GIÁO HỘI HIỆN THẾ
2018
ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
SỨ ĐIỆP CHO NGÀY THẾ GIỚI NGƯỜI NGHÈO II-2018
Chúa Nhật 33 Thường Niên ngày 18/11
Con người nghèo khổ này đã kêu than và Chúa đã nghe họ
1- "Con người nghèo khổ này đã kêu than và Chúa đã nghe họ" (Thánh Vịnh 34:7). Những lời của Thánh Vịnh gia này trở thành của chúng ta khi chúng ta được kêu gọi để đáp ứng những thân phận khổ đau và bị loại trừ khác nhau của rất nhiều anh chị em chúng ta là thành phần chúng ta quen gọi chung là "người nghèo khổ". Thánh Vịnh gia là một con người chăng xa lạ gì với khổ đau, hoàn toàn ngược lại. Ngài đã có cảm nghiệm trực tiếp về bần cùng nhưng đã biến đổi nó thành một bài ca chúc tụng và tạ ơn Chúa. Bài Thánh Vịnh này là một cơ hội cho chúng ta hôm nay đây, thành phần bị chìm ngập trong nhiều hình thức bần cùng khác nhau, để hiểu được ai thực sự là kẻ nghèo mà chúng ta được kêu gọi để quan tâm hầu nghe thấy tiếng kêu thanacủa họ và nhận ra các nhu cầu của họ.
Trước hết, chúng ta được biết rằng Chúa nghe người nghèo khổ kêu lên Ngài và tỏ ra nhân lành với những ai tìm nương tựa vào Ngài, với tấm lòng xót xa buồn thương, đơn độc lẻ loi và bị tẩy chay loại trừ. Chúa lắng nghe những ai bị chà đạp lên phẩm giá của họ nhưng vẫn có sức nhìn lên để lãnh nhận ánh sáng và niềm an ủi. Ngài lắng nghe những ai bị bách hại nhân danh một thứ công lý sai trái, bị đàn áp bởi các chính sách bất xứng về danh xưng và bị đe dọa bởi bạo lực. Tuy nhiên, họ biết rằng họ có Đấng Cứu Tinh của họ nơi Thiên Chúa. Điều xuất phát từ lời cầu nguyện này trước hết là cái cảm quan phó mình và tin tưởng vào một Vị Cha biết lắng nghe và đón nhận. Theo chiều hướng của lời lẽ này chúng ta mới có thể hiểu được hơn nữa những gì Chúa Giêsu đã công bố về "phúc cho ai nghèo khó trong tinh thần vì nước trời là của họ" (Mathêu 5:3).
Cái cảm nghiệm độc đáo này là như thế, không thể nào diễn đạt bằng cách này hay cách khác cho trọn vẹn một cách tương xứng, một cảm nghiệm dầu sao chúng ta cảm thấy muốn thông đạt nó cho người khác, trước hết cho những ai, như Thánh Vịnh gia, nghèo khổ, bị loại trừ tẩy chay và ra rìa. Thật vậy, không ai có thể cảm thấy bị loại trừ khỏi tình yêu của Chúa Cha, nhất là ở trong một thế giới thường đề cao giầu sang phú quí như là một đối tượng chính yếu và dẫn chúng ta đến chỗ cô lập.
2- Thánh Vịnh 34 sử dụng 3 động từ để nói lên thái độ của người nghèo này và mối liên hệ của họ với Thiên Chúa. Trước hết là động từ "kêu than". Thân phận nghèo khổ không thể nào diễn tả được bằng ngôn từ, mà trở thành một tiếng kêu than vượt các tầng trời lên tới tận Thiên Chúa. Tiếng kêu của người nghèo bày tỏ điều gì, nếu không phải nỗi khốn khổ và cô độc của họ, nếu không phải ảo vọng và niềm hy vọng của họ? Chúng ta có thể tự vấn xem tiếng kêu này ra sao, một tiếng kêu vang lên tới nhan Thiên Chúa, lại không thể thấu vào tai chúng ta, và chúng ta vẫn cứ tỏ ra dửng dưng lạnh lùng và bất động? Vào ngày như Ngày Thế Giới Người Nghèo này, chúng ta được kêu gọi để nghiêm chỉnh xét lại lương tâm mà xem chúng ta thật sự có khả năng nghe họ hay chăng?
Điều chúng ta cần để nhận ra tiếng của họ là thinh lặng mà lắng nghe. Nếu chúng ta nói quá nhiều về mình chúng ta sẽ không thể nào nghe được họ. Chúng ta thường sợ rằng nhiều sáng kiến, tự chúng có tính cách công nghiệp và cần thiết, được nhắm đến chỗ thỏa mãn những ai thực hiện chúng hơn là thực sự nhận biết tiếng kêu của người nghèo. Nếu thực sự là thế thì khi tiếng kêu của người nghèo chẳng có tác động gì nơi chúng ta, và chúng ta không thể nào cảm thông được thân phận của họ. Chúng ta bị sập vào bẫy của một thứ văn hóa buộc chúng ta nhìn vào gương soi và ve vuốt bản thân mình ở chỗ chúng ta tin rằng chỉ cần một cử chỉ của lòng vị tha cũng đã đủ rồi, chẳng cần phải trực tiếp tác hại đến mình làm gì.
3- Động từ thứ hai là "đáp ứng". Thánh Vịnh gia nói cho chúng ta biết rằng Chúa chẳng những lắng nghe tiếng kêu than của người nghèo mà Ngài còn đáp ứng nữa. Việc đáp ứng của Ngài, như được chứng thực bởi toàn bộ lịch sử cứu độ, là một việc hoàn toàn yêu thương tham dự vào thân phận của người nghèo. Này nhé khi Abram ngỏ ý cùng Thiên Chúa muốn có được một người con, bất chấp ông và bà vợ Sara của ông đã lão thành theo năm tháng và chẳng có con cái gì (xem Khởi Nguyên 15:1-6). Cũng đã xẩy ra khi Moisen, nơi bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi, đã nhận được mạc khải về danh xưng thần linh và sứ vụ giải thoát dân của mình cho khỏi Ai Cập (Xuất Hành 3:1-15). Thế rồi việc đáp ứng này còn được khẳng định trong suốt cuộc lữ hành của dân Israel trong sa mạc, khi họ cảm thấy đói khát (xem Xuất Hành 16:1-6; 17:1-7), cũng như khi họ rơi vào tình trạng gian ác tồi tệ nhất, tức là tỏ ra bất trung với giao ước và tôn thờ ngẫu tượng (xem Xuất Hành 32:1-14).
Việc Thiên Chúa đáp ứng người nghèo bao giờ cũng là việc Ngài can thiệp vào lịch sử để chữa lành các thương tích nơi thân thể và tâm hồn, để phục hồi công lý và để hỗ trợ chuyện bắt đầu lại một đời sống xứng đáng. Việc Thiên Chúa đáp ứng cũng là một lời mời gọi để những ai tin vào Ngài có thể làm như thế trong giới hạn của bản tính con người. Ngày Thế Giới Người Nghèo muốn trở thành một đáp ứng nhỏ bé được toàn thể Giáo Hội trên khắp thế giới cống hiến cho người nghèo đủ mọi thành phần và ở mọi miền đất kẻo họ nghĩ rằng tiếng kêu than của họ vang lên vô vọng. Có lẽ nó chỉ như là một giọt nước trong sa mạc bần cùng; nhưng nó có thể là một dấu hiệu chia sẻ đối với những ai đang thiếu thốn, nhờ đó họ cảm thấy được sự hiện diện chủ động của một người anh chị em nào đó của họ. Nó không phải là một thứ quyền lực được thừa hành mà người nghèo cần đến, nhưng là một thứ gắn bó riêng tư của nhiều người nghe thấy tiếng kêu than của họ. Mối quan tâm của các tín hữu liên quan đến thành phần nghèo khổ không thể chỉ là một thứ trợ giúp - dù thứ trợ giúp này hữu ích và có tính cách quan phòng từ ban đầu - vẫn cần đến một "sự chuyên chú yêu thương" (Apostolic Exhortation Evangelii gaudium, 199) tỏ ra trân trọng con người như vậy và thấy được những lợi ích tốt nhất của họ.
4- Động từ thứ ba là "giải phóng". Con người nghèo của Thánh Kinh này sống một cách tin tưởng rằng Thiên Chúa vì họ mà can thiệp vào việc phục hồi phẩm giá cho họ. Tình trạng bần cùng không do tự nó mà có, mà do bởi lòng vị kỷ, tính kiêu hãnh, lòng tham lam và sự bất công. Đó là những sự dữ cổ tích như chính con người, thế nhưng cũng là những thứ tội lỗi bủa vây lấy những con người vô tội, dẫn đến những hậu quả về lãnh vực xã hội thật là thê thảm. Tác động giải phóng của Thiên Chúa là một tác động cứu độ đối với những ai bày tỏ nỗi buồn đau và thảm sầu của họ với Ngài. Cảnh ngục tù của bần cùng được mở toang ra trước quyền năng can thiệp của Thiên Chúa. Nhiều bài Thánh Vịnh kể lể và cử hành lịch sử cứu độ được phản ảnh nơi đời sống riêng tư của người nghèo: "Vì Ngài không khinh khi hay ghét bỏ nỗi sầu đau của kẻ buồn thương; và Ngài không ẩn mặt khỏi họ, mà là tỏ ra lắng nghe khi họ kêu lên Ngài" (22:25). Việc có thể chiêm ngưỡng dung nhan của Thiên Chúa là một dấu hiệu cho thấy tình thân thương của Ngài, sự gần gũi của Ngài, và ơn cứu độ của Ngài. "Ngài đã thấy được nỗi sầu thương của tôi, Ngài đã chú ý tới những tai ương vận rủi của tôi... Ngài đã cho con rộng bước thênh thang" (31:8-9). Việc làm cho người nghèo được "rộng bước thênh thang" là việc giải phóng họ khỏi "sa lưới của kẻ bẫy chim" (91:3) và giúp họ tránh khỏi sập bẫy trên đường họ đi, nhờ đó họ có thể tiến hành một cách mau chóng và hiệu năng và có thể nhìn vào đời sống một cách thanh thản. Ơn cứu độ của Thiên Chúa mặc hình thức một bàn tay đón nhận người nghèo, bao che bảo vệ họ và giúp họ cảm nghiệm thấy mối thân tình họ cần. Đó là khởi điểm của việc gần gũi cụ thể và khả giác mà từ đó xuất phát một đường lối giải phóng đích thực. "Mỗi một Kitô hữu và hết mọi cộng đồng đều được kêu gọi trở thành dụng cụ của Thiên Chúa cho việc giải phóng và đề cao người nghèo, cũng như cho việc giúp họ có thể được hoàn toàn thuộc về xã hội. Điều này cần chúng ta phải tỏ ra nhậy cảm và chăm chú đến tiếng kêu của người nghèo và đến việc trợ giúp họ" (Evangelii gaudium, 187).
5- Tôi cảm kích khi biết rằng có nhiều người nghèo đã đồng hóa mình với Bartimiêu ở Phúc Âm Thánh Marco (đoạn 10). Bartimiêu, một người mù, "ngồi ăn xin ở bên đường" (câu 46), và khi nghe thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, thì "bắt đầu kêu lên mà rằng: 'Hỡi Giêsu, Con Vua Đavít, xin thương đến tôi'" (câu 47). "Nhiều người mắng anh ta, bảo anh ta im đi; thế nhưng anh ta càng la to hơn" (câu 48). Con Thiên Chúa đã nghe thấy tiếng kêu la này: "Anh muốn Tôi làm gì cho anh?" Người mù đã xin cùng Người: "Lạy Thày, xin cho tôi được thấy" (câu 51). Trình thuật Phúc Âm này đã tỏ tường hóa những gì được loan báo trong Thánh Vịnh như là một hứa hẹn. Bartimiêu là một người nghèo cảm thấy mình bị thiếu mất khả năng căn bản nơi nhãn quan của mình để có thể làm ăn sinh sống. Biết bao nhiêu là đường lối ngày nay cũng dẫn đến các hình thức bất định! Tình trạng thiếu thốn những phương tiện căn bản dinh dưỡng, tình trạng bị loại trừ xuất phát từ khả năng suy yếu làm việc gây ra bởi sức khỏe yếu kém, các hình thức nô lệ xã hội khác nhau, bất kể mức tiến bộ con người đạt được... Biết bao nhiêu là người nghèo hôm nay đây giống như Bartimiêu, ngồi bên đường tìm kiếm phương tiện sinh sống! Biết bao nhiêu người trong họ tự hỏi mình là tại sao họ lại rơi vào tình trạng đến như vậy, và làm sao họ có thể thoát được đây! Họ đang đợi chờ một ai đó đến nói với họ rằng: "An tâm đi; hãy đứng lên, Người đang gọi anh đó" (câu 49).
Tiếc thay, thường thì những gì xẩy ra lại trái ngược và người nghèo thường nghe thấy những tiếng nói trách mắng họ và bảo họ câm miệng. Những tiếng nói này khác lạ, thường tỏ ra bởi nỗi ám ảnh về người nghèo, thành phần chẳng những bị coi như cơ cực mà còn là thành phần chất chứa những gì là thiếu an ninh và bất ổn, sống không theo những thói quen của cuộc sống hằng ngày, nên bị loại trừ và tránh cho xa. Khuynh hướng tạo nên khoảng cách giữa họ và chúng ta, không biết rằng khi làm thế là chúng ta tách mình khỏi Chúa Giêsu là Đấng không loại trừ người nghèo, nhưng gọi họ đến với Người và an ủi họ. Những lời của vị Tiên Tri liên quan đến lối sống hợp với thành phần tín hữu xứng hợp nhất với trường hợp này: "mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm?... Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân" (Isaia 58:6-7). Những việc làm như thế khiến cho tội lỗi được thứ tha (xem 1Phêrô 4:8), công lý theo đuổi đường lối của nó, và trong trường hợp chính chúng ta kêu lên Chúa thì bảo đảm là Ngài sẽ đáp ứng mà nói: này Ta đây! (Isaia 58:9).
6- Người nghèo là người đầu tiên được ơn nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa và để chứng thực về sự gần gũi cận kề của Ngài trong đời sống của họ. Thiên Chúa vẫn trung thành với lời hứa của Ngài, và ngay cả trong bóng đêm tăm tối cũng không ngăn cản được cái nồng ấm của tình Ngài yêu thương và an ủi. Tuy nhiên, để thắng vượt thân phận bần cùng quá sức, người nghèo cần thấy được sự hiện diện của những người anh chị em tỏ ra quan tâm tới họ, và là những người, bằng việc mở cửa lòng và đời sống của mình, làm cho họ cảm thấy như là những người bạn hữu và gia đình. Chỉ có thế chúng ta mới có thể khám phá ra "quyền năng cứu độ đang tác động nơi đời sống của họ" và "coi họ như tâm điểm cho cuộc hành trình của Giáo Hội" (Evangelii gaudium, 198).
Vào Ngày Thế Giới này chúng ta được mời gọi cống hiến những gì là cụ thể cho những lời Thánh Vịnh: "Kẻ đau thương sẽ được ăn và no thỏa" (22:27). Chúng ta biết rằng ở Đền Thờ Giêrusalem, sau nghi thức hy tế thì có một bữa tiệc. Chính kinh nghiệm này đã làm phong phú Ngày Thế Giới Người Nghèo Đầu Tiên ở nhiều Giáo Phận năm ngoái. Nhiều người đã cảm thấy cái nồng ấm của một ngôi nhà, niềm vui của một bữa mừng và tình đoàn kết của những ai muốn chia sẻ bàn ăn một cách gian dị và huynh đệ. Tôi muốn năm nay cũng như trong tương lai, Ngày Thế Giới này được cử hành trong tinh thần hân hoan vì việc tái phục hồi được cái khả năng của chúng ta trong việc qui tụ lại với nhau. Cùng nhau cầu nguyện như một cộng đồng và chia sẻ bữa Chúa Nhật là một cảm nghiệm đưa chúng ta về với cộng đồng Kitô hữu tiên khởi, như Thánh Luca diễn tả với tất cả những gì là độc đáo và giản dị của mình: "Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh [...] Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu". (Tông Vụ 2:42, 44-45).
7- Nhiều sáng kiến đang được thực hiện hằng ngày bởi cộng đồng Kitô hữu để cống hiến một dấu hiệu của sự gần gũi cận kề và của sự cứu trợ trước nhiều hình thức bần cùng ở trước mắt chúng ta. Thường xẩy ra việc hợp tác với những tổ chức kinh doanh khác, được tác động không bởi đức tin mà bởi tình liên đới nhân loại, giúp chúng ta có thể cống hiến sự trợ giúp mà tự mình chúng ta bất khả. Việc nhận biết rằng trong một thế giới bao rộng bần cùng nghèo khổ này thì khả năng tác động của chúng ta là những gì hữu hạn, yếu hèn và thiếu thốn dẫn chúng ta đến chỗ vươn đến kẻ khác nhờ đó sự tương tác có thể đạt tới đối tượng của nó một cách hiệu nghiệm hơn. Chúng ta được tác động bởi đức tin cũng như bởi lệnh truyền bác ái yêu thương, thế nhưng, cho dù chúng ta không bỏ qua vai trò thích đáng của mình trong việc dẫn hết mọi người đến với Thiên Chúa và với sự thánh thiện, chúng ta cũng cần phải biết làm sao để nhận thấy được các hình thức trợ giúp và liên kết khác, một phần nào đó, có tính cách nhắm đến các mục đích chung của chúng ta. Việc đối thoại giữa các hình thức khác nhau về kinh nghiệm và về sự khiêm tốn trong việc tự do hợp tác của chúng ta, không tìm kiếm tiếng tăm, là một đáp ứng phúc âm thỏa đáng và trọn vẹn tất cả chúng ta có thể cống hiến.
Trong việc phục vụ người nghèo, điều cuối cùng chúng ta cần đến đó là một trận chiến chiếm lấy vị thế đầu. Lẽ ra chúng ta cần phải khiêm tốn nhìn nhận rằng chính Thần Linh là Đấng lôi kéo chúng ta thực hiện các tác hành là dấu hiệu của việc Thiên Chúa đáp ứng và gần gũi. Khi chúng ta thấy một cách thức nào đó đến gần với người nghèo thì chúng ta biết rằng vị thế đầu này thuộc về Đấng đã mở mắt và mở lòng chúng ta cho việc hoán cải. Người nghèo không cần đến những nhân vật chính mà là cần một tình yêu thương biết cách che đậy và quên đi sự thiện đã thực hiện. Thành phần nhân vật chính là Chúa và người nghèo. Ai muốn phục vụ thì là dụng cụ trong tay Thiên Chúa để tỏ hiện sự hiện diện của Ngài và ơn cứu độ của Ngài. Thánh Phaolô nhắc nhở điều này khi ngài viết cho Kitô hữu ở Corinto (Thư 1), thành phần thường tranh giành nhau về các đặc sủng bằng cách tìm kiếm những gì là danh giá nhất: "Con mắt không thể nói với bàn tay rằng 'ta không cần người', cũng thế đầu không thể nói với chân rằng 'ta không cần ngươi'" (12:21). Vị Tông Đồ này nêu lên một điểm quan trọng khi ngài nhận định rằng các phần của thân thể có vẻ yếu kém hơn thì lại cần thiết hơn (câu 22); và "những bộ phận ta coi là tầm thường nhất, thì ta lại tôn trọng hơn cả. Những bộ phận kém trang nhã, thì ta lại mặc cho chúng trang nhã hơn hết. Còn những bộ phận trang nhã thì không cần gì cả" (câu 23-24). Vậy, vì Thánh Phaolô truyền đạt cho cộng đồng này một giáo huấn nền tảng về các đặc sủng thì ngài cũng giáo dục nó về thái độ của họ đối với kẻ yếu kém hơn và các phần tử cần thiết hơn theo chiều hướng của Phúc Âm. Khác hẳn với các môn đệ của Chúa Kitô là thành phần nuôi dưỡng những cảm thức khinh thường hay quá đạo đức đối với người nghèo, cộng đồng này được kêu gọi để tôn kính họ, cống hiến cho họ địa vị cao hơn, xuất phát từ niềm xác tín rằng họ là sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô giữa chúng ta. "Khi các người làm điều ấy cho một trong những người anh em hèn mọn nhất của Ta đây là các người làm cho chính Ta" (Mathêu 25:40).
8- Ở đây chúng ta có thể thấy xa cách biết bao cách sống của chúng ta với cách sống được thế gian ca tụng, theo đuổi và bắt chước những ai có quyền lực và giầu có, trong khi đó loại trừ người nghèo và coi họ như rác rưởi và là thứ đồ tủi nhục. Những lời của Tông Đồ Phaolô là lời mời gọi cống hiến trọn vẹn tình đoàn kết theo phúc âm với người yếu kém hơn và với các phần tử kém may mắn hơn trong thân mình của Chúa Kitô: "Nếu một phần thể chịu khổ thì tất cả đều cùng khổ; nếu một phần thể được tôn vinh thì tất cả cùng hoan hưởng" 1Corinto 12:26). Cũng thế, trong Thư gửi giáo đoàn Roma, ngài đã khuyên dụ chúng ta rằng: "Hãy vui với người vui, khóc với kẻ khóc. Hãy sống hòa hợp với nhau; đừng kiêu kỳ ngạo mạn, nhưng hãy liên kết gắn bó với kẻ thấp hèn" (12:15-16). Đó là ơn gọi của thành phần môn đệ Chúa Kitô; một lý tưởng mà chúng ta cần phải liên lỉ nỗ lực đó là gia tăng việc đồng hóa nơi chúng ta với "tâm trí của Chúa Giêsu Kitô" (Philiphe 2:5).
9- Lời kết tự nhiên mà đức tin hướng tới đó là một thứ ngôn ngữ hy vọng. Thường thì chính người nghèo là thành phần làm soi mòn đi cái tính chất dửng dưng lạnh lùng của chúng ta là nữ tử của một thứ nhãn quan sống quá cấp thời và bị trói buộc với hiện tại. Tiếng kêu của người nghèo cũng là tiếng kêu của niềm hy vọng bày tỏ niềm tin tưởng được giải phóng. Niềm hy vọng này được căn cứ vào tình yêu thương của Thiên Chúa là Đấng không bỏ rơi những ai tin tưởng vào Ngài (xem Roma 8:31-38). Như Thánh Teresa Avila đã viết trong cuốn Đường Lối Trọn Lành: "Khó nghèo bao gồm nhiều nhân đức. Nó là một lãnh vực bao rộng. Tôi khẳng định là ai khinh khi tất cả mọi sản vật trần gian này thì lại làm chủ chúng" (2:5). Căn cứ vào chuẩn mực ấy mà chúng ta có thể nhận thức được sự thiện chân thực khiến chúng ta trở thành giầu sang trước Thiên Chúa và khôn ngoan trước bản thân cùng tha nhân. Thật thế, theo chuẩn mực mà chúng ta thành đạt trong việc cống hiến cho giầu sang phú quí quyền lợi của nó cùng với cái cảm quan chân thực là chúng ta tăng trưởng về nhân tính và có khả năng chia sẻ.
10- Tôi mời gọi các chư huynh giám mục của tôi, các vị linh mục, đặc biệt là các phó tế là thành phần cống hiến đôi tay để phục vụ người nghèo (Tông Vụ 6:1-7), cũng như tu sĩ cùng tín hữu nam nữ - thành phần ở các giáo xứ, các hội đoàn và các phong trào của giáo hội hãy làm khả giác hóa việc Giáo Hội đáp ứng tiếng kêu của người nghèo, để sống Ngày Thế Giới này như là một giây phút đặc biệt của việc tân truyền bá phúc âm hóa. Người nghèo truyền bá phúc âm hóa chúng ta, giúp chúng ta hằng ngày khám phá thấy vẻ đẹp của Phúc Âm. Chúng ta đừng bỏ phí cơ hội ân sủng này. Chúng ta tất cả cảm thấy ngày này là ngày chúng ta là những con nợ đối với người nghèo, bằng cách hỗ tương giơ bàn tay của chúng ta ra cho nhau, một cuộc hội ngộ cứu độ được kiến tạo nên để làm kiên cường đức tin của chúng ta, khiến cho đức ái của chúng ta trở thành chủ động và giúp cho đức cậy của chúng ta có thể tiếp tục bảo đảm cho cuộc hành trình hướng tới Chúa là Đấng đang trở lại.
Vatican ngày 13/6/2018
Lễ nhớ Thánh Anton Padua
Phanxicô