa bậc tiểu học của Miền Nam (Việt Nam Cộng Hòa) trước
1975 chú trọng những vấn đề luân lý đạo đức truyền thống, vẫn hàm chứa
nội dung đạo đức trong các sách giáo khoa cũ của thế hệ 1940.
Sau đây là một số bài tiêu biểu về tình thương yêu đồng bào, đồng loại,
lòng biết ơn đối với mọi người trong xã hội, tình yêu quê hương đất nước
và tình yêu nhân loại.
1. Tình thương yêu đồng bào, đồng loại
Từ buổi đầu dựng nước và giữ nước, người dân Việt Nam đã trải qua biết
bao gian nan thử thách. Tổ tiên chúng ta đã đối mặt với những hoàn cảnh
khó khăn phức tạp, vừa khắc phục mọi trở lực khắc nghiệt của thiên nhiên
để mở mang bờ cỏi giang san, vừa phải chiến đấu giữ nước, chống kẻ thù
mọi phía, đặc biệt là thế lực hùng mạnh phương bắc. Để tồn tại và phát
triển, tổ tiên chúng ta đã ý thức cần phải đoàn kết thật sự, cần phải
nương tựa vào nhau và thương yêu nhau như những người con cùng một mẹ.
“Một cây làm chẳng
nên non,
Ba cây chụm lại nên
hòn núi cao”
Tinh thần đoàn kết nầy tạo thành truyền thống lưu lại cho con cháu mai
sau.Theo truyền thống của người Việt Nam, tình thương yêu không chỉ dành
cho trong gia đình, mà mở rộng đến cả đồng bào và đồng loại. Một giá trị
tốt đẹp của con người là lòng nhân đạo. Muốn sống cho đúng nghĩa, con
người phải biết thương yêu lẫn nhau. Khi thấy người hoạn nạn, đau yếu
phải giúp đỡ bằng tình thương yêu chân thành. Quốc văn giáo khoa thư
mượn bài thơ trong gia huấn ca để dạy học sinh:
Thấy người hoạn nạn
thì thương,
Thấy người tàn tật
lại càng trông nom,
Thấy người già yếu ốm
mòn,
Thuốc thang cứu giúp,
cháo cơm đỡ đần.
Trời nào phụ kẻ có
nhân,
Người mà có đức, muôn
phần vinh hoa
Nguyễn Trãi (Gia
huấn ca)
Có nhiều câu ca dao tục ngữ ẩn chứa triết lý tỉnh thương được giảng dạy
trong nhà trường, đã in sâu trong tâm khảm người Việt Nam:
“Lá rành đùm lá rách”
“Thương người như thể
thương thân”
“Một con ngựa đau cả
tàu không ăn cỏ”
“Nhiễu điều phủ lấy
giá gương,
Người trong một nước
phải thương nhau cùng” (4)
Người trong một nước phải thương yêu nhau như con một nhà. Bài học về
“Cậu bé miền Nam” trong quyển Tâm hồn cao thượng đã dạy học sinh về lòng
thương yêu, không phân biệt Bắc Nam.
Một cậu bé miền Nam lên miền Bắc theo học. Được thầy giáo giới thiệu với
các học sinh trong lớp, và được các học sinh nhiệt tình chào đón.
Thầy giáo nói với cả lớp:
“….Cho được các kết quả nói trên, nghĩa là làm cho đứa bé xứ Nam ra ở xứ
Bắc cũng như ở nhà mình, và đứa bé ở xứ Bắc vào xứ Nam cũng tựa như về
quê mình, nước ta phải chiến đấu trong 50 năm trời và đã hy sinh trên ba
vạn người Ý mới khôi phục được quyền tự do ấy. Vậy các con phải coi nhau
như con một nhà, yêu nhau như anh em ruột thịt. Kẻ nào thấy người bạn
mới không phải là người xứ mình mà đem lòng khinh rẻ, kẻ ấy không xứng
đáng ngẩng mặt nhìn ngọn quốc kỳ đi qua…” (5)
Các bài học về tình thương yêu đồng bào, đồng loại đã nhắc nhở học sinh
phải tôn trọng mạng sống của con người, có lòng nhân ái, biết trọng của
người và không vọng ngữ. Đây là thước đo tiêu chuẩn đạo đức, nhân cách
của con người
1.1. Tôn trọng mạng sống của con người
Mạng sống của các sinh vật rất quí .Mạng sống của con người có giá trị
tối cao. Nếu mỗi cá nhân biết quí mạng sống của mình, thì không thể xem
thường mạng sống của kẻ khác. Một dân tộc được coi là văn minh là một
dân tộc biết đề cao giá trị nhân phẩm của con người. Một người có lòng
lương thiện không bao giờ sát hại đến sinh mạng của đồng loại và sinh
mạng của cả sinh vật khác. Chỉ có con người dã man mới coi thường mạng
sống của con người. Không sát sinh là cách chận đứng lòng tham dẫm lên
sinh mạng con người và sinh vật để mưu cầu tư lợi cho bản thân mình.
Không sát sanh còn là nuôi dưỡng lòng trắc ẩn, từ bi đối với muôn loài.
“Trọng cái tính mệnh
của người ta, là đừng làm điều gì phạm đến thân thể và quyền tự do của
người ta. Người ta ở đời, không có gì trọng hơn cái tính mệnh, hễ phạm
đến, là một tội đại ác.
Không những là giết
người mới có tội, cậy quyền cậy thế mà hà hiếp người ta, làm mất cái
quyền tự do của người ta, cũng là một điều trái với lẽ công bình, người
có lương tâm không ai làm” (6)
1.2. Lòng nhân ái
Không phạm đến tính mệnh, của cải, danh giá, sự tự do và sự tín ngưỡng
của người.Nhưng đó chỉ là giữ không làm điều ác mà thôi. Như thế vẫn
chưa đủ bổn phận làm người. Phải có lòng nhân ái.
Nhân ái là lòng từ thiện, thương người đói khát, giúp người hoạn nạn. Có
lòng nhân ái, thì mới làm những việc như bố thí, cứu giúp kẻ nghèo khổ,
mới biết thân yêu mọi người và quên mình mà làm điều thiện. Người có
lòng nhân ái dám hy sinh cứu người trong lúc nguy nan như người thầy
thuốc không sợ lây khi chữa những bịnh truyền nhiễm; người lính liều
sống chết ở chỗ chiến trường để giữ lấy nước nhà. Họ vì lòng nhân ái mà
ra sức làm nghĩa vụ.
“Bổn phận người ta
đối với xã hội, thường chia làm hai mối là: công bình và nhân ái. “Không
hại người” tức là công bình, “làm hay cho người” tức là nhân ái.
Câu “kỷ sở bất dục,
vật thi ư nhân” trong sách luận ngữ, tức là công bình. Còn nhân ái thì
ta có thể nói được rằng”: kỷ sở dục giả, khả thi ư nhân”
Người ta mà không công bình, chẳng những có tội đối với lương tâm, mà
luật pháp lại còn trừng trị nữa. Giết người thì phải thế mạng; trộm cắp
thì phải ngồi tù, xưa nay ở đâu cũng vậy.
Con người mà không có lòng nhân ái, thì tuy đối với luật pháp không có
tội lỗi, nhưng đối với lương tâm, thì là không phải. Gặp người đói khó,
mà mình không giúp người ta, cũng không ai bắt được mình, nhưng trong
bụng không đành. (7).
Người có lòng nhân ái thì không những là chỉ thương xót đồng loại mà
thôi, lại còn thương xót đến cả loài vật nữa.
“….Những loài vật đã giúp việc cho ta mà ta phải thương xót, là cái
nghĩa vụ của ta. Nhưng đối với loài cầm thú khác, ta cũng nên có lòng
nhân ái mới phải đạo làm người. Cầm thú tuy là giống không biết thiện ác
và phải trái như người, nhưng nó cũng biết đau, biết khổ như mình… (8).
Vì tình nghĩa đồng bào mà phát tâm bố thí, cứu giúp người đói khổ, hoạn
nạn; chia xẻ miếng ăn, manh áo cho người khốn khổ. Sống đạm bạc, cứu
giúp người đồng loại là hành đông của con người có lòng nhân ái.
Người có lòng nhân ái, không chỉ bố thí miếng cơm manh áo hay tiền bạc
khi thấy người đói khổ, mà vì:
“Nghĩa đồng bào khiến ta thương yêu mọi người như là thương yêu anh em
ruột. Bao giờ ta cũng sẵn lòng giúp đỡ mọi người, để người ta làm tròn
cái nghĩa vụ ở đời. Ta phải dạy bảo những người ngu dốt, khuyên người
làm điều lành, răn người làm điều ác. Ta nên che chở cho những người bị
oan ức và bênh vực những người hèn yếu. Ta phải ăn ở thế nào cho đứa con
mồ côi có thể coi ta như cha, người quá phụ coi ta như ân nhân. Ta làm
mắt cho kẻ mù, làm chân cho kẻ què, làm tai cho kẻ điếc.Lúc nào cũng sẵn
lòng nhân từ mà giúp đỡ mọi người trong lúc nguy hiểm (9)
Khi thấy ai nghèo đói, khổ sở, mình cho cơm ăn, áo mặc, hoặc cho tiền
bạc để giúp đỡ người ta đỡ khổ trong một lúc. Nhưng việc bố thí nầy phải
“…
tự nhiên, không cầu kỳ, không khoe khoang, mà có phần thiệt thòi cho
mình thì mới quí. Không cứ cho ít hay cho nhiều, miễn là mình có lòng
thành thực, biết thương xót kẻ nghèo khổ, thì mới là phải cái nghĩa bố
thí. (10)
Ngoài việc bố thí, “người
có lòng nhân ái thường hay nghĩ đến việc thiện, như là thấy ai nghèo khổ
thì đỡ đần, tìm công việc cho người ta làm, hoặc cứu giúp những cô nhi,
quả phụ cho người ta khỏi đói rét, vất vả. (11)
Lời một bà mẹ nói với đứa con trong bài “Kẻ khó” (Tâm Hồn Cao Thượng)
không chỉ làm rung động tâm hồn của trẻ thơ, mà ngay đối với người lớn
tuổi cũng không khỏi bùi ngùi.
Con ơi! Con phải biết
con có đủ cả, chứ kẻ khó thì thiếu hết. Khi con mong sao được sung sướng
thì người nghèo chỉ cầu sao cho khỏi chết. Trong một khu có bao nhiêu
nhà giàu, trong một phố có bao nhiêu người sang trọng qua lại, có bao
nhiêu đứa trẻ ăn mặc xa hoa, thế mà vẫn còn thấy nhiều đàn bà và trẻ con
đói khát, rách rưới! Thực đáng buồn thay! Muốn cho người ta khỏi chê
con là một kẻ vô tình thì từ sau, con đừng bước qua một kẻ khó mà không
cho gì! (12)
Bài thơ “Cách ăn ở” và
“Những đứa trẻ mồ
côi” là bài học luân lý về lòng nhân đạo mà học trò bậc tiểu học
được học nằm lòng. Khi thấy người hoạn nạn, đau yếu phải giúp đỡ bằng
tình thương yêu chân thành. (13)
Cách ăn ở
Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được
ăn lộc trời.
Thương người tất tả
ngược xuôi,
Thương người lỡ bước,
thương người bơ vơ.
Thương người ôm dắt
trẻ thơ,
Thương người tuổi tác
già nua bần hàn.
Thương người cô quả
cô đơn
Thương người đói rách
lẩm than kêu đường.
Thấy ai đói rét thì
thương,
Rách thường cho mặc,
đói thường cho ăn.
Thương người như thể
thương thân,
Người ta phải bước
khó khăn đến nhà.
Đồng tiền bát gạo
mang ra,
Rằng đây cần kiệm gọi
là làm duyên
Nguyễn Trãi
(Gia huấn ca)
Những đứa trẻ mồ côi
Có những con người
đang thời hoa nở,
Sống trong niềm đau
khổ: kiếp lầm than.
Cặp chân non ngày
tháng những lang thang,
Trên đường phố ngút
đầy bao gió bụi.
Tuổi niên thiếu dệt
trong ngàn sầu tủi,
Không gia đình, cha
mẹ, khát tình yêu.
Ôi long đong, thân
trẻ nhỏ sớm chiều,
Ngàn cực nhục cũng
chỉ vì cơm áo!
Tuổi niên thiếu lớn
dần trong khổ não,
Mặt trẻ trung đầy
những nét đau thương.
Sống lầm than, dầu
dãi nắng mưa sương,
Thân còm cõi không đủ
đầy nhựa sống.
Những trẻ ấy dưới bầu
trời cao rộng,
Đưa mắt nhìn thèm
khát cảnh yên vui.
Có chăng ai, chỉ một
phút ngậm ngùi,
Cho thân phận con
người xấu số.
Xuân Chính
(Tiểu học nguyệt san,
tháng 3/1959)
1.3. Trọng của người
Người lương- thiện,
có đạo đức là người biết trọng tài sản, của cải của người khác. Tài
sản là huyết mạch, liên hệ đến mạng sống của con người. Hãy bình tâm suy
nghĩ, chúng ta không muốn ai cướp đoạt tài sản của mình, thì không thể
nào chúng ta lại đi chiếm đoạt tài sản, của cải của người khác. Các hành
vi bất lương dùng đủ mọi mưu mô, mánh khóe, lường gạt để chiếm đoạt đều
là trộm cướp. Người đươc coi là đạo đức, dĩ nhiên là không trộm cướp,
không tán thành và không giúp đỡ những người có hành động trộm cướp.
Của cải của ai, là
người ấy có quyền chi dụng và có quyền để lại cho con cháu. Ta không nên
phạm đến của cải của người ta.
Không phải chỉ những đứa ăn trộm ăn cắp mới là người bất lương mà thôi.
Điên đảo giả dối để đánh lừa người ta, đi vay vỗ nợ, bắt được của rơi mà
không trả, cũng là bất lương cả.Ta phải biết rằng cái gì đã là không
phải của mình thì ta đừng đem lòng tham mà chực lấy không, vì rằng lấy
không của người ta, là một sự rất trái với đạo công bằng: (14)
1.4. Không vọng ngữ
Dùng lời lẽ, ngụy biện để làm sai lạc sự thật, nhầm đem lại lợi lộc cho
mình, làm hại người khác đều là nói dối, vọng ngữ. Người đạo
đức là người tôn trọng sự thật, không có tâm tham ác, không tán thành sự
nói dối. Chuyện không nói có, chuyện có nói không, dựa vào những nguồn
tin vu vơ để kết tội người khác là vọng ngữ.Trong gia đình và trong xã
hội mà con người thiếu lòng tin với nhau thì cuộc sống ấy vô cùng đau
khổ. Tuy nhiên cũng có những trường hơp vì mục đích cứu người lương
thiện, bất đắc dĩ phải nói lời không thật; đây là một ngoại lệ (một vị
Bác sĩ phải dùng lời an ủi bịnh nhân).
Không nói dối bao gồm cả không nói lời ác khẩu, nói xấu, nói vu, chửi
mắng, nhục mạ xúc phạm đến phẩm giá con người; không dùng lời trao
chuốc, phù phiếm nhầm làm cho người khác có suy nghĩ sai lầm, đi đến
hành động sai trái.
Sự nói xấu là cái tật cứ đi bới móc chuyện xấu của người ta mà nói.
Người nói xấu là có ác ý hoặc để thỏa lòng ghen ghét, hoặc để khoe cái
hay và che cái dở của mình. Người nói xấu là người hèn hạ đáng khinh, vì
chỉ nói những lúc vắng mặt người ta, để làm cho người ta mất danh giá.
Vậy không những ta không nên nói xấu ai, mà cũng không nên nghe chuyện
người ta nói xấu nhau (15)
Nói vu là đặt chuyện ra mà vu cho ai để hại người ta, hay là làm cho
người ta mất danh giá. Những người nói vu là người hèn mạt, bày đặt ra
chuyện nọ trò kia để làm cho người ta mang tai mang tiếng, phải những
điều oan ức, khó lòng mà rửa sạch được.
Ta đi học, đã biết
điều phải trái, thì ta chớ hề nói vu cho ai bao giờ. Ta nên cho những
điều ấy là điều hèn mạt, đáng khinh bỉ. (16)
Ngoài ra, chúng ta nên nhớ rằng:
Của-cải của người ta,
không phải chỉ nói riêng về tiền bạc, ruộng nương, nhà cửa, đồ đạc mà
thôi, lại có một thứ của cải quí giá hơn nữa là cái danh giá ở đời. Danh
giá tức là danh thơm tiếng tốt của người biết tự trọng mình, biết quí
cái tư cách làm người, mà khinh bi những điều hèn mạt đê tiện.Của cải
mất đi thì còn làm ra được, chớ cái danh giá đã mất thì khó lòng mà lấy
lại được. Thánh nhân dạy rằng “Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành
nhân chi ác”, nghĩa là người quân tử làm thành tiếng hay cho người, chớ
không làm thành tiếng xấu cho ai bao giờ. Vậy bổn phận mình trong xã hội
là phải trọng cái danh giá của người ta, đừng có nói xấu ai, nói vu cho
ai điều gì. (17)
2. Lòng biết ơn mọi người trong xã hội
Mọi người sống trong
xã hội đều có tương quan nhau. Do nương nhờ nhau mà cuộc sống
của mỗi cá nhân mới an ổn. Trong gia đình thì cha mẹ, vợ con, anh em
nương tựa nhau. Ngoài xã hội, mọi người không thể sống lẻ loi. Tách rời
mọi người ra, chúng ta không có cuộc sống an toàn. Cho nên đối với mọi
người, chúng ta phải biết ơn, không được làm tổn hại. Câu tục ngữ “Uống
nước nhớ nguồn,” nói lên tinh thần biết ơn, là truyền thống đạo lý của
con người Việt Nam.
Người làm ruộng có trồng trọt cấy cày, thì ta mới có thóc gạo mà ăn. Thợ
nề, thợ mộc có làm nhà, thì ta mới có nhà mà ở. Thợ dệt có dệt vải, thợ
may có may áo, thì ta mới có đồ mặc vào mình. Quyển sách ta học cũng
phải có người làm, người in. Cái đường ta đi cũng phải có người sửa,
người quét. Nói tóm lại, nhất thiết một chút gì ta cần dùng đến, cũng là
có người chịu khó làm việc mới nên. (18)
Thật vậy, trong xã hội muốn sinh tồn thì mọi người phải có bổn phận đem
sức mình giúp vào sự ích lợi chung. Bài “Giấc
mộng” dạy học sinh biết yêu mến và nhớ ơn mọi người.
Nằm mộng thấy nông phu lại bảo:
“Ra công làm kiếm gạo
từ đây.
Tao thôi chẳng có
nuôi mầy,
Phải lo trồng trọt
cấy cày cho siêng.”
Người dệt cửi dặn
mỉnh làm áo;
Chú thợ hồ lại bảo
cầm bay!
Bơ vơ chẳng kẻ đoái
hoài,
Tôi mang thơ thẩn đọa
nầy cùng nơi.
Tôi túng thế vái trời
cứu thử,
Lại thấy kia sư tử
trên đàng!…
Tỉnh ra, thấy sáng,
mơ màng!
Tiểu công hút gió,
rộn ràng trên thang;
Nghe máy dệt rần rần
tiếng chạy;
Ruộng đâu đâu cũng
cấy đã xong.
Phận mình nghĩ lại
thong dong,
Mới hay dưới thế ai
không nhờ người.
Từ ngày rõ cuộc đời
đắp đồi,
Cám thương người xã
hội như nhau.
Dập dìu kẻ trước
người sau,
Sức riêng một ít giúp
vào lợi chung.
Nguyễn ngọc Ẩn
(100 Bài Tập đọc, Lớp
Nhứt và Lớp Nhì)
Bài học “Nên giúp đỡ lẫn nhau” cho thấy hinh ảnh hai cậu bé phụ đẩy xe
giúp ông lão, là bài học nhắc nhở học sinh về tình tương thân tương ái.
Trời nắng to. Đường
thì dốc. Một ông lão đẩy chiếc xe lợn. Trên chiếc xe có có ba bốn con
lợn to, chân trói, bụng phơi và mồm kêu eng-éc. Ông lão cố đẩy cái xe,
mặt đỏ bừng, mồ hôi chảy, mà xe vẫn không thấy chuyển.
Mấy cậu bé đang chơi
trên bờ đê, thấy thế, vội chạy tới, xúm lại, buộc dây vào đầu xe mà kéo
hộ.
Xe lên khỏi dốc, ông
lão cám ơn các cậu và các cậu cũng lấy làm vui lòng, vì đã giúp được
việc cho người. (19)
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, những bậc tiền nhân đã đổ biết
bao nhiêu xương máu để vun bồi và tô điểm cho mảnh giang san gấm vóc. Họ
là những vị anh hùng dân tộc. Anh hùng, không phải chỉ có những người có
chiến công hiển hách, có tài năng nổi bật làm những việc phi thường được
ghi công trong sách sử, mà còn biết bao nhiêu người, đủ mọi tầng lớp,
mọi giai cấp đã âm thầm cống hiến đời mình cho quê hương dân tộc, không
bao giờ được nhắc đến tên tuổi. Họ là:
Anh Hùng vô danh
1. Họ là những anh
hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong
bóng tối mông mênh,
Không bao giờ được
hưởng ánh quang vinh,
Nhưng can đảm và tận
tình giúp nước.
2. Họ là kẻ tự nghìn
muôn thuở trước,
Đã phá rừng, xẻ núi,
lấp đồng sâu,
Và làm cho những đất
cát hoang vu
Biến thành một dãy
san hà gấm vóc…
3. Họ là kẻ anh hùng
không tên tuổi,
Trong loan ly như
giữa lúc thanh bình,
Bền một lòng dũng
cảm, chí hy sinh,
Dâng đất nước cả cuộc
đời trong sạch.
4. Tuy công nghiệp
không ghi trong sử sách,
Tuy bảng vang, bia đá
chẳng đề tên,
Tuy mồ hoang xiêu lạc
dưới trời quên,
Không ai đến khấn
nguyền dâng lễ vật.