GIÁO HỘI HIỆN THẾ 2017
TẢN MẠN ĐỜI THA HƯƠNG
Linh mục Giu se Nguyễn văn Thư
NHỚ VỀ CỘI NGUỒN GIÁO-HỘI MẸ VIỆT-NAM
Lời nói đầu :
Bà con tỵ nạn Cộng Sản Việt Nam lâu nay vẫn hãnh diện được Chúa chúc lành, sau khi trốn thoát được tới miền đất mới, mong rồi sẽ được hoàn toàn tự do 'giữ đạo'. Với các vị cao niên, tâm tình này vẫn còn khá sinh động trong đầu, tuy một số dần dần cảm thấy nó như yêu ớt đi phần nào. Thật ra ký ức luôn khó quên, nhất là mỗi khi cộng đoàn mừng lễ 'Các Thánh Tử Đạo Việt Nam', chúng ta thường được nghe nhắc lại cái con đường gai chông sỏi đá mà các vị truyền giáo từ Âu Châu mang tin mừng qua cho quê hương Việt Nam, cũng như tổ tiên chúng ta đã phải kiên cường học hỏi và bảo vệ đức tin như thế nào.
Như một cố gắng thêm vào giúp bà con mình cùng ôn lại chặng đường khai sinh Giáo Hội Mẹ Việt Nam, những giòng chữ này xin được gửi tới các cộng đoàn cũng như từng cá nhân, mong tất cả cùng tạ ơn Chúa, cũng như cùng nhau thề hứa sẽ giữ vững hạt giống đức tin đã được gieo vãi trong hồn mình cũng như đoàn con lũ cháu, qua chuyện cùng ngồi ôn lại quãng thời gian vàng son đã trôi qua trên mảnh đất quê hương yêu dấu.
Những tháng ngày chập chững đón nhận Tin Mừng.
Dựa theo sách 'Khâm-định Việt sử'
của nhà Lê, vào năm 1533 có giáo-sĩ Tây-âu tên là I-na-khu theo đường biển vào
giảng đạo 'Gia-tô' ở làng Ninh-Cường, Bùi -Chu. Mãi cho tới nay, người ta vẫn
chưa rõ Linh-mục này thuộc Dòng tu nào. Dĩ-nhiên, sổ-sách chính-thức của
Giáo-hội Việt-nam chưa dám xác-nhận chi-tiết của chuyện này. Có lẽ nối tiếp bước
chân của cha I-na-khu là các tu-sĩ thuộc nhiều Dòng tu khác nhau như Đa-minh,
Phan-xi-cô và Dòng Tên. Cha Gaspar de Santa-Cruz Dòng
Đa-minh tới vùng Hà-tiên thuộc miền Nam vào năm 1550. Chỉ 8 năm sau, 2 Linh-mục
Dòng Đa-minh khác tới vùng Quảng-Nam giảng đạo, rồi bất ngờ bị người Chiêm-thành
giết chết và được coi là những vị truyền-giáo ngoại-quốc tiên-khởi được ơn
tử-đạo tại Việt-Nam. Các tu-sĩ Dòng Tên tới miền Bắc trước, nhưng sớm bị
cấm-cách và xua đuổi, nên từ năm 1613 tìm cách vào 'đàng Trong', bắt đầu là Cửa
Hàn. Khu phố Hội An bấy giờ là nơi gia-thương phồn-thịnh, nhất là có nhiều kiều
dân Nhật-bản ghé buôn bán. Các ngài lập ra hội 'thày giảng' với thày Au-cu-tinh
là người Việt.
Tới năm 1624, giáo-sĩ Đắc-lộ, nổi tiếng với công-trình phát-triển chữ 'quốc-ngữ', ra công giảng cho dân chúng với nhiều thành-quả đáng kể. Cũng dịp này, cha Pina đã rửa tội cho bà Minh-đức-Vương-thái-phi có nhiều quyền thế, và bà đã góp nhiều công-trạng cho việc truyền-giáo thời đó. Phải đợi tới ngày 19 tháng 3 năm 1627, cha Đắc-lộ và cha Marquez mới 'long-trọng' đổ bộ vào Cửa Bạng, tỉnh Thanh-Hóa. 2 cha được chúa Trịnh trọng-dụng và gây được nhiều thành quả rất khả-quan. Cũng với cái ngày ý nghĩa này mà giáo-hội Việt-Nam đã quyết định chọn thánh Giu-se ( lễ vào ngày 19 tháng 3 hàng năm ) làm bổn-mạng chung. Tại xứ Bắc, từ tổ-chức Thày-giảng, các cha đã lập ra 'nhà Đức-Chúa-Trời', nhằm đào-tạo ra những Linh-mục Việt-nam tiên-khởi. Sau khi bị trục-xuất khỏi miền Bắc, cha Đắc lộ lại vào miền Nam và tìm cách xin chúa Nguyễn thôi cấm đạo. Thành công rồi thất-bại nối tiếp nhau. Nơi đây cha đã có một 'đệ-tử' xuất-chúng người Việt là thày giảng An-Rê, vị được coi là 'người chứng thứ nhất' đổ máu đào tử đạo. Khi phải rời Việt-Nam, cha đã tìm cách xin Ro-ma đặt tòa Giám-mục tại đây, và ý-nguyện này đã được thực hiện với 2 Giám-mục tiên-khởi : Đức cha Pallu ( ở đàng ngoài ) và Đức cha de la Motte ( ở đàng trong ) năm 1658.
Những tháng ngày tử-đạo đẫm máu.
Sau khi tấn-phong, Đức cha Pallu về Pháp xin các cha Dòng
Thánh-thể tiếp tay lập ra hội Thừa-sai Ba-lê kiếm thừa-sai qua cộng-tác với các
Dòng tu khác. Nhờ vậy mà năm 1668 đã có Linh-mục tiên-khởi người Việt là cha
Trang, rồi kế là cha Bền. Qua năm 1670 có công-đồng đầu tiên định rõ hướng đi
đạo Chúa tại đây. Dòng Mến-thánh-giá tiên khởi cũng thành-hình năm đó. Mọi việc
lẽ ra thành-tựu ngoài sức mong muốn, nếu không có những đợt cấm đạo gay-gắt, bắt
đầu từ thời Trịnh Nguyễn và kéo dài cho tới dịp Pháp tới đô-hộ.
Khi Dòng Đa-Minh được trao nhiều trọng-trách thì cũng là lúc gặp rất nhiều sóng-gió. Nhà Tây-Sơn bách-hại đạo cũng thật khủng-khiếp, qua mối hận chúa Nguyễn-Ánh được Đức cha Bá-đa-Lộc nâng đỡ ( với ước mong sau này đạo Chúa được dễ dàng truyền bá ). Khi vua Gia-Long lên ngôi năm 1802, ngài còn nể đạo Chúa, nhưng các quan trong triều cản-trở, cộng thêm nhiều lời phản-đối của nhiều sư sãi Phật-giáo, nên dần dà lạnh-nhạt và lãnh-đạm. Rồi con vua là Minh-Mạng bắt đầu chính-thức cấm đạo, khởi-sự rất gay-gắt tại miền Trung. Nhưng rồi toàn quốc tràn lan máu các anh hùng tử đạo. Kế Minh-Mạng là Thiệu-Trị có vẻ nới tay hơn, nhưng qua thời Tự-Đức thì lại thật hung-hãn dữ-dằn. Từ hạt 'lúa mì' tiên-phong là thày giảng An-rê Phú-Yên ngã xuống (nay đã được phong Chân phước), người ta đếm được hơn 130 ngàn tín-hữu Công-giáo đã dâng-hiến mạng sống vì danh Chúa ( dĩ nhiên Giáo-hội chỉ chọn 117 vị có thành-tích và chứng-cớ lẫy lừng để phong thánh vào năm 1988, trong đó có 21 vị thừa sai người ngoại-quốc; còn Bùi-chu là giáo-phận có con số được phong thánh cao nhất là 26 vị ). Linh-mục thừa sai Pháp Joseph Marchand ( cố Du ) là người chịu đau-đớn nhất với cực-hình 'bá đao' năm 1835. Từ cụ già cao tuổi nhất là Linh-mục Luca Loan ( 84 tuổi ) tới cậu chủng-sinhTô-ma Thiện mới có 18 xuân xanh. Vị nữ-lưu duy-nhất được lãnh triều-thiên công-khai là bà thánh An-nê Thành ( Đê ). Dù bá-đao, lăng-trì, thiêu-sinh, xử trảm hay xử giảo hoặc chết rũ tù, các ngài vẫn một lòng trung-kiên với đức-tin cao-cả. Hiện nay, cứ vào ngày 24 tháng 11 hàng năm, Giáo-hội hoàn-vũ mừng kính các ngài với danh-hiệu thánh An-rê Dũng-Lạc ( Linh-mục bị chém đầu năm 1839 ) và các bạn Tử-đạo Việt-Nam.
Những tháng ngày trưởng-thành.
Cho tới năm 1933, năm mà Giáo-hội Việt-Nam hãnh-diện chứng-kiến
vị giám-mục địa-phương tiên-khởi là Đức Cha Nguyễn-bá-Tòng, phụ-tá giáo-phận
Bùi-Chu ( và 2 năm sau trở thành giám-mục chính-tòa Phát-Diệm ), người ta vẫn
thấy giáo-hội phát-triển đều-đặn dưới sự điều-khiển của các vị Giám-mục hội
Thừa-sai Ba-lê, và sau lại có các vị thuộc dòng Đa-Minh. Năm 1934, Đức Khâm-sứ
Dreyer đã vui sướng khai-mạc công-đồng Đông-dương đầu tiên tại Hà-Nội.
Khi triều-đình Việt-Nam ký hòa-ước 1884 nhận sự bảo-hộ của Pháp, các giáo-phận được thong-dong phát-triển, tuy vẫn còn những vụ trả-thù và phá-hoại của những nhóm quá-khích đây đó. Nhiều thánh-đường nguy-nga được dựng lên, đặc biệt nhất là nhà thờ 'đá' Phát-diệm xuất hiện do tài xây-cất của cha Trần-Lục. Các Dòng tu khác nhau du-nhập Việt-Nam. Các chủng-viện được thiết-lập. Tân tòng tràn ngập các giáo-xứ. Các trường Công-giáo đua nhau đào tạo các mầm non cho đất nước. Nguyệt-san đầu tiên Sacerdos Indosinensis được xuất bản năm 1927. Riêng tại các giáo-phận được trao cho Dòng Đa-minh coi sóc ( Hải-phòng, Thái-Bình, Bùi Chu, Bắc-Ninh, Lạng-sơn ), các nghi-thức phụng-vụ theo truyền-thống Tây-ban-nha đã đem thêm nhiều sinh-thái cho giáo-hội. Người ta ước tính, vào năm 1933, đã có 1 triệu 300 ngàn giáo-hữu (10%) trong số 13 triệu dân Việt. Năm 1936 Đức cha người Việt thứ hai được tấn-phong là Hồ-ngọc-Cẩn : từ vai-trò làm phó, ngài đã lên Giám-mục chính-tòa Bùi-chu chỉ vài tháng sau đó. Rồi ta thấy nối-tiếp sau đó là các Đức-cha Ngô-đình-Thục, Phan-đình-Phùng, Lê-hữu-Từ, Trịnh-như-Khuê, Hoàng-văn-Đoàn v.v...
Hiệp-định Geneva 1954 đã tạo sự thay đổi lớn lao : Một số rất đông giáo-hữu đã trốn chạy chế-độ Cộng-Sản để di-cư vào Nam. Nhờ có tổng-thống Ngô-đình-Diệm, các giáo-xứ mới được thành-lập mau chóng, qua sự phối-trí của Đức cha Phạm-ngọc-Chi. Ngoài Bắc chỉ còn lại cảnh hoang-tàn. Giáo-hội co cụm và gặp nhiều khó khăn. Việc thay thế các Giám-mục và Linh-mục già yếu trở thành nan-đề to lớn. Dĩ nhiên việc thi-hành đạo và truyền bá Phúc-âm hóa nên cực-kỳ căm-go. Tuy vậy, giáo-dân vẫn kiên-trì giữ vững đức tin bên cạnh các chủ chăn.
Tại miền Nam, 21 năm tự do cho phép chuyện mở mang đạo thật tốt đẹp. Cơ-sở 'Giáo-hoàng Học-Viện Piô X' tại Đà-lạt là một dấu hiệu vô cùng phấn-khởi. Tới năm 1960, tòa thánh chính thức thiết-lập hàng Giáo-phẩm Việt-Nam ( do Đức Giáo-hoàng Gio-an 23 ). 3 giáo-tỉnh được thành-hình. Tới năm 1975, miền Nam có 15 giáo-phận và miền Bắc có 10. ( Mới đây miền Nam có thêm giáo phận Bà Rịa ). Ai nấy đều vui-mừng và hết lòng khen ngợi, coi Giáo-hội Việt-nam chỉ đứng sau Giáo-hội Phi-luật-tân về tỉ số giáo dân Công giáo trong vùng trời đông nam Á-Châu.
Giáo-hội Việt-Nam ngày nay.
Bây giờ là năm 2017. Với đợt I bị Cộng Sản tràn ngập năm 1954
tại miền Bắc và đợt II trên toàn lãnh-thổ năm 1975, Giáo-hội Việt-Nam vẫn
tồn-tại và tìm cách đứng vững. Phỏng-đoán với tỷ-lệ gần 8 % dân số là Công-giáo,
chúng ta hiểu vai-trò sống đạo và truyền đạo tại quê nhà vẫn là ưu-tiên hàng đầu
của mọi thành-phần dân Chúa. Nếu tính từ năm 1533, hạt giống đức tin đã được
gieo trồng trên quê hương Việt Nam đúng 484 năm trường. Mới đây, kỷ niệm 350 năm
có tòa Giám Mục và 50 năm có hàng Giáo-phẩm, các vị lãnh-đạo đã lớn tiếng
nhắc-nhở giáo-dân về sứ-mạng của mỗi người. Từ năm 1964, Giáo-hội Việt-Nam chính
thức công-bố việc tôn-kính tổ-tiên cũng như những nghi-thức thực-hành. Việc này
đã đẩy mạnh kế-hoạch truyền-giáo mà trước đây ít nhiều đã tạo trở-ngại cũng như
sự chống đối của các người ngoài đạo Chúa. Thêm vào đó, hướng đi hội nhập
văn-hóa và phát-huy truyền-thống dân-tộc cũng tạo nên thiện-cảm khắp nơi, song
song với nỗ-lực đối-thoại với các tôn-giáo bạn đã làm cuộc sống đạo được hài-hòa
thoải-mái hơn khá nhiều.
Nói cho trung-thực thì tuy sống trong một chế độ Cộng-sản
vô-thần toàn-trị, giáo-hội Việt-Nam xem ra có nhiều điểm may-mắn, hơn
nhiều giáo-hội khác đang có cùng một hoàn-cảnh, nhất là tại Trung Hoa lục địa và
Bắc Hàn. Tuy còn gặp vô số hạn-chế và khó-khăn về nhiều mặt, nhưng đa số các
tín-hữu vẫn có cơ-hội tới dự các lễ-nghi tại nhà thờ, cũng như các chủ-chăn vẫn
được cử-hành các bí-tích. Cách riêng, ơn gọi đi tu vẫn triển nở theo chiều-kích
khá lạc-quan, trong cả 26 giáo-phận cũng như các Dòng tu hiện nay. Cái may-mắn
đáng nói hàng đầu là Giáo-hội Việt-Nam vẫn chưa hề bị nhuốm màu 'đỏ' để thấy
bóng dáng của những Giám-mục 'quốc-doanh' nỡ tâm quay lưng lại tòa-thánh Ro-ma
để tấn phong các Giám mục 'bất hợp pháp' rồi lập ra Giáo-hội 'yêu nước' như tại
Trung-Hoa. Sau năm 1954, hầu hết các Giám-mục miền Bắc nêu gương can-đảm
kiên-cường không chịu khuất-phục trước áp-lực của nhà nước. Rồi với tháng 4 năm
1975, đặc biệt là mới đây, một số người cũng đôi khi nêu lên mối hiểm-nguy
tương-tự. Dĩ-nhiên trong Hội-đồng Giám-mục hiện tại, một số vị có bản-chất
hòa-nhã và dễ dãi trong việc 'hợp-tác' ít nhiều với chính quyền, nhưng cũng có
nhiều vị luôn có thái-độ cương-quyết và cứng-rắn.
Thành-phần giáo-dân bây giờ cũng đóng một vai-trò trọng-yếu cho việc góp tiếng nói xây-dựng chung. Các phương-tiện truyền-thông tân-tiến cũng góp phần không nhỏ vào việc trao-đổi và thông-tin hàng dọc cũng như hàng ngang. Dù nhà nước luôn muốn hạn-chế và kiểm-soát mọi sinh-hoạt nội-bộ của giáo-hội, nhưng các vị chủ chăn vẫn tìm mọi phương-thế để khỏi bị lệ-thuộc quá đáng. Tòa-thánh Vatican cố gắng dùng bao năm kinh-nghiệm trong lịch-sử để tìm ra một lối đi thích-đáng cho giáo-hội Việt-Nam. Dẫu lúc nào cũng có thể xảy ra những lầm-lỡ, nhưng hy-vọng 'thế cờ' mới của thế-giới thuộc dạng 'toàn cầu' sẽ giúp tránh được những nước cờ bí trầm-kha. Trong nội-bộ, người ta vẫn được phép hy-vọng rằng mọi sa-sẩy rồi sẽ được bù-đắp, cũng như mọi sai-lầm, dù cá-nhân hay đoàn-thể, rồi cũng sẽ được sửa chữa.
Với con mắt lạc-quan, ta tin rằng đôi khi trong cái rủi lại có cái may ló dạng đâu đó. Với đức tin vững mạnh, chúng ta tựa vào bàn tay hướng-dẫn và soi-sáng của Chúa Thánh-Linh, cũng như cầu nguyện với Mẹ La Vang cho giáo-hội Việt-Nam, trong mọi biến cố và trên mọi nẻo đường.
Mong lắm thay.