SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XX Thường Niên 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




Chúa Nhật

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Gr 38, 4-6. 8-10

"Ngài đã sinh ra tôi làm người bất thuận sống trên vũ trụ".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Trong những ngày ấy, các thủ lãnh tâu vua rằng: "Chúng tôi xin bệ hạ cho lệnh giết người này, vì nó cố ý nói những lời làm lũng đoạn tinh thần chiến sĩ còn sống sót trong thành này và toàn dân. Thực sự tên này không tìm hoà bình cho dân, mà chỉ tìm tai hoạ". Vua Sêđêcia phán rằng: "Ðấy nó ở trong tay các ngươi, vì nhà vua không thể từ chối các ngươi điều gì". Họ liền bắt Giêrêmia và quăng xuống giếng của Melkia con Amêlec, giếng này ở trong sân khám đường, họ dùng dây thả Giêrêmia xuống giếng. Giếng không có nước, chỉ có bùn, nên ông Giêrêmia sa xuống bùn.

Abđêmêlech ra khỏi đền vua và đến tâu vua rằng: "Tâu bệ hạ, những người này chỉ toàn làm những điều ác đối với tiên tri Giêrêmia, họ ném ông xuống giếng cho chết đói dưới đó, vì trong thành hết bánh ăn". Vậy vua truyền dạy Abđêmêlech người Êthiôpi rằng: "Hãy đem ba mươi người ở đây theo ngươi, và kéo tiên tri Giêrêmia ra khỏi giếng trước khi ông chết".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 39, 2. 3. 4. 18

Ðáp: Lạy Chúa, xin cấp tốc trợ phù con (c. 14b).

Xướng: 1) Tôi đã cậy trông, tôi đã cậy trông ở Chúa, Người đã nghiêng mình về bên tôi, và Người đã nghe tiếng tôi kêu cầu. - Ðáp.

2) Người đã kéo tôi ra khỏi hố diệt vong, khỏi chỗ bùn nhơ; Người đã đặt chân tôi trên đá cứng, và đã làm vững bước chân tôi. - Ðáp.

3) Và Người đã đặt trong miệng tôi một bài ca mới, bài ca mừng Thiên Chúa chúng ta; nhiều người đã chứng kiến và tôn sợ, và họ sẽ cậy trông vào Chúa. - Ðáp.

4) Phần con, khốn khổ cơ bần, nhưng mà có Chúa ân cần chăm nom. Người là Ðấng phù trợ và giải thoát con, ôi lạy Chúa, xin Ngài đừng chậm trễ. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Dt 12, 1-4

"Chúng ta hãy kiên quyết xông ra chiến trận đang chờ đợi ta".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, cả chúng ta, chúng ta cũng có một đoàn thể chứng nhân đông đảo như đám mây bao quanh, chúng ta hãy trút bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta nặng nề và tội lỗi bao quanh chúng ta. Chúng ta hãy cương quyết xông pha chiến trận đang chờ đợi ta. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Ðức Giêsu, Ðấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn, và rồi lên ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nghĩ đến Ðấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào chính con người của Ngài, ngõ hầu anh em khỏi mỏi mệt mà thất vọng. Vì chưng, trong khi chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa đến nỗi phải đổ máu.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 12, 49-53

"Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng".

Ðó là lời Chúa.

 

Related image

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Phụng Vụ Lời Chúa nói chung, căn cứ chính yếu vào Bài Phúc Âm của Chúa Nhật XX Thường Niên Năm C, có thể nói là câu: “Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”.

Phép rửa” đây Chúa Giêsu muốn ám chỉ những gì, nếu không phải cuộc khổ nạn và tử giá của Người, “phép rửa” mà chính Người “khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”! Tại sao? Tại vì, như Người đã khẳng định ngay đầu Bài Phúc Âm hôm nay: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên”.

Lửa” được Người “đem xuống thế gian” và “mong muốn biết bao cho lửa ấy cháy lên” trên thế gian này ấy là gì, nếu không phải Thánh Linh, Đấng mà các vị tông đồ sẽ “chịu phép rửa khi nhận được quyền lực từ trên cao” (Tông Vụ 1:8) ở Giêrusalem trong ngày Lễ Ngũ Tuần, Đấng hiện xuống như hình lưỡi lửa đậu trên đầu của từng vị (xem Tông Vụ 2:3), sau khi Người Thăng Thiên về cùng Cha!

Đó là lý do, trước khi Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa ở Sông Dược Đăng (Jordan), Người đã được vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả của Người tiên báo về Đấng đến sau cao trọng hơn ngài rằng: Tôi chưa hề biết Ngài, nhưng Ðấng đã sai tôi đến thanh tẩy bằng nước, chính Người đã nói với tôi: Ngươi thấy Thần khí đáp xuống và lưu lại trên ai, thì chính Ngài là Ðấng thanh tẩy trong Thánh thần. (Gioan 1:33).

Thế nhưng, để có thể thực hiện phép rửa trong Thánh Thần vô cùng thiết yếu, một phép rửa tỏ hiện tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa, Đấng là tình yêu vô cùng nhân hậu, nhờ đó, loài người vô cùng thấp hèn và tội lỗi nói chung, và những ai tin vào Ngài nói riêng, được muôn đời hiệp thông thần linh với Ngài, thì chính bản thân Chúa Giêsu Kitô Con của Ngài “phải chịu một phép rửa” khổ nạn và tử giá bất khả thiếu.

Hình ảnh Người “phải chịu một phép rửa” khổ nạn và tử giá bất khả thiếu đây đã được cả Bài Đọc 1, liên quan đến số phận bị ám hại của Tiên Tri Giêrêmia, lẫn Bài Đọc 2, về chính Chúa Giêsu Kitô, hôm nay cho thấy.

Bài Đọc 1: “Trong những ngày ấy, các thủ lãnh tâu vua rằng: ‘Chúng tôi xin bệ hạ cho lệnh giết người này, vì nó cố ý nói những lời làm lũng đoạn tinh thần chiến sĩ còn sống sót trong thành này và toàn dân. Thực sự tên này không tìm hoà bình cho dân, mà chỉ tìm tai hoạ’. Vua Sêđêcia phán rằng: ‘Ðấy nó ở trong tay các ngươi, vì nhà vua không thể từ chối các ngươi điều gì’. Họ liền bắt Giêrêmia và quăng xuống giếng của Melkia con Amêlec, giếng này ở trong sân khám đường, họ dùng dây thả Giêrêmia xuống giếng. Giếng không có nước, chỉ có bùn, nên ông Giêrêmia sa xuống bùn”.

Bài Đọc 2: “…Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn, và rồi lên ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. … Ðấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào chính con người của Ngài”.

Đúng thế, “lửa” được “Lời đã hóa thành nhục thể” (Gioan 1:14) là Chúa Giêsu Kitô “đã đến mang xuống thế gian” đây chính là Thánh Thần, và Người đãmong muốn biết bao cho lửa ấy cháy lên” bằng cuộc khổ nạn và tử giá của Người. Và đó là lý do ngay sau khi sống lại từ trong cõi chết, vào buổi tối ngày thứ nhất trong tuần, khi hiện ra với các tông đồ lần đầu tiên, Người đã thông ban cho các vị Thánh Thần của mình, qua hơi thở sự sống, từ thân xác phục sinh của Người, được Người thổi trên các vị (xem Gioan 20: 22), những con người đang ở trong sự chết đầy nỗi sợ hãi và thất vọng.

Quả thật, thành phần đầu tiên được Chúa Giêsu Kitô thắp “lửa” Người “đem xuống thế gian” là chính các vị tông đồ, thành phần chứng nhân tiên khởi của Người, tiêu biểu cho chung những ai được Người tuyển chọn và kêu gọi làm môn đệ của Người trong giòng thời gian cho đến tận thế, thành phần nhân chứng của Người, chẳng những “ở Giêrusalem, khắp Giuđêa và Samaria” (Tông Vụ 1:8), mà còn “cho đến tận cùng trái đất nữa” (cùng câu vừa trích).

Các vị tông đồ chứng nhân tiên khởi, và cùng với các vị và theo các vị, Kitô hữu hậu sinh là môn đệ của Chúa Kitô Phục Sinh, “chịu phép rửa khi lãnh nhận được quyền lực từ trên cao” (Tông Vụ 1:8), là để “các con sẽ trở thành nhân chứng của Thày” (cùng câu vừa trích), không phải chỉ, dù trước tiên, ở Thánh Địa (Giêrusalem, Giuđêa và Samaria), mà còn, sau đó ở “khắp thế giới” (Marco 16:15) nữa, “cho đến tận cùng trái đất” (Tông Vụ 1:8), cho tới khi Người lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.

Và chính vì thành phần chứng nhân của Chúa Giêsu Kitô được lãnh nhận “phép rửa trong Thánh Linh” của Chúa Kitô và bởi Chúa Kitô như thế mà họ cũng đã, như Người, nhưng với Người và trong Người, trở thành mục tiêu chống đối của thế gian, bao gồm cả chính những ai thân tình nhất của họ, đúng như Chúa Kitô đã khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay:

Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng".

Thành phần môn đệ đích thực của Chúa Kitô bị chống đối là vì họ sống theo tinh thần của Người, theo giáo huấn của Người, một tinh thần và một giáo huấn siêu việt trên thế gian của Người, theo tác động hiệp thông của Thánh Linh, những gì hoàn toàn vượt trên thế gian, hơn là phản lại thế gian, nhưng vì “thế gian chuộng  tối tăm hơn ánh sáng” (Gioan 3:19), nên bất khả tránh xẩy ra tình trạng “chia rẽ nhau”, mà nạn nhân thua thiệt chính là thành phần thiểu số môn đệ chứng nhân của Chúa Kitô, như lịch sử của Giáo Hội đã từng chứng thực.

Thực tế cho thấy, không phải là không xẩy ra trường hợp thành phần Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô, không kể những người sống phản chứng Kitô, mang tích cách “phản Kitô”, còn có những tâm hồn không thể hay không dám trung thành với Người khi chạm trán và đụng độ với quyền lực hay áp lực của thế gian. Đó là lý do, trong Bài Đọc 2 hôm nay, Kitô hữu giáo đoàn Do Thái mới được nhắc nhở và khuyên nhủ hãy theo mẫu gương của Chúa Kitô, Đấng đã “phải chịu phép rửa” khổ nạn và tử giá vô cùng khủng khiếp của Người cho phần rỗi của nhân loại nói chung và cho Giáo Hội của Người được thánh hoá nói riêng (xem Gioan 17:19), như sau:

Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Ðức Giêsu, Ðấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn, và rồi lên ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nghĩ đến Ðấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào chính con người của Ngài, ngõ hầu anh em khỏi mỏi mệt mà thất vọng”.

Tuy nhiên, những ai là Kitô hữu môn đệ của Chúa Kitô, thành phần chứng nhân đích thực và sống động của Người, ở trong những trường hợp “chia rẽ nhau” như thế, chẳng những không nản chí và bỏ cuộc, trái lại, còn càng tin cậy vào Đấng Phục Sinh “được toàn quyền trên trời dưới đất” (Mathêu 28:19), c ũng như vào Đấng Quan Phòng Thần Linh vô cùng khôn ngoan, toàn thiện và toàn năng là chủ tể của lịch sử loài người hơn bao giờ hết, như tâm tình và chiều hướng của Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Tôi đã cậy trông, tôi đã cậy trông ở Chúa, Người đã nghiêng mình về bên tôi, và Người đã nghe tiếng tôi kêu cầu.

2) Người đã kéo tôi ra khỏi hố diệt vong, khỏi chỗ bùn nhơ; Người đã đặt chân tôi trên đá cứng, và đã làm vững bước chân tôi.

3) Và Người đã đặt trong miệng tôi một bài ca mới, bài ca mừng Thiên Chúa chúng ta; nhiều người đã chứng kiến và tôn sợ, và họ sẽ cậy trông vào Chúa.

4) Phần con, khốn khổ cơ bần, nhưng mà có Chúa ân cần chăm nom. Người là Ðấng phù trợ và giải thoát con, ôi lạy Chúa, xin Ngài đừng chậm trễ.

 

 

 

Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Tl 2, 11-19

"Chúa khiến các quan án đứng ra, nhưng chúng không muốn nghe các ông".

Trích sách Thủ Lãnh.

Trong những ngày ấy, con cái Israel làm điều gian ác trước mặt Chúa và phụng thờ các thần Baal. Chúng lìa bỏ Chúa là Thiên Chúa các tổ phụ chúng, Ðấng đã dẫn chúng ra khỏi đất Ai-cập, mà theo các thần ngoại, những thần các dân tộc cư ngụ chung quanh chúng, và thờ lạy các thần ấy, khiêu khích cơn nghĩa nộ Chúa, chối bỏ Người, và phụng thờ thần Baal và Astaroth. Chúa thịnh nộ Israel, trao chúng vào tay bọn cướp. Bọn này bắt chúng mà bán cho quân thù ở chung quanh chúng, chúng không sao chống lại được địch thù của chúng. Dù chúng muốn đi nơi nào, tay Chúa vẫn đè trên chúng, như Người đã phán và đã thề với chúng, như thế chúng phải chịu khổ cực nặng nề.

Chúa khiến các vị thủ lãnh đứng ra giải thoát chúng khỏi tay những người bóc lột, nhưng chúng cũng chẳng muốn nghe theo các vị thủ lãnh. Chúng hướng lòng về các thần ngoại và thờ lạy các thần ấy. Chúng đã vội bỏ đường lối các tổ tiên chúng đã đi, dù chúng có nghe biết các điều răn của Chúa, nhưng chúng vẫn làm mọi điều trái nghịch. Khi Chúa khiến các vị thủ lãnh đứng ra, Người tỏ lòng thương xót chúng, nghe lời những kẻ khốn cực kêu van, và giải thoát chúng khỏi tay những người bóc lột sát hại. Nhưng sau khi vị thủ lãnh chết, chúng lại đổi lòng, làm những điều xấu xa hơn cha ông chúng đã làm, theo các thần ngoại, phụng sự và thờ lạy các thần ấy. Chúng không từ bỏ những điều chúng bày đặt ra và đường lối quá ương ngạnh chúng quen đi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 105, 34-35. 36-37. 39-40. 43ab và 44

Ðáp: Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Chúa (c. 4a).

Xướng: 1) Họ không chịu tiêu diệt những dân mà Chúa đã có lệnh truyền cho họ. Họ đã hoà mình với người chư dân, và học theo công việc chúng làm. - Ðáp.

2) Họ sùng bái tà thần của chúng, những tà thần đã hoá thành lưới dò hại họ. Họ đã giết những người con trai và con gái, để làm lễ cúng tế quỷ thần. - Ðáp.

3) Bởi những việc đó, họ tự làm ô uế bản thân, và do hành động tội lỗi, họ đã ngoại tình. Chúa đã bừng cơn thịnh nộ với dân tộc, và tởm ghét phần gia nghiệp của Người. - Ðáp.

4) Nhiều lần Chúa đã thương giải phóng nhưng họ manh tâm chống lại Người. Nhưng Người đã nhìn đến cảnh gian truân của họ, khi Người nghe lời họ kêu xin. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 34

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 19, 16-22

"Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, có một người đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?" Người bảo kẻ ấy rằng: "Sao ngươi hỏi Ta về việc lành? Chỉ có một Ðấng nhân lành là Thiên Chúa. Nếu ngươi muốn vào nơi hằng sống, ngươi hãy tuân giữ các giới răn". Người ấy hỏi rằng: "Những giới răn nào?" Chúa Giêsu đáp: "Ngươi chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối. Hãy thảo kính cha mẹ, và yêu thương kẻ khác như chính mình". Người thanh niên thưa lại rằng: "Tất cả những điều đó tôi đã giữ từ khi còn niên thiếu, vậy tôi còn thiếu sót gì nữa chăng? Chúa Giêsu bảo anh: "Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo khó, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Ta". Khi người thanh niên nghe lời đó thì buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều sản nghiệp.

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Mt 19, 16-22

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Tốt Lành vẫn chưa Thánh Đức

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XX Thường Niên hôm nay tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm của Thứ Bảy tuần trước, bài Phúc Âm về "Nước Trời thuộc về những người" sống tinh thần khiêm hạ như trẻ nhỏ.

Về nội dung, có thể nói bài Phúc Âm hôm nay tiếp nối bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước. Vì trong bài Phúc Âm hôm nay Nước Trời dường như không thuộc về thành phần giầu có như người giầu có trong bài Phúc Âm, cho dù người giầu có này sống đạo đàng hoàng chứ không vì giầu mà bê bối. 

Trước hết, người giầu trong bài Phúc Âm sống đạo đàng hoàng, đến độ dường như vẫn còn cảm thấy thiếu một cái gì đó cho dù về vật chất giầu sang phú quí, nên mới lên tiếng hỏi Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?" 

Sau nữa, "người thanh niên" này không vì giầu mà sống bê bối, như lời anh ta đã thưa cùng Chúa Giêsu, Đấng đã liệt kê các giới răn căn bản trong Thập Giới để được cứu rỗi hay "để được sống đời đời", những giới răn "chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối. Hãy thảo kính cha mẹ, và yêu thương kẻ khác như chính mình", những giới răn mà anh ta đã tự thú với Người rằng"Tất cả những điều đó tôi đã giữ từ khi còn niên thiếu, vậy tôi còn thiếu sót gì nữa chăng?" 

Đúng thế, con người được dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Thiên Chúa nên lòng luôn khắc khoải cho tới khi được nghỉ yên trong Ngài mà cho dù giầu sang phú quí về vật chất họ vẫn cảm thấy xao xuyến bất an làm sao ấy. Thái độ của người thanh niên giầu sang trong bài Phúc Âm đã cho thấy rõ tâm trạng này, chẳng những ở vấn nạn được anh ta đặt ra hỏi Chúa Giêsu: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?", mà còn ở hành động cuối cùng của anh ta được Phúc Âm thuật lại rằng: "Khi người thanh niên nghe lời đó thì buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều sản nghiệp".

Tuy nhiên, tâm trạng vẫn còn "thiếu sót" này của chàng thanh niên giầu có trong bài Phúc Âm hôm nay cũng dễ hiểu thôi. Bởi vì, ơn gọi nên trọn lành không phải ai cũng có thể theo đuổi, hễ muốn là được, mà cần phải được kêu gọi và tuyển chọn như các vị tông đồ. Mà muốn nên trọn lành thì điều kiện tiên quyết đó là từ bỏ tất cả những gì con người sở hữu, nhờ đó họ mới có thể tiến đến chỗ bỏ mình và vác thập giá mà theo Chúa Kitô Vượt Qua được, như chính Người đã kêu gọi trong bài Phúc Âm hôm nay: "Nếu anh muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải anh có và bố thí cho người nghèo khó, thì anh sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Tôi".

Dấu hiệu còn cảm thấy "thiếu sót" và "buồn rầu" của người thanh niên giầu có trong bài Phúc Âm dầu sao cũng đáng mừng, vì chúng chứng tỏ người thanh niên giầu có này vẫn còn ý thức đức tin, vẫn còn khao khát nên trọn lành, tuy chưa thể thực hiện ngay được, hơn là những con người tham lam làm giầu đến độ bỏ Chúa, bỏ lễ Chúa Nhật, cho đến khi Chúa để cho thất bại, tan gia bại sản thì đâm ra trách Chúa, hận Chúa, tại sao Chúa để cho họ bị khốn khó như vậy v.v. Tại sao họ không tự trách mình bỏ Chúa mà lại trách Chúa bỏ họ nhỉ?! Thật là đáng thương...

Thái độ tỏ ra luyến tiếc thế gian, dính bén với tất cả những gì mình có, đến độ không thể từ bỏ mà sống trọn lành hơn của chàng thanh niên giầu có trong bài Phúc Âm hôm nay, là bằng chứng cho thấy mầm mống nguyên tội của con người vẫn còn đó, với đam mê nhục dục và tính mê nết xấu, một mầm mống cho dù đã được lãnh nhận Phép Rửa, và nhờ đó đã như dân Do Thái vào Đất Hứa, nhưng Kitô hữu vẫn cần phải chiến đấu với bản thân mình để Sống Thánh xứng với thân phận là con cái của Thiên Chúa là Đấng Thánh. Thân phận của dân Chúa ở Đất Hứa cũng thế, như hai nguyên tổ ở trong Vườn Địa đường, cũng vẫn phải chiến đấu với chính bản thân mình trước mọi cám dỗ của đủ mọi thứ thần tượng thế gian rất thích hợp với con người của mình, nhưng lại không phải là chính Thiên Chúa của mình. Bài Đọc 1 hôm nay đã được Sách Thủ Lãnh / Quan Án ghi nhận về tình trạng của dân Chúa vẫn còn xu hướng dân ngoại và hằng được Thiên Chúa tìm hết cách để cải hoá họ, như sau:

 

Trong những ngày ấy, con cái Israel làm điều gian ác trước mặt Chúa và phụng thờ các thần Baal. Chúng lìa bỏ Chúa là Thiên Chúa các tổ phụ chúng, Ðấng đã dẫn chúng ra khỏi đất Ai-cập, mà theo các thần ngoại, những thần các dân tộc cư ngụ chung quanh chúng, và thờ lạy các thần ấy, khiêu khích cơn nghĩa nộ Chúa, chối bỏ Người, và phụng thờ thần Baal và Astaroth. Chúa thịnh nộ Israel, trao chúng vào tay bọn cướp... Chúa khiến các vị thủ lãnh đứng ra giải thoát chúng khỏi tay những người bóc lột, nhưng chúng cũng chẳng muốn nghe theo các vị thủ lãnh. Chúng hướng lòng về các thần ngoại và thờ lạy các thần ấy. Chúng đã vội bỏ đường lối các tổ tiên chúng đã đi, dù chúng có nghe biết các điều răn của Chúa, nhưng chúng vẫn làm mọi điều trái nghịch. Khi Chúa khiến các vị thủ lãnh đứng ra, Người tỏ lòng thương xót chúng, nghe lời những kẻ khốn cực kêu van, và giải thoát chúng khỏi tay những người bóc lột sát hại. Nhưng sau khi vị thủ lãnh chết, chúng lại đổi lòng, làm những điều xấu xa hơn cha ông chúng đã làm, theo các thần ngoại, phụng sự và thờ lạy các thần ấy. Chúng không từ bỏ những điều chúng bày đặt ra và đường lối quá ương ngạnh chúng quen đi".

 

Thánh Vịnh 105 ở bài Đáp Ca hôm nay đã cho thấy nguyên do dân Do Thái vẫn còn xu hướng dân ngoại (câu 1), đã sống như dân ngoại (câu 2), đến độ đã trở nên bất xứng với Thiên Chúa (câu 3), nhưng Chúa là vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ vẫn không bao giờ bỏ rơi họ (câu 4), tất cả 4 câu Thánh Vịnh này như sau:

1) Họ không chịu tiêu diệt những dân mà Chúa đã có lệnh truyền cho họ. Họ đã hoà mình với người chư dân, và học theo công việc chúng làm.

2) Họ sùng bái tà thần của chúng, những tà thần đã hoá thành lưới dò hại họ. Họ đã giết những người con trai và con gái, để làm lễ cúng tế quỷ thần.

3) Bởi những việc đó, họ tự làm ô uế bản thân, và do hành động tội lỗi, họ đã ngoại tình. Chúa đã bừng cơn thịnh nộ với dân tộc, và tởm ghét phần gia nghiệp của Người.

4) Nhiều lần Chúa đã thương giải phóng nhưng họ manh tâm chống lại Người. Nhưng Người đã nhìn đến cảnh gian truân của họ, khi Người nghe lời họ kêu xin.

 


Thứ Ba

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Tl 6, 11-24a

"Hỡi Giêđêon, hãy đi giải thoát Israel: ngươi biết Ta thương xót ngươi".

Trích sách Thủ Lãnh.

Trong những ngày ấy, Thiên thần Chúa đến ngồi dưới gốc cây sồi ở đất Êphra, thuộc sở hữu của ông Gioas, tổ gia tộc Abiêzer. Khi ấy, Giêđêon, con trai của ông, đang đập và rê lúa trong nhà ép nho để tránh mắt quân Mađian, thì Thiên thần Chúa hiện ra với ông và nói rằng: "Hỡi người dũng sĩ, Chúa ở cùng ngươi". Giêđêon thưa lại rằng: "Thôi, xin Ngài, nếu Chúa ở cùng chúng tôi, tại sao chúng tôi phải chịu tất cả những sự này? Nào đâu những việc kỳ diệu của Chúa mà cha ông chúng tôi đã kể lại cho chúng tôi mà rằng: "Chúa đã dẫn chúng ta ra khỏi Ai-cập"? Nhưng nay Chúa lại bỏ rơi chúng tôi và trao chúng tôi vào tay quân Mađian". Chúa nhìn ông mà phán rằng: "Ngươi hãy mạnh mẽ tiến đi mà giải thoát Israel khỏi tay quân Mađian: chính Ta sai ngươi đó". Ông thưa lại rằng: "Thôi, xin Chúa, con dựa vào đâu mà giải thoát Israel? Ðây gia đình con là gia đình rốt hết trong chi tộc Manassê, và con là con út trong nhà cha con". Chúa phán cùng ông rằng: "Ta sẽ ở cùng ngươi: ngươi sẽ đánh ngã quân Mađian như đánh một người vậy". Ông thưa rằng: "Nếu con đẹp lòng Chúa, thì xin Chúa ban cho con một dấu chứng rằng chính Chúa phán dạy con. Xin Chúa chớ lìa khỏi nơi đây cho đến khi con trở lại cùng Chúa, mang theo của lễ dâng lên Chúa". Chúa đáp lại rằng: "Ta sẽ đợi ngươi trở lại".

Vậy Giêđêon vào nhà làm thịt một con dê đực, lấy một đấu bột làm bánh không men: để thịt vào giỏ, đổ nước thịt vào nồi, mang các món đó đến dưới cây sồi mà dâng cho Chúa. Thiên thần Chúa bảo ông rằng: "Ngươi hãy đem thịt và bánh không men đặt trên tảng đá kia, rồi đổ nước thịt lên trên". Khi ông làm như vậy, thì Thiên thần Chúa giơ cây gậy Người cầm trong tay lên và chạm đến thịt và bánh không men, tức thì có lửa từ tảng đá bốc lên thiêu đốt thịt và bánh không men. Thiên thần Chúa liền biến đi khuất mắt ông. Giêđêon nhận biết đó là Thiên thần Chúa, liền thưa rằng: "Ôi, lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con đã nhìn thấy Thiên thần Chúa nhãn tiền". Chúa phán cùng ông rằng: "Bình an cho ngươi. Ðừng sợ, ngươi không chết đâu". Giêđêon liền dựng một bàn thờ dâng kính Chúa, và gọi bàn thờ đó là "Bình an của Chúa".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 84, 9. 11-12. 13-14

Ðáp: Chúa phán bảo về sự bình an cho dân tộc Người (x. c. 9).

Xướng: 1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an, bình an cho dân tộc và các tín đồ của Chúa, và cho những ai thành tâm trở lại với Người. - Ðáp.

2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. - Ðáp.

3) Vâng Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất Nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 36a và 29b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin nghiêng lòng con theo lời Chúa răn bảo, và xin rộng tay ban luật pháp của Chúa cho con. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 19, 23-30

"Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo thật các con: Người giàu có thật khó mà vào Nước Trời. Thầy còn bảo các con rằng: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời". Các môn đệ nghe vậy thì bỡ ngỡ quá mà thưa rằng: "Vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu nhìn các ông mà phán rằng: "Ðối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được". Bấy giờ Phêrô thưa Người rằng: "Này đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?" Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Thầy bảo thật các con: Các con đã theo Thầy, thì trong ngày tái sinh, khi Con Người ngự trên toà vinh hiển, các con cũng sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và tất cả những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nhưng có nhiều kẻ trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết sẽ nên trước hết".

Ðó là lời Chúa.

Related image

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Một tí ti bất khả lọt nhưng cũng bất khả thiếu



Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XX Thường Niên tiếp tục bài Phúc Âm hôm qua là bài phúc âm về người thanh niên giầu có chưa thể nên trọn lành được vì còn ham của cải trần gian tuy vẫn sống đạo đàng hoàng.
Bài Phúc Âm hôm nay, trước hết, liên quan đến tình trạng người giầu có khó vào Nước Trời, ngoại trừ có ơn đặc biệt của Thiên Chúa, như chính Chúa Giêsu khẳng định:
"'Thầy bảo thật các con: Người giàu có thật khó mà vào Nước Trời. Thầy còn bảo các con rằng: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời'. Các môn đệ nghe vậy thì bỡ ngỡ quá mà thưa rằng: 'Vậy thì ai có thể được cứu độ?' Chúa Giêsu nhìn các ông mà phán rằng: 'Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được'". 

Ở đây, hình ảnh con lạc đà to lớn so với lỗ kim tí ti có thể ám chỉ hay tiêu biểu cho 2 điều: con người vào qua cửa Thiên Đàng và cõi lòng của con người trước tác động thần linh của Thiên Chúa. Trước hết, con người muốn vào Nước Trời "phải vào qua cửa hẹp" (Mathêu 8:13), nghĩa là phải "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" (Mathêy 18:3), bằng không, không thể nào vào Nước Trời được, khi lòng của con người to lớn kềnh càng như con lạc đà, lưng còn cong lên lại càng khó chui lọt, ám chỉ lòng của họ còn đầy những tham lam, tham vọng, tự cao, tự đại, kiêu căng, tự ái v.v.

Tuy nhiên, cho dù con người có hư đốn đến đâu, có tội lỗi đến mấy, miễn là đừng cứng lòng và tuyệt vọng, thì vẫn được rỗi, nghĩa là vẫn còn một khe hở cho dù tí ti như lỗ kim, quyền năng vĩ đại của Chúa lớn lao hơn con lạc đà vẫn có thể lọt vào lòng họ để biến đổi họ thành những vị đại thánh một cách đốt giai đoạn (short cut) như người trộm lành cuối cùng đã đánh cắp được cả Nước Trời, như người thu thuế sấp mình đấm ngực ăn năn ra khỏi đền thờ đã nên công chính, trong khi con lạc đà biệt phái lại không, vì vươn mình lên tự cao tự đại tự đắc.
Bài Phúc Âm hôm nay còn liên quan đến thành phần đã bỏ mọi sự mà theo Chúa, thành phần đã được bù đắp bằng những thứ về cả đời này lẫn đời sau như thế này:

"Bấy giờ Phêrô thưa Người rằng: 'Này đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?' Chúa Giêsu bảo các ông rằng: 'Thầy bảo thật các con: Các con đã theo Thầy, thì trong ngày tái sinh, khi Con Người ngự trên toà vinh hiển, các con cũng sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và tất cả những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nhưng có nhiều kẻ trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết sẽ nên trước hết'".

 

Trước hết, thành phần "bỏ mọi sự mà theo Thày" - "sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel": Nghĩa là nhân loại sẽ được xét xử căn cứ vào chứng từ của thành phần theo Chúa, một chứng từ cho thấy "đức tin hoạt động qua đức ái" (Galata 5:6), một chứng từ nhờ đó họ có thể nhận biết Thiên Chúa mà được sống

 

Đó là lý do trong cuộc chung thẩm, Vị Thẩm Phán Tối Cao đã phân loại chiên dê theo tiêu chuẩn "đức tin hoạt động qua đức ái" này, khi Người phán xét cả hai về đức bác ái theo bề ngoài nhưng thật ra phán xét đức tin của họ, ở chỗ dê không thấy Người nơi thành phần anh chị em hèn mọn nhất của Người nên không thương giúp bởi đó bị loại trừ, còn chiên dù không thấy vẫn ra tay bác ái cứu trợ nên được cứu độ (xem Mathêu 25:31-46). 

 

Sau nữathành phần "bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy" - "sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời": Theo Phúc Âm Thánh Marco đoạn 10 câu 30 thì câu nói của Chúa Kitô đây còn được xác định rõ ràng "đời này" và "đời sau" nữa: "sẽ được gấp trăm" ngay "ở đời này" và "được sự sống trường sinh" "ở đời sau". Mà nếu thành phần môn đệ theo Chúa Kitô mà quả thực "được gấp trăm" ngay "ở đời này" thì chắc chắn họ sẽ "được sự sống trường sinh" "ở đời sau". 

 

Đúng thế, ngay "ở đời này" thành phần môn đệ theo Chúa Kitô không phải là thành phần "có tinh thần nghèo khó" nên đã được "Nước Đức Chúa Trời làm của mình vậy" (Mathêu 5:3) hay sao, và họ cũng không phải là thành phần "hiền lành" nên đã "được đất làm của mình vậy" (Mathêu 5:5) hay sao, một thứ "đất" biểu hiệu cho thế gian hay nhân loại. Nghĩa là họ dám đánh đổi tất cả mọi sự họ có để tậu cho bằng được thửa ruộng thế gian là nơi kho tàng Chúa Kitô được chôn giấu (xem Mathêu 13:44). Như thế không phải là họ đã thực sự được "gấp trăm" ngay "ở đời này" hay sao, là được cả Chúa Kitô lẫn ơn cứu chuộc thế gian của Người?


Thật vậy, "đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được". Đối với trường hợp của thành phần giầu có, theo tự nhiên, khó được rỗi, nếu không muốn nói là bất khả, như lạc đà to lớn cồng kềnh không thể chui qua lỗ kim nhỏ xíu, và ngược lại, thành phần bỏ hết mọi sự để có thể theo Chúa, như các vị tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay, một từ bỏ cũng là những gì bất khả theo bản năng tự nhiên vị kỷ chỉ muốn hưởng thụ của mình. Bởi thế, Thiên Chúa bao giờ cũng lợi dụng những gì con người bất xứng, bất lực và bất hạnh để tỏ mình ra cho họ, nhờ đó họ từ từ nhận biết Ngài hơn, như trong trường hợp của dân Do Thái trong Bài Đọc 1 được Sách Thủ Lãnh cho thấy Thiên Chúa lợi dụng chính tình trạng dân Ngài bỏ Ngài để chứng thực Ngài là vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, bằng việc Ngài tìm cách giải cứu họ, qua một số nhân vật của họ, như chàng Giêđêon:

 

"Khi ấy, Giêđêon, con trai của ông, đang đập và rê lúa trong nhà ép nho để tránh mắt quân Mađian, thì Thiên thần Chúa hiện ra với ông và nói rằng: 'Hỡi người dũng sĩ, Chúa ở cùng ngươi'. Giêđêon thưa lại rằng: 'Thôi, xin Ngài, nếu Chúa ở cùng chúng tôi, tại sao chúng tôi phải chịu tất cả những sự này? Nào đâu những việc kỳ diệu của Chúa mà cha ông chúng tôi đã kể lại cho chúng tôi mà rằng: Chúa đã dẫn chúng ta ra khỏi Ai-cập? Nhưng nay Chúa lại bỏ rơi chúng tôi và trao chúng tôi vào tay quân Mađian'. Chúa nhìn ông mà phán rằng: 'Ngươi hãy mạnh mẽ tiến đi mà giải thoát Israel khỏi tay quân Mađian: chính Ta sai ngươi đó'. Ông thưa lại rằng: 'Thôi, xin Chúa, con dựa vào đâu mà giải thoát Israel? Ðây gia đình con là gia đình rốt hết trong chi tộc Manassê, và con là con út trong nhà cha con'. Chúa phán cùng ông rằng: 'Ta sẽ ở cùng ngươi: ngươi sẽ đánh ngã quân Mađian như đánh một người vậy'".

 

Thánh Vịnh 84 ở bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy những ai được Thiên Chúa ở cùng, như nhân vật Giêđêon trang Bài Đọc 1 hôm nay, thì luôn quan tâm đến Ngài (câu 1), nhờ đó xứng đáng được Ngài tỏ mình ra và sử dụng, như thể "lòng nhân hậu (của Chúa) và lòng trung thành (của con người) gặp gỡ nhau" (câu 2), và cũng nhờ đó, dân Chúa được giải cứu, theo đức công minh của Thiên Chúa, Đấng "công minh" thấu suốt tất cả mọi sự về thành phần dân được Ngài tuyển chọn, để tìm cách ban "ơn cứu độ" của Ngài cho họ, như thể  "Ðức công minh sẽ đi trước ... và ơn cứu độ theo sau" vậy (câu 3), những câu Thánh Vịnh tuyệt vời diễn tả về Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất ở chỗ Ngài tỏ lòng nhân hậu xót thương:

1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an, bình an cho dân tộc và các tín đồ của Chúa, và cho những ai thành tâm trở lại với Người.

2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống.

3) Vâng Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất Nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Ngài.

 

 



Thứ Tư 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Tl 9, 6-15

"Ðang khi Chúa ngự trị giữa chúng tôi, các ngươi đã nói: "Xin cho một vua cai trị chúng tôi".

Trích sách Thủ Lãnh.

Khi ấy, mọi người Sikem và tất cả các gia tộc thành Mêllô tụ họp lại, rồi kéo nhau đến gần cây sồi ở Sikem, và tôn Abimêlech lên làm vua.

Khi ông Giotham nghe tin ấy, liền đi lên đứng trên đỉnh núi Garizim, lớn tiếng kêu lên rằng: "Hỡi người Sikem, hãy nghe ta, để Thiên Chúa cũng nghe các ngươi. Các cây cối đều đến xức dầu phong một vị vua cai trị chúng, và nói cùng cây ôliu rằng: "Hãy đi cai trị chúng tôi". Cây ôliu đáp lại rằng: "Chớ thì ta có thể bỏ việc sản xuất dầu mà các thần minh và loài người quen dùng, để được lên chức cai trị cây cối sao?" Các cây cối nói cùng cây vả rằng: "Hãy đến cầm quyền cai trị chúng tôi". Cây vả trả lời rằng: "Chớ thì ta có thể bỏ sự ngọt ngào của ta, bỏ hoa trái ngon lành của ta, để được lên chức cai trị các cây cối khác sao?" Các cây cối nói với cây nho rằng: "Hãy đến cai trị chúng tôi". Cây nho đáp rằng: "Chớ thì ta có thể bỏ việc cung cấp rượu, là thứ làm cho Thiên Chúa và loài người được vui mừng, để được lên chức cai trị các cây cối khác sao?" Tất cả những cây cối nói với bụi gai rằng: "Hãy đến cai trị chúng tôi". Bụi gai trả lời rằng: "Nếu các ngươi thật lòng đặt ta làm vua các ngươi, thì các ngươi hãy đến nghỉ dưới bóng ta. Nhưng nếu các ngươi không muốn thì sẽ có lửa từ bụi gai phát ra thiêu huỷ các cây hương nam núi Liban".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 20, 2-3. 4-5. 6-7

Ðáp: Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng (c. 2a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng; do ơn Chúa phù trợ, vua xiết bao hân hoan! Chúa đã ban cho sự lòng vua ao ước, và điều môi miệng vua xin, Chúa chẳng chối từ.- Ðáp.

2) Chúa đã tiên liệu cho vua được phước lộc may mắn, đã đội triều thiên vàng ròng trên đầu vua. Nhờ Chúa giúp mà vua được vinh quang cao cả, Chúa khoác lên người vua, oai nghiêm với huy hoàng. - Ðáp.

3) Vua xin Chúa cho sống lâu, thì Chúa đã ban cho một chuỗi ngày dài tới muôn muôn thuở. Chúa đã khiến vua nên mục tiêu chúc phúc tới muôn đời, Chúa đã cho vua được hân hoan mừng rỡ trước thiên nhan. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 135

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 20, 1-16a

"Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông.

"Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng". Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.

"Ðến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: "Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Họ thưa rằng: "Vì không có ai thuê chúng tôi". Ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta".

"Ðến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: "Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết". Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Ðang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?" Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: "Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?"

"Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết".

Ðó là lời Chúa.

Related image

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

Ân Sủng - Một đảo lộn Thần Linh

 

Lời Chúa cho Thứ Tư Tuần XX Thường Niên hôm nay được tiếp tục trước hết với Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu với 16 cầu đầu ở đoạn 20 về dụ ngôn thuê thợ làm vườn nho và trả công đồng đều cho họ bao gồm cả người làm nhiều giờ nhất, từ "giờ thứ ba" trong ngày đến người ít giờ nhất, từ "giờ thứ 11" trong ngày, tức cách nhau 8 tiếng đồng hồ.

Sự kiện chủ trả lương đồng đều cho cả nhóm thợ được thuê sớm nhất lẫn nhóm thợ thuê muộn nhất bề ngoài có vẻ bất công, như chính cảm nhận của nhóm thợ đến làm sớm nhất: 
"Đến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: 'Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết'. Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Đang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: 'Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?'" 
Thật ra, theo lý thì người chủ này chẳng những không bất công một chút nào với nhóm thợ được ông thuê làm vườn nho cho ông sớm nhất mà còn theo tình tỏ ra hết sức rộng lượng nữa là đằng khác với nhóm thợ được ông thuê làm vườn nho cho ông muộn nhất và ít vất vả nhất nữa, như chính câu trả lời của ông với nhóm thợ than phần hành động của ông cho thấy:
"Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?" 
Đúng thế, ông chủ vườn nho không bất công với nhóm thợ đầu tiên và 2 nhóm thợ sau đó. Bởi vì 3 nhóm thợ đến sớm này và ông đã thỏa thuận với nhau về tiền công đâu vào đấy rồi: 
"Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông. Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: 'Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng'. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy'". 
Còn việc ông chủ này trả cho nhóm thợ sau cùng bằng nhóm thợ đầu tiên là do lòng quảng đại của ông, bởi nhóm thợ sau cùng này không hề mặc cả và đòi hỏi gì, có việc làm là tốt rồi, bằng không sẽ bị ế lao công và thiện chí của họ, trong khi đó ông chủ cũng chẳng hứa trả cho họ bao nhiêu và họ phải làm như thế nào: "Đến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: 'Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?' Họ thưa rằng: 'Vì không có ai thuê chúng tôi'. Ông bảo họ rằng: 'Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta'".
Riêng với nhóm thợ cuối cùng này, theo lý họ chẳng những đáng được hưởng 1 đồng như nhóm thợ đầu tiên mà còn gấp 3 nữa, nghĩa là đáng 3 đồng.  Đồng thứ nhất - bởi vì họ cũng đã sẵn sàng đi làm từ ban đầu, đến độ họ cứ đợi mãi mà chẳng có ai thuê mướn. Đồng thứ hai - họ chẳng những đã sẵn sàng làm việc từ sáng sớm, mà còn tỏ ra nhẫn nại chờ đợi được thuê mướn nữa, nhất là khi được thuê mướn không mặc cả gì như ba nhóm thợ đầu tiên, có việc là vui rồi, làm gì cũng được, lương bao nhiêu cũng OK, đủ cho họ xứng đáng lãnh nhận bằng đồng lương của nhóm đầu tiên. Đồng thứ ba - vì trong thời gian chờ đợi dược thuê mướn, họ có thể cảm thấy chán nản và cảm thấy bị bỏ rơi khi thấy 3 nhóm thợ trước được thuê mướn, như thể họ chỉ là đồ bỏ, là những gì vô dụng, không đáng được thuê mướn như 3 đám trước, nhưng họ vẫn nhẫn nại đợi chờ, vẫn chấp nhận thân phận cuối rốt của mình, nhất là khi chiều về, gần hết ngày mà chẳng có việc làm thì không biết lấy gì cho vợ con ăn uống đang hết lòng trông đợi mình ở nhà. Như thế có nghĩa là họ thật là xứng đáng được lương nhiều hơn các đám thợ trước.

Chưa hết, vấn đề còn được đặt ra với nhóm thợ cuối cùng đặc biệt này là tại sao chủ vườn nho đã ra thuê thợ làm vườn nho cho mình cả 3 lần trước đó mà lại không thấy họ là những người mà chính ông chủ cũng phải công nhận "sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Phải chăng vì họ đứng ở chỗ khác với 3 nhóm trước, và ông chủ mỗi lần đi một chỗ khác để tìm thuê thêm thợ, để rồi cuối cùng ông mới tới chỗ của họ đứng chờ, biểu hiệu cho vị thế và thân phận của mỗi người ở trong sự quan phòng thần linh của Thiên Chúa, Đấng kêu gọi họ vào lúc nào Ngài muốn.

C
ăn cứ vào dụ ngôn trong bài Phúc Âm này, vào nguyên tắc đối xử của ông chủ vườn nho với các nhóm thợ được ông thuê vào làm vườn nho cho ông, thì chúng ta thấy rằng chúng ta được quyền yêu thương người này hơn người kia, chẳng hạn Chúa Giêsu yêu Tông Đồ Gioan một cách đặc biệt trong số các tông đồ của Người, nhưng đừng vì thế, vì người được mình yêu hơn bởi một lý do chính đáng nào đó mà đối xử bất công với những người khác. Có nghĩa là, theo nguyên tắc, theo lý, phải yêu thương hết mọi người như nhau, như bản thân mình, nhưng, theo tình, chúng ta vẫn có thể yêu một người nào đó hơn, vì hoàn cảnh đáng thương cần cứu giúp của họ, hay vì khả năng phục vụ đắc lực cho công ích của họ v.v.
Trong lịch sử Giáo Hội cũng xẩy ra những trường hợp được Chúa Giêsu cảnh giác ở câu cuối của bài Phúc Âm hôm nay: "kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết". Chẳng hạn một Tông Đồ của Các Tông Đồ Mai-Đệ-Liên, hay Một Đại Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, hoặc một Giáo Phụ Tiến Sĩ Âu Quốc Tinh v.v. Trường hợp của người thu thuế và người Pharisiêu trong dụ ngôn cả hai cầu nguyện trong đền thờ cũng cho thấy rõ đường lối "kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết" ngược đời này vậy (xem Luca 18:9-14). Hay trường hợp của người con cả tính toán với cha như là một người làm công cho cha và của người con thứ chỉ muốn làm tôi tớ của cha vì cảm thấy bất xứng làm con của cha (xem Luca 15:11-32) cũng vậy: "kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết". 

Trường hợp điển hình nhất về đường lối khách quan của Chúa "kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết", đó là dân Chúa, một thành phần dân, được Ngài tuyển chọn và luôn được Ngài ở với, nhất là được Ngài tỏ mình ra dọc suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, nhất là những lúc họ được Ngài giải phóng qua một nhân vật Quan Án hay Thủ Lãnh nào đó, như Giêđêon ở Bài Đọc 1 hôm qua, nhưng, về phần mình, họ vẫn có xu hướng "kẻ trước hết (về ơn Chúa) sẽ nên sau hết (về bất trung)", như được Sách Thủ Lãnh ở Bài Đọc 1 hôm nay cho biết "Ðang khi Chúa ngự trị giữa chúng tôi, các ngươi đã nói: 'Xin cho một vua cai trị chúng tôi'", ở chỗ, họ "nói cùng cây ôliu... cây vả... cây nho... bụi gai rằng: 'Hãy đi cai trị chúng tôi'".

Thậm chí kể cả khi lòng họ muốn khao khát có một vị vua, tức muốn độc lập khỏi Thiên Chúa, như chúng ta thấy ở Sách Samuel ngay sau Sách Thủ Lãnh này, Thiên Chúa vẫn sẵn sàng đáp ứng họ, nhưng không phải là một vị vua như lòng họ mong ước, thành phần vua chúa, như Sách Chư Vương sau này cho thấy, toàn là băng hoại, mà là vị vua ám chỉ Đức Kitô Thiên Sai của Ngài, thuộc giòng dõi Đavít, để Ngài tiếp tục làm chủ họ. Và đó là lý do Thánh Vịnh 20 ở bài Đáp Ca hôm nay đã hướng về vị vua thiên sai ấy, vị vua đến để dứt khoát giải thoát họ khỏi tội lỗi và sự chết:

1) Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng; do ơn Chúa phù trợ, vua xiết bao hân hoan! Chúa đã ban cho sự lòng vua ao ước, và điều môi miệng vua xin, Chúa chẳng chối từ.

2) Chúa đã tiên liệu cho vua được phước lộc may mắn, đã đội triều thiên vàng ròng trên đầu vua. Nhờ Chúa giúp mà vua được vinh quang cao cả, Chúa khoác lên người vua, oai nghiêm với huy hoàng.

3) Vua xin Chúa cho sống lâu, thì Chúa đã ban cho một chuỗi ngày dài tới muôn muôn thuở. Chúa đã khiến vua nên mục tiêu chúc phúc tới muôn đời, Chúa đã cho vua được hân hoan mừng rỡ trước thiên nhan.

 

 

Thứ Năm

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Tl 11, 29-39a

"Hễ người nào ra khỏi cửa nhà trước hết, tôi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu".

Trích sách Thủ Lãnh.

Trong những ngày ấy, Thần Trí của Chúa ngự trên ông Giéphtê, ông liền đi quanh đất Galaad, Manassê, (rồi) Maspha (của) Galaad, và từ đó tiến sang đánh con cái Ammon. Ông thề hứa với Chúa rằng: "Nếu Chúa trao con cái Ammon vào tay con, thì khi con từ đất con cái Ammon trở về bình an, hễ người nào ra khỏi nhà con và đón tiếp con trước hết, con sẽ dâng nó cho Chúa làm của lễ toàn thiêu".

Ông Giéphtê liền trẩy sang đánh con cái Ammon, Chúa đã trao chúng trong tay ông. Ông đã đánh phá hai mươi thành trong một trận ác liệt, từ Arôê đến cửa thành Mennith, và đến Abel Kêramim. Con cái Ammon bị con cái Israel hạ nhục. Khi ông Giéphtê trở về nhà ở Maspha, người con gái duy nhất ra với hội hát trống phách đón rước ông, vì ông chẳng có người con nào khác. Khi thấy đứa con gái, ông liền xé áo mình ra mà kêu lên rằng: "Con ơi, con làm khổ cha, con cũng khổ nữa, vì cha đã khấn hứa cùng Chúa, và cha không thể làm gì khác được". Người con gái đáp: "Cha ơi, nếu cha đã khấn hứa cùng Chúa, thì cha cứ làm cho con mọi điều cha đã thề hứa, vì Chúa ban cho cha được trả thù và thắng kẻ thù của cha". Cô lại nói với cha rằng: "Con chỉ xin cha điều này: xin cha cho con hai tháng, để con cùng các bạn con đi quanh núi đồi mà than khóc tuổi thanh xuân của con". Người cha đáp: "Con cứ đi". Và ông đã cho cô đi hai tháng. Khi cô ra đi làm một với bạn nghĩa thiết của cô, thì cô than khóc tuổi thanh xuân của cô trên núi đồi. Sau hai tháng, cô trở về nhà cha cô, và ông đã thi hành như ông đã thề hứa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 39, 5. 7-8a. 8b-9. 10

Ðáp: Lạy Chúa, này con xin đến, để thực thi ý Chúa (c. 8a & 9a).

Xướng: 1) Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa, không theo kẻ thờ thần tượng, không hướng về chuyện gian tà. - Ðáp.

2) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi hy lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". - Ðáp.

3) Như trong Quyển Vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Ðáp.

4) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong Ðại Hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 147, 12a và 15a

Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai Lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 22, 1-14

"Các ngươi gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: "Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới". Nhưng những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: "Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới". Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.

Ðoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: "Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!" Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".

 

Ðó là lời Chúa.

 

 

Related image

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

 

Ân Sủng - Một thông ban nhưng không... cần đáp ứng tương xứng

 

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm Tuần XX Thường Niên, không còn liên tục với các bài Phúc Âm trong tuần như các ngày trước, mà là một bài Phúc Âm bắt đầu từ đầu Đoạn 22, hoàn toàn bỏ Đoạn 21 và 17 câu của Đoạn 20. Tất nhiên, việc Giáo Hội cố ý chọn đọc các bài Phúc Âm hằng ngày trong tuần hay Chúa Nhật này phải liên tục với nhau về nội dung, cho dù có những đoạn và những câu Phúc Âm bị cắt bỏ như vậy, vì có thể những chỗ ấy chỉ là những biến cố không hợp vào thời điểm phụng vụ này. 

 

Chẳng hạn như biến cố Chúa Giêsu vào Thánh Giêrusalem và thanh tẩy đền thờ rồi nguyền rủa cây vả và vấn đề thẩm quyền của Chúa Giêsu (xem Mathêu 21:1-27), những gì mà hầu hết đã được Giáo Hội cho đọc theo Phúc Âm của Thánh ký Marco ở các ngày Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần VIII Thường Niên rồi, không cần đọc lại hay lập lại nữa.

 

Nếu bài Phúc Âm hôm qua về dụ ngôn người chủ vườn nho thuê thợ làm vườn nho và trả công cho họ bằng nhau liên quan cả đến ân sủng của Thiên Chúa thì bài Phúc Âm hôm nay về dụ ngôn một "vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử" lại càng liên quan đến ân sủng của Thiên Chúa

 

Thật vậy, nếu 4 nhóm thợ được chủ vườn nho thuê làm vườn nho cho ông để được trả công tương xứng, một khoản tiền công chẳng những công bằng về lý đối với 3 nhóm thợ đầu mà còn về tình với nhóm thợ cuối cùng, thì thành phần được mời đến dự tiệc cưới trong bài Phúc Âm hôm nay đây hoàn toàn liên quan đến tình nghĩa của Thiên Chúa, tức là họ chỉ việc đến hoan hưởng mà chẳng phải vất vả làm gì hết, một đặc ân bao gồm chẳng những thành phần được ấn định ám chỉ dân Do Thái mà còn tất cả mọi người không trừ ai ám chỉ chung nhân loại hay dân ngoại nữa:

 

Thành phần đã được ấn định: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: 'Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới'. Nhưng những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi".

 

Thành phần không được mời trước cũng được tham dự: "Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: 'Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới'. Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc".

 

Căn cứ vào dụ ngôn về việc mở tiệc cưới và mời khách đến dự hôm nay, chúng ta thấy nếu tiệc cưới đây ám chỉ mầu nhiệm nhập thể của Chúa Kitô, Đấng là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), Đấng đã kết hiệp thiên tính và nhân tính lại với nhau nơi ngôi vị thần linh của mình, thì thành phần được mời đến tham dự tiệc cưới này, tức thành phần được tham phần vào chính mầu nhiệm nhập thể này tất nhiên phải bao gồm cả dân Do Thái là giòng dõi Chúa Giêsu được sinh ra về thể lý, lẫn dân ngoại vì Người mặc lấy nhân tính của cả loài người của họ và như họ.

Chính vì dân Do Thái đã được mời trước, ở chỗ đã được Thiên Chúa tuyển chọn và lập giao ước với qua các tổ phụ của họ, mà họ không chấp nhận Chúa Kitô đã đến trong xác thịt, lại còn giết Người nữa, nên họ đúng là thành phần đã từ chối không đến dự tiệc cưới vậy.

Tuy nhiên, để xứng đáng với đặc ân tự nhiên được tham dự tiệc cưới cứu độ này, một ân sủng được ban cho chẳng những dân Do Thái mà còn cả dân ngoại, chẳng những ban cho những người tốt lành mà còn cả những người không tốt lành: "bất cứ ai", "bất luận tốt xấu", thành phần tham dự một khi đã được mời và đã đến tham dự thì cần phải tỏ ra xứng đáng nữa, bằng không sẽ bị loại trừ:

 

"Đoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: 'Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?' Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: 'Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!' Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".

 

Như bài Phúc Âm về việc trả lương cho thợ làm vườn nho, mới nghe qua thì có vẻ bất công thế nào thì việc ông vua đối xử với thành phần được ông lùa vào dự tiệc cưới của con ông đã bị ông trừng phạt vì không mặc áo cưới cũng thế. Ở chỗ, nếu những người này biết trước là cần phải mặc áo cưới thì có lẽ họ đã không vào, bởi bấy giờ họ không kịp sửa soạn áo cưới hay không có tiền mua áo cưới v.v.

 

Thế nhưng, áo cưới đây là gì, nếu không phải, trước hết là chính việc chấp nhận Lời Nhập Thể, Đấng Thiên Sai, Đấng "đã đến trong xác thịt" (xem 2Gioan 7), "đã mặc lấy thân phận tôi đòi, được sinh ra như loài người" (Philiphê 2:7), "bởi một người nữ" (Galata 4:4): "Người đã ở trong thế gian, và nhờ Người mà thế gian đã được tạo thành, nhưng thế gian đã không nhận biết Người là ai. Người đã đến với những ai thuộc về Người nhưng họ đã không chấp nhận Người. Bất cứ ai chấp nhận Người thì Người đã ban cho họ được quyền trở nên con cái của Thiên Chúa" (Gioan 1:10-12).

 

Chưa hết, áo cưới đây, nếu áp dụng vào thành phần dân ngoại Kitô hữu thì có thể còn được hiểu là lòng biết ơn, do đó không thể tỏ ra thờ ơ lãnh đạm với ơn cứu độ được ban cho mình và chính mình đã lãnh nhận khi chịu Phép Rửa, thờ ơ lãnh đạm đến độ khi được chất vấn tại sao không mặc áo cưới cũng không lên tiếng trả lời. Và một khi thờ ơ lãnh đạm với ơn cứu chuộc thì Kitô hữu sẽ khinh thường và không sống xứng đáng với ơn cứu độ, như thể không mặc áo cưới vậy.

 

Sau hết, và bởi thế, áo cưới đây còn được hiểu là chính phẩm vị làm con Thiên Chúa của Kitô hữu - không mặc áo cưới nghĩa là không sống với phẩm vị con Thiên Chúa của mình. Nhất là bằng những tội trọng, như thể họ đã cố tình lột bỏ chiếc áo rửa tội của mình đi. Đó là lý do khi người con hoang đàng phung phá trở về, nó đã được cha của nó phục hồi lại cho nó tất cả những gì của một người con, chẳng những thân phận làm con (qua hình ảnh mang giầy, chứ không phải đi chân không như thân phận của một tên nô lệ) và quyền làm con (qua hình ảnh đeo nhẫn), mà còn chính phẩm vị làm con (qua hình ảnh mặc lại cho nó áo đẹp nhất).

 

Số phận của con người được mời vào dự tiệc cưới mà không chịu mặc áo cưới nên đã bị trừng phạt tương xứng ở trong bài Phúc Âm hôm nay đã chứng thực cho thấy tác động đáp ứng ân dủng thần linh nhưng không của Thiên Chúa là những gì bất khả thiếu. Việc đáp ứng ân sủng thần linh đã được Sách Thủ Lãnh thuật lại ở Bài Đọc về nhân vật Giéphtê hôm nay, một nhân vật, sau khi thắng trận do Chúa ban, đã giữ đúng lời thế hứa của mình với Ngài, bất chấp điều ấy như thế nào, nghĩa là hoàn toàn bất lợi cho người con gái của mình, liên quan đến thân phận son sẻ suốt đời của nó, nhưng chính nó cũng cùng với cha của nó đáp ứng ân sủng thần linh một cách can đảm như sau:

 

"Trong những ngày ấy, Thần Trí của Chúa ngự trên ông Giéphtê, ông liền đi quanh đất Galaad, Manassê, (rồi) Maspha (của) Galaad, và từ đó tiến sang đánh con cái Ammon. Ông thề hứa với Chúa rằng: 'Nếu Chúa trao con cái Ammon vào tay con, thì khi con từ đất con cái Ammon trở về bình an, hễ người nào ra khỏi nhà con và đón tiếp con trước hết, con sẽ dâng nó cho Chúa làm của lễ toàn thiêu'. Ông Giéphtê liền trẩy sang đánh con cái Ammon, Chúa đã trao chúng trong tay ông. Ông đã đánh phá hai mươi thành trong một trận ác liệt, từ Arôê đến cửa thành Mennith, và đến Abel Kêramim. Con cái Ammon bị con cái Israel hạ nhục. Khi ông Giéphtê trở về nhà ở Maspha, người con gái duy nhất ra với hội hát trống phách đón rước ông, vì ông chẳng có người con nào khác. Khi thấy đứa con gái, ông liền xé áo mình ra mà kêu lên rằng: 'Con ơi, con làm khổ cha, con cũng khổ nữa, vì cha đã khấn hứa cùng Chúa, và cha không thể làm gì khác được'. Người con gái đáp: 'Cha ơi, nếu cha đã khấn hứa cùng Chúa, thì cha cứ làm cho con mọi điều cha đã thề hứa, vì Chúa ban cho cha được trả thù và thắng kẻ thù của cha'".

 

Đúng thế, không việc gì đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng nhận biết Ngài bằng việc đáp ứng tác động thần linh của Ngài, nghĩa là luôn tuân theo Thánh Ý tối hậu của Ngài, để Ngài hoàn toàn có thể tỏ mình ra cho họ và qua họ cho ngưòi khác nữa. Thánh Vịnh 39 ở bài Đáp Ca hôm nay đã chất chứa niềm xác tín chân thật này như sau:

1) Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa, không theo kẻ thờ thần tượng, không hướng về chuyện gian tà.

2) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi hy lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến".

3) Như trong Quyển Vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con.

4) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong Ðại Hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi.

 

 

 

Thứ Sáu

Phụng Vụ Lời Chúa


 

Bài Ðọc I: (Năm I) R 1, 1. 3-6. 14b-16. 22

"Bà Nôêmi cùng nàng dâu người Moab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem".

Khởi đầu sách truyện Bà Ruth.

Khi các quan án cầm quyền, thì dưới thời một quan án kia, trong xứ xảy ra nạn đói kém. Có một người thành Bêlem, thuộc chi tộc Giuđa, đem vợ và hai con sang cư ngụ trong miền Môab.

Và Elimêlech, chồng bà Nôêmi, qua đời, để bà lại với hai con. Hai con bà cưới hai thiếu nữ Môab làm vợ: một tên là Orpha, còn người kia tên là Ruth. Họ chung sống ở đó được mười năm, thì cả hai người chồng là Mahalon và Kêlion cũng qua đời, còn lại mình bà Nôêmi không chồng con. Bấy giờ bà Nôêmi cùng với hai nàng dâu định bỏ đất Môab trở về quê hương, vì nghe nói Chúa thương dân Người, và ban cho họ lương thực.

Bà Orpha hôn mẹ chồng và ở lại đó. Còn bà Ruth thì đi theo mẹ chồng. Bà Nôêmi bảo bà Ruth rằng: "Kìa, chị dâu con đã ở lại với dân mình và các thần minh của họ, con hãy ở lại với chị con". Bà Ruth thưa lại rằng: "Xin mẹ đừng bắt con bỏ mẹ mà ở lại, vì mẹ đi đâu thì con cũng đi theo đó. Dân tộc của mẹ là dân tộc của con, và Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con".

Vậy bà Nôêmi cùng nàng dâu người Môab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem, vào đầu mùa gặt lúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 145, 5-6. 7. 8-9a. 9bc-10

Ðáp: Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa (c. 2a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Phúc thay người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ, người đặt hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa của mình: Người là Ðấng đã tạo thành trời đất, biển khơi và muôn vật chúng đang chứa đựng. - Ðáp.

2) Người là Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. - Ðáp.

3) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân, Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. - Ðáp.

4) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường lối đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 11, 25

Alleluia, alleluia! - Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 22, 34-40

"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại. Ðoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?" Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó".

Ðó là lời Chúa.

 

Related image

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Tình Yêu Bất Diệt - Vinh Hiển Phục Sinh

 

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XX Thường Niên, cũng không liên tục với bài Phúc Âm hôm qua, cách bài Phúc Âm hôm qua 16 câu, trong đó có hai vấn đề được đặt ra cho Chúa Giêsu, trước hết là vấn đề được nhóm biệt phái cố tình gài bẫy Chúa Giêsu về việc nộp thuế cho Cesar (xem Mathêu 22:22:15-22), và sau đó là vấn đề được nhóm Saducê đặt ra về niềm tin phục sinh (xem Mathêu 22:23-33), cả hai vấn đề đã được Phúc Âm Thánh ký Marcô thuật lại ở Thứ Ba và Thứ Tư Tuần IX Thường Niên trước đây.

 

Tuy nhiên, bài Phúc Âm hôm nay, bài Phúc Âm trước hết về điều răn trọng nhất, dù đã được Giáo Hội chọn đọc theo Thánh ký Marcô cho Thứ Năm Tuần IX Thường Niên, Giáo Hội vẫn chọn đọc lại một lần nữa, vì giới răn trọng nhất trong bài Phúc Âm hôm nay cũng liên hệ với 2 bài Phúc Âm hôm qua và hôm kia trong tuần này. 

 

Ở chỗ, nếu con người sống trọn giới răn trọng nhất là mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi", thì các nhóm thợ làm vườn nho lâu giờ đã không tỏ thái độ bất mãn với chủ và ghen tị với nhóm thợ cuối giờ, và thành phần bất ngờ được mời đến dự tiệc cưới trong hoàng cung sẽ mặc áo cưới xứng đáng với đặc ân diễm phúc khôn lường của mình.

 

Và vấn đề giới răn trọng nhất này còn liên quan cả đến mầu nhiệm phục sinh nữa. Ở chỗ, tất cả mọi sự trên trần gian này sẽ qua đi, kể cả đức tin, ngoại trừ duy có đức mến. Vì "Thiên Chúa là tình yêu" (1Gioan 4:8,16). Bởi vậy, nếu hai yếu tố làm nên bản tính của con người là linh hồn và thân xác, nhưng linh hồn chi phối thân xác và thân xác lệ thuộc linh hồn thế nào, thì một khi thân xác của con người trở thành khí cụ của lòng mến, tác hành theo lòng mến, theo tình yêu Thiên Chúa, theo đức ái trọn hảo, thì thân xác đó đã chứng tỏ nó mang sẵn mầm sống vĩnh cửu, bất diệt, và trọn hảo nhờ linh hồn thiêng liêng bất tử và trọn lành của nó, và nhờ quyền năng của Thánh Thần, nó sẽ trở nên như thân xác phục sinh vinh hiển của Chúa Kitô (xem Philiphê 3:21).

 

Một thanh sắt cho dù có bị rỉ xét đến đâu chăng nữa, một khi được nung bằng lửa thì nó cũng trở nên sáng rực như lửa thế nào thì thân xác của con người cũng thế. Cho dù thân xác đó khi còn sống có dâm ô nhục dục đàng điếm chăng nữa, nhưng một khi tâm hồn của thân xác đó biết ăn năn thống hối với tất cả lòng mến, thì thân xác đó sẽ trở nên tinh tuyền. Bởi xác của con người ngày sau sống lại thì trở nên thiêng liêng như thiên thần, như Chúa Giêsu khẳng định (xem Mathêu 22:30).

 

Trong các thánh nữ đồng trinh, ngoài Mẹ Maria là đệ nhất trinh nữ và là trinh nữ trên hết, một trinh nữ sinh con duy nhất trên trần gian này, thì vị thánh nữ đồng trinh thứ nhất trong hàng ngũ các thánh trinh nữ là Thánh Catarina Tử Đạo, sau đó đến Thánh Nữ Mai Đệ Liên đàng điếm và Thánh Nữ Magarita Cortone cũng thuộc về loại ưu hạng trong số các thánh trinh nữ, như chính Chúa Giêsu đã tỏ cho chị thánh biết, và dấu chứng thực đó là thân xác sống dâm dục 9 năm trời với một người tình và có một đứa con hoang (ngoại hôn) với chàng của chị chẳng những không bị hư hoại mà vẫn còn nguyên.

 

Thật vậy, vào ngày lễ của Thánh Catherine thành Alexandria Tử Đạo (25/11 theo lịch phụng vụ cũ), khi Thánh Nữ Margarita đang ở bàn thờ để rước lễ thì nghe thấy Chúa Giêsu nói cùng mình rằng:

 

Con Cha ơi, chỗ của con sẽ ở giữa thần Seraphim cùng với các trinh nữ bừng cháy tình yêu thần linh”.

 

Nghe thấy thế Thánh nữ sửng sốt đáp lại rằng:

 

Lạy Chúa, làm sao điều ấy có thể xẩy ra được với một con người nhớp nhúa tội lỗi chứ?

 

Chị đã nghe thấy câu giải đáp của Chúa như sau:

 

Những đau khổ vô vàn của con sẽ thanh tẩy tâm hồn con khỏi tất cả mọi thứ thu hút phạm tội, và trong nỗi đớn đau và ăn năn thống hối của mình, con sẽ phục hồi sự tinh tuyền đồng trinh của con”.

 

Thánh nữ lại càng cảm thấy sợ hãi trước câu trả lời của Chúa và đã than lên rằng:

 

Ôi Chúa Kitô là Sư Phụ của con, phải chăng Thánh Mai Đệ Liên thuộc về thành phần các trinh nữ trong vinh quang thiên đình?” Chúa liền tiết lộ cho chị biết rằng: “Ngoại trừ Mẹ Maria và Catherine Tử Đạo, không ai hơn Mai Đệ Liên trong hàng ngũ trinh nữ”.

 

(A Tuscan Petinent: The Life and Legend of Saint Margaret of Cortona, by Father Cuthbert, Burns Oates and Washbourne, Ltd, 1900, pages 160-161).

 

Giới răn trọng đại nhất là giới răn mến Chúa yêu người được Chúa Giêsu tóm gọn và khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay được tỏ hiện nơi một con người dân ngoại, được Sách Bà Ruth thuật lại ở Bài Đọc 1 hôm nay, một nữ nhân vật vì trung thành với người mẹ chồng của mình nên cũng tôn thờ Thiên Chúa của bên chồng mình nữa, dù chồng mình không còn sống, và dù có được mẹ chồng khuyên giục trở về quê quán của mình, nhờ đó có thể lập gia đình với người khác:

"Elimêlech, chồng bà Nôêmi, qua đời, để bà lại với hai con. Hai con bà cưới hai thiếu nữ Môab làm vợ: một tên là Orpha, còn người kia tên là Ruth. Họ chung sống ở đó được mười năm, thì cả hai người chồng là Mahalon và Kêlion cũng qua đời, còn lại mình bà Nôêmi không chồng con. Bấy giờ bà Nôêmi cùng với hai nàng dâu định bỏ đất Môab trở về quê hương, vì nghe nói Chúa thương dân Người, và ban cho họ lương thực. Bà Orpha hôn mẹ chồng và ở lại đó. Còn bà Ruth thì đi theo mẹ chồng. Bà Nôêmi bảo bà Ruth rằng: 'Kìa, chị dâu con đã ở lại với dân mình và các thần minh của họ, con hãy ở lại với chị con'. Bà Ruth thưa lại rằng: 'Xin mẹ đừng bắt con bỏ mẹ mà ở lại, vì mẹ đi đâu thì con cũng đi theo đó. Dân tộc của mẹ là dân tộc của con, và Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con'. Vậy bà Nôêmi cùng nàng dâu người Môab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem, vào đầu mùa gặt lúa".

 

Những con người nhận biết Thiên Chúa là những con người có phúc, dù cuộc đời họ có khốn khổ bần cùng chăng nữa, vì Thiên Chúa muốn để cho họ như vậy để họ càng trở nên đáng thương hơn, càng tin tưởng cậy trông vào Ngài hơn, và nhờ đó Ngài càng tỏ mình ra cho họ hơn, như chủ tể của cõi lòng họ và cuộc đời của họ như Thánh Vịnh 145 ở bài Đáp Ca hôm nay cảm nhận:

1) Phúc thay người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ, người đặt hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa của mình: Người là Ðấng đã tạo thành trời đất, biển khơi và muôn vật chúng đang chứa đựng.

2) Người là Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội.

3) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân, Thiên Chúa che chở những khách kiều cư.

4) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường lối đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác.

 

 


Thứ Bảy

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) R 2, 1-3. 8-11; 4, 13-17

"Chúa không nỡ để cho bà thiếu kẻ nối dòng. Ðó là thân phụ của Isai, cha của Ðavít".

Trích sách truyện Bà Ruth.

Bấy giờ ông Êlimêlech, chồng bà Nôêmi có một người họ hàng, là người quyền thế và giàu có, tên là Booz. Bà Ruth, người Môab, thưa với mẹ chồng rằng: "Nếu mẹ cho phép, con xin ra đồng mót lúa mà các thợ gặt bỏ sót, nơi nào mà chủ ruộng nhân từ vui lòng cho con mót". Bà mẹ trả lời rằng: "Hỡi con, con cứ đi". Nàng liền đi mót lúa đàng sau các thợ gặt. Bất ngờ chủ ruộng ấy tên là Booz, người có họ với Êlimêlech.

Ông Booz bảo bà Ruth rằng: "Hỡi con, hãy nghe đây, con đừng đi mót lúa ở ruộng khác, đừng rời khỏi nơi này: nhưng hãy đi theo các tớ gái của ta, chúng nó gặt ở đâu, con cứ đi theo đó; vì ta bảo các đầy tớ ta đừng ai làm phiền con. Cả khi con khát nước, cũng cứ đến các vò nước và uống nước mà các đầy tớ ta uống". Bà sấp mình xuống đất, lạy ông ấy mà nói rằng: "Bởi đâu tôi được ơn trước mặt ông, và ông đoái thương tôi là người nữ ngoại bang?" Ông trả lời rằng: "Ta đã nghe đồn mọi sự con đã làm đối với mẹ chồng, sau khi chồng con qua đời, con đã lìa bỏ cha mẹ quê hương và đến cùng dân tộc mà trước đây con không hề biết".

Vậy ông Booz cưới bà Ruth làm vợ. Ông ăn ở với bà, và Chúa ban cho bà có thai, bà sinh được một con trai. Các phụ nữ nói cùng bà Nôêmi rằng: "Chúc tụng Chúa là Ðấng không nỡ để cho gia đình bà thiếu kẻ nối dòng! Và nguyện danh Chúa được ca tụng khắp Israel! Cầu chúc bà có người an ủi tâm hồn và phụng dưỡng tuổi già; vì người đó sẽ sinh ra do người con dâu yêu mến bà, và người con dâu đó đáng quý hơn bảy người con trai". Bà Nôêmi ẵm con trẻ vào lòng, và nuôi nấng nó như người vú. Các phụ nữ láng giềng đến mừng bà mà rằng: "Bà Nôêmi đã được một cháu trai". Họ đặt tên cho con trẻ là Obed: đó là thân phụ của Isai cha của Ðavít.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 127, 1-2. 3. 4-5

Ðáp: Ðó là ơn phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Chúa (c. 4).

Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Ðáp.

2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. - Ðáp.

3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa. Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn. - Ðáp.

 

Alleluia: x. Cv 16, 14b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 23, 1-12

"Họ nói mà không làm".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta: còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là "Thầy". Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là "Thầy", vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là "cha", vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là "người chỉ đạo": vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi. Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Related image

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

"thày", "cha" và "xếp- không hưởng thụ nhưng phục vụ

 

 

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XX Thường Niên hôm nay cách bài Phúc Âm hôm qua 5 câu, 41-46, những câu cuối của Đoạn 22, những câu Phúc Âm về vấn đề Chúa Giêsu đặt ra cho thành phần biệt phái khiến "không ai dám hỏi Người một điều gì nữa từ đó trở đi" (Mathêu 22:46), đó là vấn đề nếu Đấng Kitô Thiên Sai là con của Vua Đavít thì tại sao chính vua lại gọi Người là Chúa


Phải, Giáo Hội đã không chọn đọc bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu về vấn đề ấy, vì vấn đề này đã được Giáo Hội chọn đọc cho ngày Thứ Sáu Tuần IX Thường Niên theo Phúc Âm của Thánh ký Marcô rồi. Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc hôm nay liên quan đến thành phần luật sĩ và biệt phái, thành phần bị Người thậm tệ quở trách và vạch trần bộ mặt giả hình của họ, như chúng ta đã thấy 1 chút trong bài Phúc Âm của Thánh ký Marcô ở Thứ Bảy Tuần IX Thường Niên, và sẽ thấy tt cả ở trong các bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho 3 ngày đầu của tuần tới, tuần cuối cùng theo Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Phụng Vụ Lời Chúa ngày thường trong tuần từ Tuần X Thường Niên.


Đúng thế, ngay từ bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã nghiêm thẳng vạch trần chân tướng của hai thành phần luật sĩ và biệt phái đầy kiêu hãnh và ham danh trong dân này:


"Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là 'rabbi'".

 

Tuy hai thành phần luật sĩ và biệt phái vốn được coi là thày dạy trong dân này có những cử chỉ và hành động đầy gương mù gương xấu phản tác dụng bất khả chấp như vậy, nhưng "Đức Giêsu (vẫn) nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: 'Các kinh sư và các người Pharisiêu ngồi trên toà ông Moisen mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm'".  

 

Thế nhưng, trên thực tế rất khó thực hành theo bản tính tự nhiên của loài người. Chúng ta hay có khuynh hướng đồng hóa tội nhân với tội lỗi hay với gương mù gương xấu của họ. Ở chỗ, chúng ta chẳng những tỏ ra ghê tởm việc làm xấu xa hay tội lỗi của họ mà còn ghê tởm và khinh bỉ chính con người của họ nữa. Có những lúc hay nhiều lúc chúng ta thường tấn công họ bằng những lời nói nhục mạ họ, (thậm chí công khai qua phương tiện truyền thông: báo chí, email, internet, truyền thanh, truyền hình, thơ nặc danh, hay ngay cả trên tòa giảng v.v.), hơn là tế nhị và nhẹ nhàng khôn khéo sửa lỗi cho họ để họ dễ cảm nhận bản thân hèn yếu lỗi lầm của mình mà hoán cải trở về cùng Chúa theo tinh thần và đường lối được Chúa Giêsu huấn dạy trong bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước. 

 

Chúng ta thường đối xử với anh chị em lầm lỗi của chúng ta như thể chúng ta là con người toàn hảo, không bao giờ sai lỗi, động một tí là ném đá nhau, thậm chí như thể là quan án của họ, có quyền tối thượng trong việc thưởng pht nhau, trong khi chúng ta chưa thấu suốt được thâm tâm của nhau như Thiên Chúa là Đấng duy nhất có quyền phán quyết mọi người. Quả thực Chúa Giêsu nói về chúng ta quá đúng khi Người vừa khiển trách vừa nghiêm trọng cảnh giác chúng ta rằng: "Đồ giả hình! trước hết ngươi hãy lấy khỏi mắt của mình cái xà đi đã rồi ngươi mới thấy được một cách rõ ràng mà lấy đi cái rằm trong con mắt của anh chị em của ngươi" (Mathêu 7:5). 

 

Tuy nhiên, không phải đối xử một cách cảm thông với những người anh chị em lỗi lầm của mình đến độ không còn biết phân biệt đâu là phải là trái nữa. Ở chỗ, thương tội nhân nhưng không chấp nhận tội lỗi của họ. Bởi thế, cho dù ở ngay đầu bài Phúc Âm Chúa Giêsu khuyên hãy tôn trọng quyền giáo huấn của thành phần luật sĩ và biệt phái, cuối bài Phúc Âm Người vẫn khuyên dạy dân chúng và các môn đệ của Người "đừng có làm theo những việc của họ", mà hãy sống ngược lại như sau:

 

"Phần anh em, đừng để ai gọi mình là 'rabbi', vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên".
Trong huấn dụ của Chúa Kitô trên đây, về hình thức thì nên tránh ba danh xưng "thày", "cha" và "xếpđối với bản thân mình, ở chỗ, về tinh thần, cho dù mình có thực sự đóng vai là "sư phụ", là "thân phụ", là "lãnh tụ" chăng nữa, mình cũng phải dấn thân phục vụ hơn là hưởng thụ, hãy lợi dụng chức vụ là "thày", là "cha", là "xếp" của mình để mang lại lợi ích cho thành phần được trao phó cho mình, theo đúng dự định thần linh của Đấng đã tuyển chọn mình, theo gương của chính Đấng Kitô Thiên Sai, Đấng đã "đến không phải để được hầu hạ mà là hầu hạ và hiến mạng sống mình cho nhiều người" (Mathêu 20:28). 

Nếu để ý kỹ thứ tự và ba chức vụ được Chúa Giêsu nêu lên trong bài Phúc Âm hôm nay: 1. sự phụ - thày, 2. thân phụ - cha và 3. lãnh tụ - xếp, chúng ta mới thấy được rằng Chúa Giêsu ám chỉ huấn dụ của Người cho thành phần môn đệ tông đồ của Người hơn là dân chúng. Bởi vì chỉ có các tông đồ mới bao gồm cả 3 nhiệm vụ hay vai trò này, những nhiệm vụ và vai trò được thừa kế bởi hàng giáo phẩm sau các vị, bao gồm cả giáo hoàng lẫn các vị giám mục. Ba nhiệm vụ và vai trò của các tông đồ cũng như của hàng giáo phẩm thừa kế các ngài là gì, nếu không phái là 1- giảng dạy (với tư cách là thày), 2- thánh hóa (với tư cách là cha - điển hình nhất là ban Bí Tích rửa tội tái sinh và Bí Tích Thánh Thể dưỡng nuôi và Bí Tích Hòa Giải tha thứ hồi sinh v.v.), và quản trị (với tư cách là xếp, là mục tử v.v.)

Tóm lại, nội dung của bài Phúc Âm hôm nay chính yếu và thành phần luật sĩ và biệt phái nhưng đối tượng mà Chúa Giêsu nhắm tới để giáo huấn lại là thành phần dân chúng và môn đệ. Sở dĩ bao gồm cả hai thành phần này cần phải nghe những gì Người nói về thành phần có thẩm quyền giảng dạy trong dân là vì hai loại người này dễ bị ảnh hưởng bởi gương mù gương xấu của họ, nhất là khi họ lại đóng vai trò làm thày dạy nữa. Gương mù gương xấu dễ gây ảnh hưởng nên cả dân chúng lẫn các môn đệ của Người cần phải tránh vì những gương mù gương xấu của họ rất hợp với bản tính tự nhiên và khuynh hướng phô trương tuụ cao tự đại của con người.

Tuy nhiên, không phải vì thế mà Chúa Kitô phủ nhận danh xưng hay vai trò thực sự của những người làm thày (sư phụ - người có quyền về tinh thần của con người), của những người làm cha (thân phụ - người có quyền theo huyết nhục tự nhiên), và của những người làm đầu (lãnh tụ - người có quyền lãnh đạo về hành chính). Chúa chỉ có ý dạy dân chúng và các môn đệ của Người rằng dù họ có thực sự làm cha mẹ trong gia đình theo huyết nhục, có là giám mục hay linh mục trong Giáo Hội, có tài năng thế giá và chức quyền về bất cứ phương diện nào (nhất là về chính trị) trong xã hội đi nữa v.v. họ hãy phục vụ hơn là hưởng thụ, đó mới đúng ý nghĩa kẻ làm đầu là làm đầy tớ như Người làm gương (xem Mathêu 20:26-28).

Vai trò làm đầu theo tinh thần phục vụ hơn hưởng thụ, đúng như ý nghĩa và mục đích về quyền hạn được ban cho mình, được Chúa Kitô khuyên dạy các môn đệ và dân chúng trong bài Phúc Âm hôm nay, hoàn toàn ngược lại với khuynh hướng hưởng thụ hơn phục vụ của thành phần biệt phái và luật sĩ bấy giờ, một vai trọ làm đầu đích thực theo đúng tinh thần Phúc Âm này đã được phản ảnh qua nhân vật Booz trong Sách Bà Ruth ở Bài Đọc 1 hôm nay:

"Ông Booz bảo bà Ruth rằng: 'Hỡi con, hãy nghe đây, con đừng đi mót lúa ở ruộng khác, đừng rời khỏi nơi này: nhưng hãy đi theo các tớ gái của ta, chúng nó gặt ở đâu, con cứ đi theo đó; vì ta bảo các đầy tớ ta đừng ai làm phiền con. Cả khi con khát nước, cũng cứ đến các vò nước và uống nước mà các đầy tớ ta uống'. Bà sấp mình xuống đất, lạy ông ấy mà nói rằng: 'Bởi đâu tôi được ơn trước mặt ông, và ông đoái thương tôi là người nữ ngoại bang?' Ông trả lời rằng: 'Ta đã nghe đồn mọi sự con đã làm đối với mẹ chồng, sau khi chồng con qua đời, con đã lìa bỏ cha mẹ quê hương và đến cùng dân tộc mà trước đây con không hề biết'".

 

Đúng thế, việc làm đầu là phục vụ của nhân vật Booz, vì đúng ý Chúa và đẹp lòng Chúa, nên đã trổ sinh hoa trái tốt đẹp, ở chỗ "Ông Booz cưới bà Ruth làm vợ. Ông ăn ở với bà, và Chúa ban cho bà có thai, bà sinh được một con trai... Bà Nôêmi ẵm con trẻ vào lòng, và nuôi nấng nó như người vú. Các phụ nữ láng giềng đến mừng bà mà rằng: 'Bà Nôêmi đã được một cháu trai'. Họ đặt tên cho con trẻ là Obed: đó là thân phụ của Isai cha của Ðavít". Đó là lý do Thánh Vịnh 127 ở bài Đáp Ca hôm nay mới xướng lên một tâm tình ca ngợi người biết kính sợ Chúa như sau:

1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.

2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn.

3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa. Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn.