GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

Mục Lục Năm 2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016

 

 

 

 

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

GIẢNG LỄ BA VUA NGÀY THỨ SÁU MÙNG 6/1/2017

 

 

"Ba Vua đã có thể tôn thờ, vì họ đã can đảm lên đường. Và khi họ quì xuống trước một con trẻ nhỏ bé, nghèo hèn và mếm yếu, một Con Trẻ không được trông mong và không được biết đến, họ đã khám phá ra vinh quang của Thiên Chúa".

"Con Trẻ là vua dân Do Thái sinh ra ở đâu? Vì chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người ở Đông phưong và đã đến để tôn thờ Người" (Mathêu 2"2)

Căn cứ vào những lời này thì Ba Vua, tù xa đến, cho chúng ta thấy lý do về cuộc hành trình xa xôi lâu dài của họ: họ đến để tôn thờ Vị Vua mới sinh. Nhìn ngắm và tôn thờ. Hai tác động này là hai tác động nổi bật trong trình thuật Phúc Âm này. Chúng tôi đã thấy và chúng tôi muốn tôn thờ.

Những con người này đã thấy một ngôi sao làm cho họ lên đường. Việc khám phá thấy một điều bất thường ở trên trời đã khơi động lên cả một chuỗi các biến cố. Ngôi sao này không chỉ chiếu sáng cho họ mà thôi, hay họ có di truyền thể (DNA) đặc biệt để có thể thấy được ngôi sao ấy. Như một trong các Thánh Giáo Phụ đã nhận định một cách chính đáng rằng Ba Vua đã không lên đường vì họ đã thấy ngôi sao, mà họ đã thấy ngôi sao bởi họ đã lên đường rồi (xem Saint John Chrysostom). Tấm lòng của họ đã hướng về chân trời và họ có thể thấy những gì trời cao tỏ cho họ, bởi họ được hướng dẫn bởi một thứ khắc khoải nội tâm. Họ đã hướng về một điều gì đó mới mẻ.

Bởi vậy Ba Vua là những vị nhân cách hóa tất cả những ai tin tưởng, tất cả những ai tìm kiếm Thiên Chúa, những ai mong mỏi gia cư của mình, quê hương nước trời của mình. Họ phản ánh hình ảnh của những ai trong đời sống của mình không để cho tâm can của họ trở thành tê liệt.

Một niềm mong mỏi thánh hảo hướng về Thiên Chúa vọt lên nơi tâm can của các tín hữu vì họ biết rằng Phúc Âm không phải là một biến cố của qúa khứ mà là của hiện tại. Niềm mong mỏi thánh hảo hướng về Thiên Chúa giúp chúng ta tỉnh táo trước mọi nỗ lực làm suy yếu và bần cùng hóa cuộc đời của chúng ta. Niềm mong mỏi thánh hảo hướng về Thiên Chúa là việc hồi niệm của đức tin chống lại tất cả những thứ tiên tri u ám. Niềm mong mỏi ấy giữ cho niềm hy vọng cậy trông sống động trong cộng đồng các tín hữu, một cộng đồng tiếp tục van xin từ tuần này đến tuần kia rằng: "Lạy Chúa Giêsu xin hãy đến".

Cũng với niềm mong mỏi này đã khiến cho vị lão thành Simeon mỗi ngày lên Đền Thờ, tin tưởng rằng đời sống của ông sẽ không kết liễu trước khi ông được ẵm Đấng Cứu Thể trong cánh tay của ông. Niềm mong mỏi này đã khiến cho Đứa Con Hoang Đàng từ bỏ lối sống hủy hoại bản thân mình mà tìm kiếm cái ôm ẵm của cha mình. Đó là niềm mong mỏi mà vị mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm con chiên lạc. Maria Mai-Đệ-Liên đã cảm nghiệm cùng một niềm mong mỏi ấy vào sáng Chúa Nhật khi chị chạy đến mồ và gặp vị Sư Phụ phục sinh. Niềm mong mỏi Thiên Chúa kéo chúng ta ra khỏi cái cô lập bọc thép của chúng ta, khiến chúng ta nghĩ rằng chẳng có gì có thể đổi thay. Niềm mong mỏi Thiên Chúa đánh tan những thói lệ buồn tẻ và thôi thúc chúng ta thực hiện những thay đổi chúng ta muốn và cần. Niếm mong mỏi Thiên Chúa có gốc rễ trong quá khứ những không ngưng ở đó; nó vươn tới tương lai. Các tín hữu cảm thấy niềm mong mỏi này được dẫn dắt trong việc tìm kiếm Thiên Chúa, như Ba Vua đã làm, từ những ngóc ngách xa xôi nhất của lịch sử, vì họ biết rằng Chúa đang đợi chờ họ ở đó. Họ đi đến những vùng ngoại biên, đến những vùng biên cương bờ cõi, đến những nơi chưa được phúc âm hóa, để gặp gỡ Chúa của mình. Họ không làm việc này theo một cảm quan ưu thế nào đó, mà là như những kẻ hành khất không thể bỏ qua những cặp mắt của những ai Tin Mừng vẫn còn là lãnh vực chưa được khai phá.

Một thái độ hoàn toàn khác nhau ngự trị ở cung đình vua Hêrôđê, một khoảng cách ngắn ngủi đối với Belem, nơi không ai nhận ra những gì đang xẩy ra vào lúc bấy giờ. Khi Ba Vua đang hành trình thì Giêrusalem thiếp ngủ. Nó thiếp ngủ để thông đồng với Hêrôđê là kẻ, thay vì tìm kiếm thì cũng thiếp ngủ. Ông ta thiếp ngủ, tê liệt bởi một lương tâm chai cứng. Ông ta bối rối, lo sợ. Chính vì cái bối rối này mà khi giáp mặt với cái mới mẻ làm biến đổi lịch sử này thì thụt vào bản thân mình và vào những thành đạt của mình, vào kiến thức của mình, thành công của mình. Cái bối rối của một kẻ ngồi trên chóp đỉnh giầu sang phú quí của mình nhưng không thể thấy gì ngoài cái giầu sang phú quí ây. Cái bối rối ngự trị trong tâm can của những ai muốn kiểm soát hết mọi sự và hết mọi người. Cái bối rối của những ai đã đắm đuối trong thứ văn hóa thắng cuộc bằng bất cứ giá nào, trong thứ văn hóa chỉ có chỗ duy nhất cho "những kẻ chiến thắng", bất chấp giá phải trả. Một thứ bối rối xuất phát từ nỗi sợ hãi và cái linh tính thấy trước được bất cứ những gì thách đố chúng ta, đặt vấn đề về những gì chúng ta tin tưởng và các sự thật của chúng ta, về cách thức chúng ta liên hệ với thể giới này và với cuộc sống đây. Herôđê đã sợ và nỗi sợ hãi đó đã khiến ông tìm kiếm an toàn bằng tội ác: "Ngươi sát hại những con người bé nhỏ nơi thân thể của họ, vì nỗi sợ hãi đang sát hại ngươi nơi tâm can của ngươi" (SAINT QUODVULTDEUS, Sermon 2 on the Creed: PL 40, 655). 

Chúng tôi muốn tôn thờ. Những con người đến từ Đông phương để tôn thờ, và họ đã đến để làm điều ấy ở nơi xứng với một vị vua đó là ở một hoàng cung, giữa một cung đình và tất cả triều thần của nó. Vì đó là dấu hiệu của quyền lực, thành công, của một đời sống thành đạt. Người ta có thể thấy rõ một vị vua cần được tôn kính, được kính sợ và được nịnh bợ. Đúng thế, nhưng không nhất thiết phải được kính mến. Vì đó là những phân loại của trần gian, những thứ ngẫu tượng tầm thường chúng ta trân trọng: việc tôn sùng quyền lực, những dáng vẻ bề ngoài và tính chất ưu thế. Các thứ ngẫu tượng chỉ hứa hẹn những gì là buồn thương và nộ lệ hóa.

Chính nơi đó, ở hoàng cung ấy, mà những con người, từ xa đến, mới bắt đầu cuộc hành trình dài nhất của họ. Ở đó họ bắt đầu một cách kiên trì hơn cuộc hành trình vất vả và phức tạp hơn nữa. Họ cần phải nhận thức điều họ tìm kiếm không phải ở trong một hoàng cung, mà là ở một nơi khác, cả về tính cách hiện hữu cũng như địa dư. Ở đó, nơi hoàng cung, họ không thấy ngôi sao dẫn đường cho họ đến chỗ khám phá ra một Vị Thiên Chúa muốn được yêu mến. Vì chỉ ở dưới lá cờ tự do, chứ không phải chuyên chế, mới có thể nhận thức rằng ánh mắt của vị vua không được biết đến nhưng được mong ước này không khinh thường, nô lệ hóa hay giam nhốt chúng ta. Nhận thức rằng ánh mắt này của Thiên Chúa là những gì nâng cao, tha thứ và chữa lành. Nhận thức rằng Thiên Chúa muốn được hạ sinh ở nơi chúng ta chẳng ngờ nhất, hay có lẽ ít mong muốn nhất, ở một nơi chúng ta rất thường chối bỏ Người. Nhận thức rằng trong ánh mắt của Thiên Chúa bao giờ cũng có chỗ cho những ai bị thương tích, mệt nhọc, bị đối xử tệ bác và bị bỏ rơi. Rằng sức mạnh của Người và quyền năng của Người được gọi là lòng thương xót. Vì đối với một số trong chúng ta Giêrusalem xa cách Bêlem biết bao!

Hêrôđê không thể tôn thờ vì ông ta không thể hay không muốn thay đổi cách nhìn sự việc của ông. Ông không muốn ngưng tôn thờ bản thân mình, tin rằng hết mọi sự phải ở chung quanh ông. Ông không thể tôn thờ, vì mục đích của ông là làm cho kẻ khác tôn thờ ông. Các vị tư tế cũng không tôn thờ, vì cho dù họ đầy những kiến thức và biết được những lời tiên tri, họ cũng không sẵn sàng thực hiện cuộc hành trình và thay đổi đường lối của mình.

Ba Vua đã cảm thấy niềm mong mỏi; họ cảm thấy mệt mỏi bởi cuộc hành trình bình thường. Tất cả họ đều cảm thấy quá quen thuộc với và chán ngán những thứ Hêrôđê trong thời của họ. Thế nhưng, ở Belem, có một hứa hẹn của những gì là mới mẻ, của những gì là nhưng không. Ở đó đang có một cái gì mới mẻ xẩy ra. Ba Vua đã có thể tôn thờ, vì họ đã can đảm lên đường. Và khi họ quì xuống trước một con trẻ nhỏ bé, nghèo hèn và mếm yếu, một Con Trẻ không được trông mong và không được biết đến, họ đã khám phá ra vinh quang của Thiên Chúa.

http://www.news.va/en/news/the-popes-homily-on-the-feast-of-the-epiphany
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và những chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu                                                                        

 

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ - HUẤN TỪ TRUYỀN TIN LỄ HIỂN LINH 6/1/2017

 

"Đời sống Kitô hữu là một cuộc hành trình liên tục, được thực hiện bởi niềm hy vọng và bởi tìm kiếm; một cuộc hành trình, như của Ba Vua, cũng tiếp tục cả khi ngôi sao biến khuất mắt vào một lúc nào đó".

 

Xin chào Anh Chị Em thân mến! Hôm nay chúng ta cử hành Lễ Chúa Hiển Linh, tức là việc tỏ mình ra của Chúa Giêsu, Đấng như ánh sáng chiếu soi muôn dân. Biểu hiệu của ánh sáng này, một ánh sáng chiếu soi trên thế giới và muốn chiếu sáng đời sống của từng người, đó là ngôi sao dẫn đường Ba Vua tới Bêlem. Phúc Âm nói rằng họ đã thấy "ngôi sao của Người" (Mathêu 2:2) và họ đã theo ngôi sao ấy: họ đã muốn được ngôi sao của Chúa Giêsu dẫn đường.

Trong đời sống của chúng ta cũng có các ngôi sao khác nhau, có những thứ ánh sáng chiếu soi và hướng dẫn. Tùy chúng ta chọn theo thứ nào. Chẳng hạn, có những thứ ánh sáng gián đoạn, lúc có lúc không, như những thứ thỏa mãn nho nhỏ trong cuộc đời: cho dù là tốt nhưng vẫn chưa đủ vì chúng kéo dài tí chút thôi và không để lại những gì là bình an mà chúng ta muốn tìm kiếm. Thế rồi có những thứ ánh sáng rạng ngời của khấu trường, của tiền tài và thành công, hứa hẹn hết mọi sự ngay lập tức: chúng là những thứ ánh sáng hấp dẫn nhưng bằng mãnh lực của mình chúng làm cho con người trở nên mù quáng và biến họ trải qua từ những mơ mộng vinh quang đến tối tăm mù mịt nhất. Trái lại, Ba Vua mời gọi chúng ta hãy theo một thứ ánh sáng vững bền, một thứ ánh sáng dịu dàng, không tắt, vì nó không thuộc về thế giới này: nó đến từ Trời và chiếu soi... ở đâu? Trong cõi lòng.

Ánh sáng chân thật này là ánh sáng của Chúa, hay đúng hơn, là chính Chúa. Người là ánh sáng của chúng ta: một thứ ánh sáng không làm mù quáng, nhưng hỗ trợ và cống hiến một niềm vui đặc biệt. Ánh sáng này là để cho tất cả mọi người và kêu gọi từng người: vậy chúng ta có thể cảm thấy chúng ta được tiên tri Isaia ngỏ cùng ở lời mời gọi hôm nay: "Hãy chỗi dậy, hãy chiếu soi" (60:1). Tiên tri Isaia đã nói thế, khi nói tiên tri về niềm vui này của hôm nay cho Giêrusalem: "Hãy chỗi dậy, hãy chiếu soi" Chúng ta có thể chấp nhận lời mòi gọi này vào giây phút đầu tiên của mỗi ngày: hãy chỗi dẫy, hãy chiếu soi, hãy theo đuổi hôm nay đây - trong số nhiều ngôi sao rơi rụng trên thế giới này - ngôi sao rạng ngời của Chúa Giêsu! Bằng việc theo đuổi ngôi sao này, chúng ta sẽ có niềm vui, như đã xẩy ra cho Ba Vua, những con người "khi họ thấy ngôi sao họ hết mừng mừng rỡ hân hoan" (Mathêu 2:10); vì Chúa ở đâu thì niềm vui ở đó. Ai gặp gỡ Chúa Giêsu đều cảm nghiệm thấy phép lạ của thứ ánh sáng xua tan tối tăm và biết rằng ánh sáng này đang chiếu soi và sáng tỏ.

Tôi xin trân trọng mời gọi tất cả anh chị em đừng sợ ánh sáng này và hãy cởi mở cho Chúa. Tôi cũng muốn đặc biệt nói với những ai đã mất đi sức mạnh để tìm kiếm, những ai cảm thấy mệt mỏi và bị choáng ngợp bởi những u tối của cuộc đời, những ai có ước muốn tàn tạ: hãy chỗi dậy, hãy can đảm, ánh sáng của Chúa Giêsu có thể khống chế bóng tối đen nhất; hãy chỗi dậy, hãy can trường!

làm thế nào để có thể tìm thấy ánh sáng thần linh này? Chúng ta hãy theo gương Ba Vua, những con người được Phúc Âm diễn ta như thể luôn di chuyển. Thật vậy, ai muốn ánh sáng xuất phát từ mình và tìm kiếm thì họ không khép kín, bất động, nhìn vào những gì đang xẩy ra chung quanh mình, mà là nhập cuộc; ra khỏi bản thân mình. Đời sống Kitô hữu là một cuộc hành trình liên tục, được thực hiện bởi niềm hy vọng và bởi tìm kiếm; một cuộc hành trình, như của Ba Vua, cũng tiếp tục cả khi ngôi sao biến khuất mắt vào một lúc nào đó. Trong cuộc hành trình này cũng có những cạm bẫy cần phải tránh né: lời đồn thổi nông nổi và trần tục làm cản bước chân; những thứ bất chợt liệt bại của cố chấp; những lỗ hổng bi quan yếm thế chộp bắt niềm hy vọng. Những cái cản trở này đã cản ngăn thành phần Luật sĩ được bài Phúc Âm hôm nay nói tới. Họ biết ánh sáng ở nơi đâu nhưng không nhúc nhích gì. Khi Hêrôđê hỏi họ: "Đấng Thiên Sai giáng sinh ở đâu?" - "Ở Bêlem". Họ đã biết ở chỗ nào nhưng họ vẫn không nhúc nhích. Kiến thức chỉ bắng thừa là ở chỗ đó: họ biết nhiều sự nhưng chẳng được gị; hết mọi sự chỉ là không. Biết Chúa giáng sinh thì chưa đủ nếu người ta không sinh Người ra trong lòng mình. Thiên Chúa giáng sinh, đúng thế, nhưng Người có được sinh ra trong lòng của anh chị em hay chăng? Người có được sinh ra trong lòng tôi hay chăng? Người có được sinh ra trong lòng chúng ta hay chăng? Bởi thế, như Ba Vua, theo ngôi sao chúng ta sẽ thấy Người với Mẹ Maria, Thánh Giuse.

Ba Vua đã thực hiện như thế: đã thấy Con Trẻ: "họ phục xuống  thlạy Người" (câu 11). Họ không chỉ nhìn Người, họ không chỉ đọc một lời nguyện theo hoàn cảnh rồi đi, không, mà là thlạy: họ đã tiến vào một cuộc hiệp thông yêu thương riêng tư với Chúa Giêsu. Sau đó họ đã hiến dâng cho Người vàng, nhũ hương và mộc dược, hay là những sản vật quí báu nhất của họ. Chúng ta hãy học từ Ba Vua là đừng dâng hiến cho Chúa Giêsu chỉ có khoảnh thời giờ rảnh rỗi của chúng ta và một thoáng nghĩ lúc này lúc nọ, bằng không chúng ta sẽ không có ánh sáng của Người. Như Ba Vua, chúng ta hãy tiến hành, mặc lấy ánh sáng theo ngôi sao của Chúa Giêsu và chúng ta hãy thờ lạy Chúa với tất cả con người của chúng ta.

(Sau Kinh Truyền Tin:)

Ba Vua đã cống hiến cho Chúa Giêsu các tặng vật của mình, thế nhưng, thực ra, Chính Chúa Giêsu là tặng vật thực sự của Thiên Chúa. Người thực sự là Vị Thiên Chúa hiến Mình cho chúng ta. Nơi Người chúng ta thấy dung nhan thương xót của Cha là Đấng đang chờ đợi chúng ta, nhận lãnh chúng ta và luôn tha thứ cho chúng ta; dung nhan của Thiên Chúa là Đấng không bao giờ đối xử với chúng ta theo các việc làm của chúng ta hay theo tội lỗi của chúng ta, mà chỉ theo lòng thương xót vô cùng bất tận của Ngài. Nói về tặng vật, tôi cũng nghĩ đến việc trao tặng cho anh chị em một món quà nhỏ... Tập sách "Icon of Mercy - Hình Tượng của Lòng Thương Xót" Tặng vật của Thiên Chúa là Chúa Giêsu, là lòng thương xót của Cha, và vì thế, để tưởng nhớ đến tặng vật này của Thiên Chúa, tôi sẽ trao tặng cho anh chị em một tặng vật, tặng vật sẽ được phân phối cho anh chị em bởi người nghèo, người vô gia cư và những người tị nạn cùng với các tình nguyện viên và tu sĩ, những anh chị em tôi gửi lời chào nồng nàn và hết lòng cám ơn. Tôi chúc anh chị em một năm sống công lý, tha thứ, bình an nhưng nhất là một năm của lòng thương xót. Đọc tập sách này sẽ có lợi cho anh chị em: nó vừa vặn bỏ trong túi và anh chị em có thể mang theo với mình. Cả anh chị em nữa, xin đừng quên trao tặng cho tội món quà tặng cầu nguyện của anh chị em nhé. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em. Chúc anh chị em một ngày lễ hạnh phục, một bữa trưa ngon và sớm gặp lại anh chị em!

 https://zenit.org/articles/angelus-on-the-feast-of-the-epiphany/
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và những chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu