SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 


Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 
Tuần XXX Thường Niên Năm C và Năm Lẻ 
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chúa Nhật

 


Chúa Nhật 30 Quanh Năm

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Hc 35, 15b-17. 20-22a

"Lời cầu nguyện của người khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây".

Trích sách Huấn Ca.

Chúa là quan án, Người không xem sao vinh quang loài người. Chúa không vì nể kẻ nghịch với người nghèo khó, và Người nhậm lời kẻ bị áp bức kêu cầu. Người không khinh rẻ kẻ mồ côi khẩn nguyện, cũng không khinh rẻ người goá bụa, khi nó bày tỏ lời than van.

Nỗi hồn đắng cay, của lễ được nhận, và tiếng kêu oan kíp thấu tầng mây. Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây: nó sẽ không yên lòng cho đến khi lời nguyện nó đến nơi, và nó chẳng rút lui cho đến khi Ðấng Tối Cao đoái nhìn. Chúa sẽ không trì hoãn, Người sẽ xét đoán những người công chính và sẽ ra lời phán quyết.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 17-18. 19 và 28

Ðáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).

Xướng: 1) Tôi chúc tụng Thiên Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Thiên Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.

2) Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Người cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. - Ðáp.

3) Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương giập nát. Thiên Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Người, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Người, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 2 Tm 4, 6-8. 16-18

"Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.

Con thân mến, phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Ðấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy; nhưng không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến trông đợi Người xuất hiện.

Lần đầu tiên cha đứng ra biện hộ cho cha, thì chẳng ai bênh đỡ cha, trái lại mọi người đều bỏ mặc cha: xin chớ chấp tội họ. Nhưng Chúa đã phù hộ cha và ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời rao giảng được hoàn tất, và tất cả các Dân ngoại được nghe: vậy cha đã thoát khỏi miệng sư tử. Chúa đã giải thoát cha khỏi mọi sự dữ và cứu lấy cha để đưa vào nước Người trên trời. Nguyện chúc Người được vinh quang muôn đời! Amen.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 18, 9-14

"Người thu thuế ra về được khỏi tội".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những ai hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác: "Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: 'Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi'. Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: 'Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội'. Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".

Ðó là lời Chúa.

Image result for Lc 18, 9-14

Suy Nghiệm Lời Chúa:

Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm C hôm nay vẫn tiếp tục chiều hướng của Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XXIX Thường Niên Năm C tuần trước. Nếu Phụng Vụ Lời Chúa Năm C tuần trước nhấn mạnh đến sự kiện Thiên Chúa sẽ giải oan cho những ai trông đợi Ngài, một sự kiện liên quan đến ngày cùng thánh tận của Mầu Nhiệm Cánh Chung, thì Phụng Vụ Lời Chúa Năm C tuần này nhấn mạnh đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những ai khốn khổ và trung kiên với Ngài.

Thật vậy, Sách Huấn Ca ở Bài Đọc 1 hôm nay đã cho thấy rõ chân dung đầy lòng thương xót của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất đối với những tâm hồn khốn khổ khiêm cung tin tưởng cầu khẩn cùng Ngài như sau: "Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây: nó sẽ không yên lòng cho đến khi lời nguyện nó đến nơi, và nó chẳng rút lui cho đến khi Ðấng Tối Cao đoái nhìn. Chúa sẽ không trì hoãn, Người sẽ xét đoán những người công chính và sẽ ra lời phán quyết".

Hai bức Thư của Thánh Phaolô gửi người môn đệ Timôthêu của ngài, một cặp thư đã được Giáo Hội chọn đọc liên tục suốt 7 Chúa Nhật Năm C liền, từ Chúa Nhật XXIV đến XXX hôm nay, với Thư Thứ 2, ở đoạn cuối cùng, trong Bài Đọc 2 hôm nay, về những nỗ lực của một vị tông đồ dân ngoại suốt cuộc đời thừa sai cam go chiến đấu cho tới tận cùng sứ mệnh của mình, bằng một niềm tin tưởng vào "Chúa là Đấng phán xét chí công", "đã giải thoát cha khỏi mọi sự dữ và cứu lấy cha để đưa vào nước Người trên trời":

"Con thân mến, phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Ðấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy; nhưng không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến trông đợi Người xuất hiện. Lần đầu tiên cha đứng ra biện hộ cho cha, thì chẳng ai bênh đỡ cha, trái lại mọi người đều bỏ mặc cha: xin chớ chấp tội họ. Nhưng Chúa đã phù hộ cha và ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời rao giảng được hoàn tất, và tất cả các Dân ngoại được nghe: vậy cha đã thoát khỏi miệng sư tử. Chúa đã giải thoát cha khỏi mọi sự dữ và cứu lấy cha để đưa vào nước Người trên trời. Nguyện chúc Người được vinh quang muôn đời! Amen".

Theo chiều hướng của chung Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, thì cho dù bài Phúc Âm về dụ ngôn 2 người lên đền thờ cầu nguyện, nhưng chính yếu vẫn là lòng thương xót Chúa đối với con người cầu nguyện một cách khiêm tốn: "Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên". Ai là vị có thẩm quyền để "hạ xuống" "tất cả những ai tự nâng mình lên", và "nâng lên" những "ai hạ mình xuống", nếu không phải là Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tất cả mọi sự, Đấng chỉ tỏ mình ra cho những tâm hồn nhận biết mình và tỏ ra tin tưởng vào Ngài, như người thu thuế trong bài Phúc Âm hôm nay, chứ không phải là con người kiêu căng ngạo mạn và khinh người như người biệt phái trong cùng bài Phúc Âm.

Đúng thế, cho dù là theo quan điểm trần gian chăng nữa, thái độ kiêu căng ngạo mạn và khinh người của nhân vật biệt phái trong bài Phúc Âm cũng đủ đáng ghét rồi, huống chi trước Đấng Tối Cao toàn tri và toàn thiện, mà nếu không vì lòng thương xót thì nhân vật kiêu căng ngạo mạn và khinh người này đã bị Ngài hủy diệt rồi. Thái độ của nhân vật biệt phái này còn bao gồm ý nghĩa cho rằng Thiên Chúa chẳng biết lòng dạ con người gì hết, hay có biết thì Ngài cũng thích những gì nhân vật này làm: "ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi", bởi những việc đó là những gì được lề luật qui định theo đúng như ý muốn của Ngài.

Thế nhưng, rất tiếc, cho dù nhân vật kiêu căng ngạo mạn và khinh người này: "không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia", nhưng kết quả của những việc lành theo lề luật qui định do nhân vật biệt phái này thực hiện là gì, nếu không phải, trong khi người thu thuế bị nhân vật này khinh bỉ "ra về được khỏi tội", còn chính bản thân hắn "thì không". Có nghĩa là chính việc cầu nguyện một cách kiêu căng ngạo mạn và khinh người của nhân vật biệt phái này đã làm cho hắn càng mắc thêm tội, và vì mù quáng nên tội hắn không thể chừa cải hay khó lòng chừa cải, nếu hắn không biết hạ mình xuống như kẻ bị hắn khinh thường, một con người có lòng tan nát khiêm cung, nhờ tội lỗi đã biết mình và tin vào Chúa hơn bao giờ hết và hơn ai hết: "Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: 'Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội'".

Những con người có tấm lòng tan nát khiêm cung như người thu thuế trong bài Phúc Âm hôm nay, nhờ "hạ mình xuống", ở chỗ nhận mình "là kẻ có tội" mà đã "được nâng lên", ở chỗ chẳng những "ra về được khỏi tội", mà còn cảm nghiệm được lòng lòng thương xót Chúa hơn ai hết và hơn bao giờ hết, đúng như tâm tình của Thánh Vịnh 33 (2-3. 17-18. 19 và 28) được Giáo Hội chọn đọc cho bài Đáp Ca hôm nay về Vị Thiên Chúa tối cao, Đấng thấu biết tất cả mọi sự và bênh chữa "người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe" (Câu họa) như sau:

 

1) Tôi chúc tụng Thiên Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Thiên Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.

2) Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Người cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo.

3) Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương giập nát. Thiên Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Người, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Người, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi.




​​

 


Thứ Hai

Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 8, 12-17

"Anh em đã nhận lãnh tinh thần nghĩa tử, trong tinh thần ấy, chúng ta kêu lên rằng: Abba, lạy Cha".

Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ thần trí mà anh em đã giết được các hành động thân xác, thì anh em sẽ được sống.

Những ai sống theo Thánh Thần Thiên Chúa, thì là con cái Thiên Chúa. Vì không phải anh em đã nhận tinh thần nô lệ trong sợ hãi nữa, nhưng đã nhận tinh thần nghĩa tử; trong tinh thần ấy, chúng ta kêu lên rằng: "Abba, lạy Cha". Vì chính Thánh Thần đã làm chứng cho tâm trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy nếu là con cái, thì cũng là những người thừa tự: nghĩa là thừa tự của Thiên Chúa, và đồng thừa tự với Ðức Kitô, vì chúng ta đồng chịu đau khổ với Người, để rồi chúng ta sẽ cùng hưởng vinh quang với Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 67, 2 và 4. 6-7ab. 20-21

Ðáp: Thiên Chúa chúng tôi là Thiên Chúa cứu độ (c. 21a).

Xướng: 1) Thiên Chúa đứng lên, quân thù của Người tan rã, và những kẻ ghét Người chạy trốn khỏi long nhan. Nhưng người hiền đức mừng rỡ hỉ hoan, trước nhan Thiên Chúa, họ mừng vui sung sướng. - Ðáp.

2) Là Cha kẻ mồ côi, là Ðấng bênh vực người quả phụ, Thiên Chúa ngự trong thánh điện của Người. Thiên Chúa tạo nhà cửa cho những người bị bỏ rơi, dẫn đưa những người tù tội ra nơi thịnh đạt. - Ðáp.

3) Chúc tụng Chúa ngày nọ qua ngày kia! Thiên Chúa là Ðấng cứu độ, Người vác đỡ gánh nặng chúng tôi. Thiên Chúa chúng tôi là Thiên Chúa cứu độ, Chúa là Thiên Chúa ban ơn giải thoát khỏi tay tử thần. - Ðáp.

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 13, 10-17

"Chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc người con gái của Abraham này trong ngày Sabbat sao?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, nhân ngày Sabbat, Chúa Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Và đây có một người đàn bà bị quỷ ám làm cho bà đau yếu đã mười tám năm. Bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được. Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: "Hỡi bà kia, bà được khỏi tật của bà". Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa.

Nhưng viên trưởng hội đường tức giận, vì Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabbat, nên ông cất tiếng bảo dân chúng rằng: "Có sáu ngày người ta phải làm việc: vậy thì các người hãy đến xin chữa bệnh trong ngày đó, chớ đừng đến trong ngày Sabbat".

Chúa trả lời và bảo ông ta rằng: "Hỡi những kẻ giả hình, chớ thì trong ngày Sabbat, mỗi người trong các ông không thả bò hay lừa của mình ra khỏi chuồng mà dẫn nó đi uống nước sao? Phương chi người con gái của Abraham này, Satan cột trói nó đã mười tám năm nay, chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabbat sao?"

Khi Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người đều hổ thẹn, và toàn dân vui mừng vì những việc lạ lùng Người đã thực hiện.

Ðó là lời Chúa. 

Image result for Lc 13, 10-17

Suy Nghiệm Lời Chúa:

 

Chữa lành hơn là trừ quỉ


m nay, Thứ Hai Tuần XXX Thường Niên, bài Phúc Âm thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho người đàn bà khòm lưng 18 năm trường ở trong hội đường vào một ngày hưu lễ.

"Khi ấy, nhân ngày Sabbat, Chúa Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Và đây có một người đàn bà bị quỷ ám làm cho bà đau yếu đã mười tám năm. Bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được. Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: 'Hỡi bà kia, bà được khỏi tật của bà'. Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa".

Sở dĩ người đàn bà này bị khòm lưng 18 năm như vậy không phải là vì bà bị dị tật bẩm sinh ngay từ khi mới sinh, hay vì một chứng bệnh quái lạ nào khác, hoặc vì bị tai nạn vào một lúc nào đó trong đời của bà, mà là vì "bà bị quỷ ám". Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định hiện tượng này trong câu Người cảnh giác "viên trưởng hội đường tức giận, vì Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabbat" và "tất cả những kẻ chống đối Người": "Người con gái của Abraham này, Satan cột trói nó đã mười tám năm naychớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabbat sao?". 

Trong biến cố chữa lành này, Chúa Giêsu đã tự động ra tay chứ không cần phải chờ cho tới khi nữ nạn nhân khòm lưng 18 năm đáng thương này kêu xin Người, như bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: 'Hỡi bà kia, bà được khỏi tật của bà'. Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa".

Chắc đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu gặp nữ nạn nhân đáng thương này và bà cũng bắt gặp Người lần đầu tiên, trong một hội đường, nơi có thể bà hằng tuần đến nghe lời Chúa, và cũng là nơi có thể Chúa Giêsu mới tới lần đầu. Không biết bà đã nghe ai nói về Người hay chưa, về các phép lạ Người làm, mà bà khi nghe thấy Chúa Giêsu giảng dạy khôn ngoan hơn các luật sĩ và biệt phái như thế mà cũng vô cảm, như không biết Người là ai, trong khi đó người mù ngồi ăn xin ở vệ đường ở thành Giêricô, như trong bài Phúc Âm của Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm B cho thấy, đã nhào đến van xin Người chữa lành đôi mắt của anh ta cho bằng được.

Có thể bà cần phải nhìn thấy dung nhan vô cùng hiền hậu và ánh mắt chinh phục của Người nữa bà mới có thể nhận biết Người là ai và như thế nào, trong khi đó, như Phúc Âm thuật lại, "bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được". Ở đây, chúng ta thấy hai hình ảnh rất sâu xa:

Trước hết, vì con người "không thể trông lên được", không biết Chúa là ai, mà Thiên Chúa cần phải đến với con người trước, cần phải đoái trông đến con người, để chính Ngài làm cho họ có thể như nữ nạn nhân khòm lưng "đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa", nghĩa là có thể ngước trông lên Ngài, có thể nhận biết Ngài, có thể theo Ngài, có thể làm cho Ngài được nhận biết và yêu mến.

Sau nữa, hình ảnh người đàn bà "khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được đây", gây ra bởi bị quỉ ám, là hình ảnh con người nói chung đã vướng mắc nguyên tội, do ma quỉ là "tên sát nhân ngay từ ban đầu" (Gioan 8:44), cho dù họ có được thánh tẩy bởi Phép Rửa, cũng vẫn đầy những mầm mống tội lỗi và đam mê nết xấu, liên lỉ xu hướng về tội lỗi ("khòm lưng" luôn chúi đầu và chúi mặt xuống đất), có thể vấp ngã bất cứ lúc nào (người khòm lưng, chứ không phải gù lưng, rất dễ ngã xuống đất, nếu nhỡ có một ai đó đụng vào sau lưng, như thể bị ma quỉ cám dỗ xúi bậy).  

Tại sao trong trường hợp này Chúa Giêsu không trừ quỉ cho người đàn bà khòm lưng 18 năm này, mà lại chữa lành cho bà thôi, không như trường hợp Người đã trừ quỉ cho một người bị câm do quỉ ám (xem Mathêu 9:32-33)? Thật ra, chữa lành cho nữ nạn nhân cho khỏi bị khòm lưng này cũng là cách gián tiếp trừ quỉ, là cách "tháo xiềng xích" mà satan đã "cột trói" bà, bởi vì nếu quỉ không bị Người khu trừ khỏi bà thì bà vẫn còn bị khòm lưng như thường. 

Trường hợp không trừ quỉ mà chỉ chữa lành này cũng tương tự như trường hợp Người đã chữa lành cho một người bất toại là để chứng tỏ Người có quyền tha tội của Người, một quyền hành Người thực sự có mà nếu Người quả thực không tha được tội cho người bất toại là nguyên nhân gây ra hậu quả tật nguyện của người này, thì Người cũng không chữa lành cho nạn nhân bất toại ấy được (xem Mathêu 9:1-8). 

Hình ảnh người đàn bà "khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được đây", gây ra bởi bị quỉ ám, như trên đã cảm nhận, là hình ảnh con người nói chung đã vướng mắc nguyên tội, nên luôn sống theo xác thịt, luôn hướng hạ ("khòm lưng" - một tật nguyền khiến con người không bao giờ thấy trời, ám chỉ họ không thể nào hướng thượng, mà chỉ thấy đất, chỉ luôn hướng hạ, hướng về trần tục tầm thường, chiều theo xác thịt hèn hạ, có thể sa ngã bất cứ lúc nào). Bởi thế, trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, Thánh Phaolô Tông Đồ đã khuyên nhủ Kitô hữu Rôma đừng sống theo xác thịt chết chóc mà hãy sống theo thần trí sự sống như sau:

"Anh em thân mến, chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ thần trí mà anh em đã giết được các hành động thân xác, thì anh em sẽ được sống. Những ai sống theo Thánh Thần Thiên Chúa, thì là con cái Thiên Chúa. Vì không phải anh em đã nhận tinh thần nô lệ trong sợ hãi nữa, nhưng đã nhận tinh thần nghĩa tử; trong tinh thần ấy, chúng ta kêu lên rằng: "Abba, lạy Cha". Vì chính Thánh Thần đã làm chứng cho tâm trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy nếu là con cái, thì cũng là những người thừa tự: nghĩa là thừa tự của Thiên Chúa, và đồng thừa tự với Ðức Kitô, vì chúng ta đồng chịu đau khổ với Người, để rồi chúng ta sẽ cùng hưởng vinh quang với Người".

Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy một vị Thiên Chúa cứu độ, một khi Ngài "đứng lên", như hành động tự ý chữ lành của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, thì không một quyền lực nào có thể chống lại được Ngài, trái lại, còn làm cho "quân thù của Ngài tan rã" nữa, như tên quỉ ám ác độc trong bài Phúc Âm hôm nay, vì Ngài "là Cha kẻ mồ côi", không thể nào không "bênh vực người quả phụ", như trường hợp của người đàn bà khòm lưng 18 năm trong bài Phúc Âm hôm nay. 

1) Thiên Chúa đứng lên, quân thù của Người tan rã, và những kẻ ghét Người chạy trốn khỏi long nhan. Nhưng người hiền đức mừng rỡ hỉ hoan, trước nhan Thiên Chúa, họ mừng vui sung sướng. 

2) Là Cha kẻ mồ côi, là Ðấng bênh vực người quả phụ, Thiên Chúa ngự trong thánh điện của Người. Thiên Chúa tạo nhà cửa cho những người bị bỏ rơi, dẫn đưa những người tù tội ra nơi thịnh đạt. 

3) Chúc tụng Chúa ngày nọ qua ngày kia! Thiên Chúa là Ðấng cứu độ, Người vác đỡ gánh nặng chúng tôi. Thiên Chúa chúng tôi là Thiên Chúa cứu độ, Chúa là Thiên Chúa ban ơn giải thoát khỏi tay tử thần.

 

Ngày 28 tháng 10

Lễ Thánh Simon Và Giuđa, Tông Ðồ

Lễ Kính

 

Bài Ðọc I: Ep 2, 19-22

"Anh em đã được xây dựng trên nền tảng các tông đồ và các tiên tri".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, anh em không còn là khách trọ và là khách qua đường nữa, nhưng là người đồng hương với các thánh và là người nhà của Thiên Chúa: anh em đã được xây dựng trên nền tảng của các Tông đồ và Tiên tri, và chính Ðức Kitô làm đá góc tường. Trong Người, tất cả toà nhà được xây dựng cao lên thành đền thánh trong Chúa, trong Người, cả anh em cũng được xây dựng làm một với nhau, để trở thành nơi Thiên Chúa ngự trong Thánh Thần.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 18, 2-3. 4-5

Ðáp: Tiếng chúng đã vang cùng trái đất (c. 5a).

Xướng: 1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp của Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyện tụng cho đêm kia. - Ðáp.

2) Ðây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Chúng con ca ngợi Chúa là Thiên Chúa; chúng con tuyên xưng Chúa là Chúa tể; lạy Chúa, ca đoàn vinh quang các tông đồ ca ngợi Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 12-19

"Người chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Trong những ngày ấy Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ: Ðó là Simon mà Người đặt tên là Phêrô và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là nhiệt thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt, kẻ phản bội. Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.

Ðó là lời Chúa.

 

Tông Đồ Simon và Thaddêô

 

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Hôm nay chúng ta chú ý tới hai trong 12 Tông Đồ, đó là Tông Đồ Simon người Canaan và Giuđa được gọi là Thaddêô (đừng nhầm với Giuđa Iscariot). Chúng ta chú ý tới hai vị cùng một lúc, không phải vì trong danh sách 12 Tông Đồ hai vị bao giờ cũng được nhắc đến bên nhau (x Mt 10:4; Mk 3:18; Lk 6:15; Acts 1:13), mà vì không có nhiều chi tiết về hai vị, ngoại trừ Sổ Bộ Tân Ước có một bức thư được cho là của Tông Đồ Giuđa Thaddêô.

 

Tông Đồ Simon được ghép với một hình dung từ khác nhau trong 4 bản liệt kê: trong khi Thánh Ký Mathêu và Marcô diễn tả ngài như là “người xứ Canaan” thì Thánh Ký Luca diễn tả ngài như là “người nhiệt thành”. Thật sự, hai phẩm chất này là những gì tương đương nhau, vì chúng có cùng một nghĩa: đúng vậy, theo tiếng Do Thái thì động từ “qanà” có nghĩa là “nhiệt thành, hăng say”, và có thể được sử dụng để nói về Thiên Chúa liên quan tới nỗi hờn ghen đối với thành phần dân được Ngài tuyển chọn (x Ex 20:5), hay về thành phần bừng lên lòng nhiệt thành hoàn toàn dấn thân phụng sự Thiên Chúa như Elia (x 1Kgs 19:10).

 

Bởi thế, có thể Tông Đồ Simon này, nếu không thực sự thuộc về phong trào duy quốc gia chủ nghĩa của Nhóm Zealots, thì ít là có đặc tính của một lòng nhiệt thành đối với căn tính của người Do Thái, vì thế đối với Thiên Chúa, với dân tộc của mình và với lề luật thần linh. Nếu đúng là thế thì Tông Đồ Simon này hoàn toàn khác hẳn với Tông Đồ Mathêu, vị ngược lại, vì là một người thu thuế, xuất thân từ một hoạt động hoàn toàn được coi là dơ bẩn. Đó là dấu hiệu rõ ràng cho thấy Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ của Người cũng như thành phần phụ giúp của Người từ những tầng lớp xã hội và tôn giáo khác nhau, không hề phân cách.

 

Người chú trọng tới con người, chứ không lưu ý tới thứ loại hay qui ước xã hội! Và điều tuyệt vời ở đây là trong các nhóm môn đệ của mình, mặc dù khác nhau, từ thành phần nhiệt thành đến thành phần thu thuế, đều chung sống với nhau, thắng vượt những khó khăn có thể được đặt ra: thật thế, chính Chúa Giêsu là động lực cho việc liên kết này, nơi Người, tất cả đều thấy mình được kết nối. Và điều ấy rõ ràng cống hiến cho chúng ta một bài học, thành phần thường chú trọng tới những gì là khác biệt nhau và có thể là những gì chống đối nhau, quên đi rằng nơi Chúa Giêsu Kitô chúng ta có được một sức mạnh để hòa giải các thứ xung khắc của chúng ta. Và chúng ta hãy nhớ rằng nhóm 12 là một hình ảnh tiền thân của Giáo Hội và vì thế cho thấy trước Giáo Hội cần phải có chỗ cho tất cả mọi đặc sủng, mọi dân nước, mọi chủng tộc, tất cả mọi phẩm chất làm người, tất cả những gì có thể được hòa hợp và hiệp nhất nơi mối hiệp thông với Chúa Giêsu.

 

Về Tông Đồ Giuđa Thaddêô, vị được gọi như thế bởi truyền thống, liên kết hai tên gọi khác nhau: trong khi Thánh Ký Mathêu và Marcô chỉ gọi ngài là “Thaddêô” (Mt 10:3; Mk 3:18), thì Thánh Ký Luca lại gọi ngài là “Giuđa con Giacôbê” (Lk 6:16; Acts 1:13). Biệt danh Thaddêô có một nguồn gốc không rõ ràng và được giải thích như xuất phát từ tiếng Aramaic “taddà”, nghĩa là “ngực” bởi thế có nghĩa là “hào hiệp cao thượng”, hay như tiếng viết tắt của một tên gọi Hy Lạp như “Theodore, Teodoto”. Ngài là vị ít được nói đến.  

 

Chỉ có Thánh Ký Gioan ghi nhận một điều yêu cầu ngài đã tỏ ra cùng Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly: Thaddêô nói cùng Chúa Giêsu rằng “Lạy Thày, tại sao Thày chỉ tỏ mình cho chúng con mà thôi và không tỏ ra cho thế gian?” Đó là một vấn nạn có một tầm quan trọng lớn lao hiện tại, một vấn đề chúng ta cũng hỏi Chúa Giêsu rằng: Tại sao Đấng Phục Sinh không tỏ hết vinh quang của mình ra cho các thành phần đối phương để chứng tỏ cho họ thấy rằng Người là người vinh thắng? Tại sao Thiên Chúa lại chỉ tỏ mình ra cho thành phần môn đệ mà thôi? Câu trả lời của Chúa Giêsu là một câu giải đáp huyền nhiệm và có ý nghĩa sâu xa.

 

Chúa Giêsu nói rằng: “Nếu ai yêu mến Thày thì sẽ giữ lời Thày, và Cha Thày sẽ yêu thương họ, rồi Chúng Ta sẽ đến với họ, biến họ làm nơi cư trú của Chúng Ta” (Jn 14:22-23). Tức là Đấng Phục Sinh cũng cần phải được nhìn thấy, được nhận thấy, bằng con tim, nhờ đó Thiên Chúa có thể cư trú nơi họ. Chúa Giêsu không hiện ra như là một thứ đồ vật. Chúa Giêsu muốn đi vào cuộc đời của chúng ta, vì vậy, việc Người tỏ mình ra là một thứ tỏ mình bao hàm và cần có một con tim cởi mở đón nhận. Chỉ có thế chúng ta mới thấy được Đấng Phục Sinh.

 

Xưa kia Tông Đồ Giuđa Thaddêô được cho là tác giả của một trong những bức thư Tân Ước được gọi là “công giáo” vì những bức thư này ngỏ cùng một số rất đông thành phần độc giả. Thật vậy, bức thư này được ngỏ cùng “thành phần được tuyển chọn đang sống trong tình yêu của Thiên Chúa là Cha và được Chúa Giêsu Kitô gìn giữ bảo trì” (câu 1).

 

Mối quan tâm chính yếu của bản văn này đó là việc Kitô hữu phải coi chừng tất cả những ai lấy ân sủng của Chúa như tấm bình phong che đậy cái phóng túng bừa bãi của họ và lừa đảo anh em mình bằng những giáo thuyết bất khả chấp, gây chia rẽ trong Giáo Hội “bởi ảnh hưởng từ các thứ mơ tưởng của họ” (câu 8). Bởi vậy mà Tông Đồ Giuđa này so sánh họ với thành phần sa đọavà bằng những lời lẽ mạnh mẽ ngài nói rằng “họ theo đường lối của Cain” (câu 11).

 

Ngoài ra, ngài không ngần ngại gán ghép cho họ “như là những đám mây không mưa bị nổi trôi bởi gió cuốn hay những thứ cây cối cuối mùa chẳng sinh hoa kết trái, bị cằn chết, bị mất gốc; như những ngọn sóng hung dữ trên biển cả phun bọt bẩn thỉu; như những thứ tinh tú hoang đàng, đáng là đám sương mù tăm tối trong cõi vĩnh hằng” (các câu 12-13).

 

Ngày nay chúng ta không còn quen với việc sử dụng thứ ngôn từ gây tranh cãi này, thứ ngôn từ dầu sao cũng nói cho chúng ta một điều gì đó quan trọng: Đó là trong tất cả mọi chước cám dỗ hiện hữu, trước tất cả mọi trào lưu của cuộc sống tân tiến, chúng ta cần phải kiên trì gìn giữ lấy căn tính đức tin của mình. Dĩ nhiên đường lối ân huệ và đối thoại được Công Đồng Chung Vaticanô II đã thực hiện một cách khéo léo, chắc chắn sẽ được nhất mực tiếp tục thực hiện. Thế nhưng, đường lối đối thoại này, một đường lối rất ư là cần thiết, vẫn không được làm cho chúng ta quên đi nhiệm vụ cần phải cân nhắc và luôn làm chứng một cách mạnh mẽ những chiều hướng chi phối thuộc căn tính Kitô Giáo của chúng ta là những gì chúng ta không được loại bỏ.

 

Cần phải gìn giữ thật hiện đại cái căn tính ấy, cái căn tính chúng ta có không phải là trò đùa ở một bình diện thuần văn hóa hay ở một mức độ hời hợt, song nó cần phải là những mạnh mẽ, minh bạch và can đảm trước những xung khắc nơi thế giới chúng ta đang sống.

 

Đó là lý do bản văn của bức thư ấy mới tiếp tục viết như thế này: “Thế nhưng, anh chị em thân mến, hãy xây dựng bản thân mình trên đức tin rất thánh của anh chị em, hãy nguyện cầu trong Chúa Thánh Thần, hãy giữ mình trong tình yêu Thiên Chúa, hãy đợi chờ tình thương của Chúa Giêsu Kitô là Chúa của chúng ta nơi cuộc sống trường sinh; hãy tin tưởng, những ai trong anh chị em đang bị chao đảo…” (câu 2-22).

 

Chúng ta thấy rõ là vị tác giả của những giòng chữ này sống trọn vẹn niềm tin của ngài, một niềm tin hàm chứa các thực tại cao cả như tính cách liêm chính và niềm vui về luân lý, lòng tin tưởng và sau hết là việc chúc tụng, tất cả đều được tác động bởi duy sự thiện hảo của vị Thiên Chúa duy nhất của chúng ta và bởi tình thương của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Bởi thế, chớ gì cả Tông Đồ Simon người Canaan và Tông Đồ Giuđa Thaddêô giúp chúng ta biết tái nhận thức một cách mới mẻ và sống một cách thiết tha với vẻ đẹp của đức tin Kitô Giáo, biết thực hiện một chứng từ vừa mạnh mẽ vừa thanh thản.

 


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch bài giáo lý của ĐTC Biển Đức XVI về nhị vị thánh tông đồ này, theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 11/10/2006

 

 

 

Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 8, 18-25

"Các tạo vật ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa".

Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tôi nghĩ rằng những đau khổ ở đời này không thể sánh với vinh quang sắp tới sẽ được mạc khải cho chúng ta. Vì chưng các tạo vật ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa. Các tạo vật đã phải tùng phục cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn như vậy, nhưng vì Ðấng đã bắt chúng phải tùng phục, với hy vọng là các tạo vật sẽ được giải thoát khỏi vòng nô lệ sự hư nát, để được thông phần vào sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa.

Vì chúng ta biết rằng cho đến bây giờ, mọi tạo vật đều rên siết và đau đớn như người đàn bà trong lúc sinh con. Nhưng không phải chỉ có các tạo vật, mà cả chúng ta nữa, là những kẻ đã được hưởng ơn đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên rỉ trong mình chúng ta khi ngóng chờ phúc làm nghĩa tử của Thiên Chúa và ơn cứu độ thân xác chúng ta.

Vì chưng nhờ niềm cậy trông mà chúng ta được cứu độ. Nhưng hễ nhìn thấy điều mình hy vọng thì không phải là hy vọng nữa. Vì ai đã thấy điều gì rồi, đâu còn hy vọng nó nữa? Nhưng nếu chúng ta hy vọng điều chúng ta không trông thấy, chúng ta sẽ kiên tâm trông đợi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6

Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi (c. 3a).

Xướng: 1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. - Ðáp.

2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận của tôi, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. - Ðáp.

4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 34

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 13, 18-21

"Hạt cải mọc lên và trở thành một cây to".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Nước Thiên Chúa giống như cái gì? Và Ta sẽ so sánh nước đó với cái gì? Nước đó giống như hạt cải mà người kia lấy gieo trong vườn mình. Nó mọc lên và trở thành một cây to, và chim trời đến nương náu trên ngành nó".

Người lại phán rằng: "Ta sẽ so sánh Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước đó giống như tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả khối đều dậy men".

Ðó là lời Chúa.

Image result for Lc 13, 18-21

Suy Nghiệm Lời Chúa:


Nước Thiên Chúa là một sự sống phát triển


Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Ba Tuần XXX Thường Niên, thuật lại 2 dụ ngôn được Chúa Giêsu sử dụng để sánh ví về "Nước Thiên Chúa" như sau:

Dụ ngôn thứ nhất: "Nước Thiên Chúa giống như cái gì? Và Ta sẽ so sánh nước đó với cái gì? Nước đó giống như hạt cải mà người kia lấy gieo trong vườn mình. Nó mọc lên và trở thành một cây to, và chim trời đến nương náu trên ngành nó".

Dụ ngôn thứ hai: "Ta sẽ so sánh Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước đó giống như tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả khối đều dậy men".

Trong cả hai dụ ngôn này đều cho thấy sự sống của "Nước Thiên Chúa", được tỏ hiện qua sự phát triển của sự sống siêu nhiên và thiêng liêng này, một sự sống thần linh, trước hết, bắt nguồn chỉ là một cái mầm, nhỏ như là một "hạt cải", nhưng sau đó đã "mọc lên và trở thành một cây to, và chim trời đến nương náu trên ngành nó".

Phải chăng "hạt cải" đây ám chỉ đức tin, "người kia" đây ám chỉ Chúa Kitô, "gieo" đây ám chỉ việc Chúa Kitô tỏ mình ra, nhất là qua cuộc Vượt Qua của Người, "trong ruộng mình" đây ám chỉ trên thế gian này? Nếu những diễn giải theo suy đoán này không sai thì ý nghĩa của dụ ngôn này có thể hiểu là Nước Trời giống như đức tin cứu độ được Chúa Kitô gieo vãi trên thế gian này vậy. 

Chính đức tin cứu độ này, một khi "mọc lên", hình ảnh ám chỉ một Chúa Kitô Phục Sinh, thì sẽ "trở thành một cây to" ám chỉ Giáo Hội Chúa Kitô, một cộng đồng đức tin, đồng thời cũng là một bí tích cứu độ trần gian của Người và với người, một phương tiện cứu độ các linh hồn như "chim trời đến nương náu trên ngành nó".

Sự phát triển tiêu biểu cho sự sống thần linh này còn được ví như "tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả khối đều dậy men". 

Phải chăng "tấm men" đây ám chỉ lời Chúa hay Phúc Âm và bí tích thánh (Phụng Vụ Thánh Thể); "người đàn bà kia" ám chỉ Giáo Hội; "bỏ vào" ám chỉ áp dụng, cử hành, ban phát; "ba đấu bột" ám chỉ 3 thành phần làm nên cộng đồng dân Chúa, cộng đồng đức tin, đó là giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ (tất nhiên giáo sĩ bao gồm cả hàng giáo phẩm); "đều dậy men" ám chỉ các phần tử của Giáo Hội được hiệp nhất nên một với Chúa Kitô để sinh muôn vàn hoa trái thiêng liêng?

Đến đây, nếu các dẫn giải vừa được suy diễn không sai, thì chúng ta thấy 2 dụ ngôn về "Nước Thiên Chúa" này, một liên quan đến "hạt cải" và một liên quan đến "tấm men" liên hệ với nhau. Ở chỗ, một dụ ngôn liên quan đến sứ vụ của Chúa Kitô ("người kia", rõ hơn là "người đàn ông kia - a man") trong công cuộc gieo vãi đức tin cứu độ ("hạt cải") trên thế gian, và một dụ ngôn liên quan đến vai trò của Giáo Hội ("người đàn bà kia") trong việc làm cho 3 thành phần chính yếu của Giáo Hội được thấm nhuần tinh thần và sự sống của Chúa Kitô. 

Đức tin cứu độ và Giáo Hội Chúa Kitô dường như được Chúa Kitô ám chỉ trong 2 dụ ngôn về "Nước Thiên Chúa" trong bài Phúc Âm hôm nay chính là những yếu tố chính yếu bất khả thiếu cho tình trạng phục hồi của tất cả thiên nhiên tạo vật đã được Thiên Chúa dựng nên cho con người nhưng vì tội lỗi của con người mà "rên siết và đau đớn" nên vẫn hằng "ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa", như Thánh Tông Đồ Phaolô cảm nhận, xác tín và khẳng định trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay:

"Các tạo vật ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa. Các tạo vật đã phải tùng phục cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn như vậy, nhưng vì Ðấng đã bắt chúng phải tùng phục, với hy vọng là các tạo vật sẽ được giải thoát khỏi vòng nô lệ sự hư nát, để được thông phần vào sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa. Vì chúng ta biết rằng cho đến bây giờ, mọi tạo vật đều rên siết và đau đớn như người đàn bà trong lúc sinh con. Nhưng không phải chỉ có các tạo vật, mà cả chúng ta nữa, là những kẻ đã được hưởng ơn đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên rỉ trong mình chúng ta khi ngóng chờ phúc làm nghĩa tử của Thiên Chúa và ơn cứu độ thân xác chúng ta".

Bài Đáp Ca hôm nay, cũng y hệt bài Đáp Ca Chúa Nhật XXX Thường Niên đầu tuần, nhưng hôm nay phản ảnh tình trạng của "Các tạo vật ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa" trong Bài Đọc 2 cho năm lẻ hôm nay:

1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. 

2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. 

3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận của tôi, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. 

4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa. 

 

 


Thứ Tư

 


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 8, 26-30

"Những kẻ yêu mến Thiên Chúa, thì Người giúp họ được sự lành".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, có Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta. Vì chúng ta không biết cầu nguyện như thế nào cho xứng hợp. Nhưng chính Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả. Mà Ðấng thấu suốt tâm hồn, thì biết điều Thánh Thần ước muốn. Bởi vì Thánh Thần cầu xin cho các thánh theo ý Thiên Chúa.

Nhưng chúng ta biết rằng những kẻ yêu mến Thiên Chúa, thì Người giúp họ được sự lành, họ là những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh. Vì chưng, những kẻ Chúa đã biết trước, thì Người đã tiền định cho họ nên hình ảnh giống Con Người, để Ngài trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc. Những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; mà những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho họ được vinh quang.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 12, 4-5. 6

Ðáp: Lạy Chúa, con đã tin cậy vào đức từ bi của Chúa (c. 6a).

Xướng: 1) Xin đoái xem, nhậm lời con, lạy Chúa, lạy Thiên Chúa. Xin soi sáng mắt con, kẻo con thiếp ngủ trong tay tử thần, đừng để tên thù con nói được: "Ta đã thắng nó". Xin chớ để kẻ thù con hân hoan vì con quỵ ngã. - Ðáp.

2) Bởi con đã tin cậy vào đức từ bi của Chúa. Xin cho lòng con hân hoan vì ơn Ngài cứu độ, con sẽ hát mừng Chúa, vì Ngài ban ân huệ cho con. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 135

Alleluia, alleluia! - Xin tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 13, 22-30

"Người ta sẽ từ đông sang tây đến dự tiệc trong nước Chúa".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem. Có kẻ hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Nhưng Người phán cùng họ rằng: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được. Khi chủ nhà đã vào đóng cửa lại, thì lúc đó các ngươi đứng ngoài mới gõ cửa mà rằng: "Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: "Ta không biết các ngươi từ đâu tới". Bấy giờ các ngươi mới nói rằng: "Chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi". Nhưng chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: "Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta".

Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng. Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa. Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết, và những người trước hết sẽ nên sau hết".

Ðó là lời Chúa.

Image result for Lc 13, 22-30

Suy Nghiệm Lời Chúa:

                                                                                    Cứu độ: ân sủng không phải công lênh

 

Hôm nay, Thứ Tư Tuần XXX Thường Niên, trong bài Phúc Âm, Thánh ký Luca thuật lại cho chúng ta về vấn nạn số người được cứu độ, một vấn nạn bất chợt được đặt ra cho Chúa Giêsu khi Người đang "rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem", đích điểm mà Người phải đến để hoàn tất ơn cứu độ - Vậy Người đã trả lời ra sao?

Để hiểu được câu trả lời của Chúa Giêsu, cần phải biết nguyên văn câu hỏi từ một người nào đó trong đám đông đi theo Người bấy giờ"Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?Đây là một câu vừa nghi vấn "phải chăng", vừa khẳng định "chỉ có một số ít sẽ được cứu độ", một câu hỏi chỉ muốn người trả lời xác nhận theo đúng ý của người hỏi, chẳng hạn: "Đúng thế, chỉ có một số ít sẽ được cứu độ mà thôi!"

Sở dĩ người đặt ra câu hỏi này chủ trương "chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" là vì người này cho rằng chỉ có dân Do Thái là dân của Chúa mới là dân thánh, mới được cứu độ, ngoài ra, tất cả dân ngoại đều tội lỗi, xấu xa, đáng ghê tởm, không bao giờ được cứu độ. Chưa hết, ngay cả trong chính dân Do Thái của họ, thì thành phần thu thuế và đĩ điếm được liệt vào hạng tội nhân, cũng chẳng được cứu độ. Thế nên, "chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" là vậy.

Nếu thế thì vấn nạn nhân trong bài Phúc Âm hôm nay, tiêu biểu cho chung dân Do Thái và cho riêng thành phần biệt phái cùng luật sĩ này cho rằng việc cứu độ chỉ giành cho những ai tuân giữ luật Chúa, và cứu độ không phải là một "ơn", được gọi là "ơn cứu độ", mà là việc cứu độ liên quan đến việc tuân giữ luật của họ. Ngoài ra, chủ trương việc cứu độ hơn là "ơn cứu độ" này còn ngầm cho rằng không có vấn đề thống hối ăn năn, một khi con người đã sa ngã phạm tội thì kể không được cứu độ nữa. 

Đó là lý do khi được Chúa Giêsu nhắc nhở "ai trong các người không có tội thì cứ ném đá chị ta đi (người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình)" (Gioan 8:7), họ mới chẳng những chợt hổ thẹn bỏ đi từ người lớn tuổi hơn (xem Gioan 8:8), mà còn được nhắc nhở rằng ai cũng có tội, cần phải ăn năn thống hối, chứ đừng lên án và sát phạt người khác làm như thể mình chẳng có tội và chẳng đáng bị ném đá.

Phần Chúa Giêsu, Người đã không trả lời dứt khoát với vấn nạn nhân này rằng "sẽ có một số ít sẽ được cứu độ" như họ mong đợi, hay là "sẽ có nhiều người được cứu độ". Người chỉ nói đến điều kiện để được cứu độ mà thôi: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp". Đồng thời Người cũng thòng thêm một câu ngay sau đó, một câu như thể Người tỏ ra đồng ý và chấp nhận chiều hướng "sẽ có một số ít sẽ được cứu độ" của người đặt vấn đề với Người, và câu được Người bồi thêm là: "Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được".

Như thế, nếu muốn được cứu độ, tức muốn được lên trời, con người cần phải "vào qua cửa hẹp", trong khi đó, thực tế cho thấy "nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được" thì đúng là phải kết luận rằng: "chỉ có một số ít sẽ được cứu độ" mà thôi. 

Tại sao thế? Tại sao lại xẩy ra chuyện kỳ quặc như thế: "nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được"? Chẳng lẽ người ta muốn được cứu rỗi mà cũng không được hay sao, mà cũng không đúng như ý Chúa muốn cứu độ họ hay sao? Trái lại, cuối cùng còn bị Ngài phủ nhận và chối bỏ một cách phũ phàng cùng nghiêm thẳng xua đuổi nữa: "Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta". Cho dù họ có tự biện minh và bào chữa hợp tình hợp lý rằng: "Chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi".

Chính những lời họ tự bào chữa và biện minh này đã thực sự chứng tỏ họ là một trong "nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được", cho dù họ "đã ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi", tương tự như tín hữu Công giáo sau này ra trước tòa phán xét có chuyện gì không may thì viện lẽ mình đã tham dự Thánh Lễ, một cử hành phụng vụ bao gồm phần phụng vụ lời Chúa ("Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi") và phần phụng vụ Thánh Thể ("ăn uống trước mặt Ngài"), nhưng vẫn bị hư đi!

Những lời họ tự bào chữa và biện minh này còn cho thấy họ quả thực đã chủ trương do các việc họ làm mà họ được cứu độ, hơn là "ơn" cứu độ Chúa ban. Và vì thế, họ ở vào số "nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được". Trong khi đó, thành phần dân ngoại mà họ cho là chắc chắn hư đi, không được rỗi như họ, thì lại được "ơn" cứu độ Chúa ban, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, khi Người tiên báo cho họ biết rằng: "Người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa". Và Người kết luận: "Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết (như thành phần dân ngoại), và những người trước hết sẽ nên sau hết (như thành phần dân Do Thái)".

Trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, Thánh Phaolô Tông Đồ đã cho chúng ta thấy con người được "ơn" cứu độ hơn là do việc làm của họ. Trước hết, ở chỗ con người yếu đuối cần đến Thánh Thần của Thiên Chúa là Đấng giúp con người sống đúng ý muốn của Thiên Chúa để được cứu độ:

"Anh em thân mến, có Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta. Vì chúng ta không biết cầu nguyện như thế nào cho xứng hợp. Nhưng chính Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả. Mà Ðấng thấu suốt tâm hồn, thì biết điều Thánh Thần ước muốn. Bởi vì Thánh Thần cầu xin cho các thánh theo ý Thiên Chúa".

Sau nữa, ở chỗ chính Thiên Chúa chủ động, chứ không phải con người, trong việc cứu độ con người, từ đầu cho đến cuối: "Những kẻ Thiên Chúa đã biết trước, thì Ngài đã tiền định cho họ nên hình ảnh giống Con Người, để Người trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc. Những ai Ngài đã tiền định, thì Ngài cũng kêu gọi; những ai Ngài đã kêu gọi, thì Ngài cũng làm cho nên công chính; mà những ai Ngài đã làm cho nên công chính, thì Ngài cũng cho họ được vinh quang".

Bài Đáp Ca hôm nay cũng bày tỏ cảm nhận về "ơn Ngài cứu độ", theo chiều hướng của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm và Thánh Phaolô trong Bài Đọc 1 hôm nay, chứ hoàn toàn không phải về việc con người làm là những gì sẽ giúp họ được cứu độ, như chủ trương của vấn nạn nhân trong Bài Phúc Âm hôm nay:


1) Xin đoái xem, nhậm lời con, lạy Chúa, lạy Thiên Chúa. Xin soi sáng mắt con, kẻo con thiếp ngủ trong tay tử thần, đừng để tên thù con nói được: "Ta đã thắng nó". Xin chớ để kẻ thù con hân hoan vì con quỵ ngã.

2) Bởi con đã tin cậy vào đức từ bi của Chúa. Xin cho lòng con hân hoan vì ơn Ngài cứu độ, con sẽ hát mừng Chúa, vì Ngài ban ân huệ cho con. 

 


Thứ Năm

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 8, 31b-39

"Không một tạo vật nào có thể tách biệt chúng ta khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Ðức Kitô, Chúa chúng ta".

Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta? Người không dung tha chính Con Mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta, há Người lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Người sao? Ai sẽ tố cáo những kẻ Chúa chọn? (Chẳng lẽ là) chính Chúa, Ðấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án? (Chẳng lẽ là) Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã chết và hơn nữa đã sống lại, đang ngự bên hữu Thiên Chúa cũng đang biện hộ cho chúng ta?

Ai sẽ tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Ðức Kitô được? Hay là gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo sao? (Như có lời chép rằng: "Vì Chúa mà thâu ngày chúng tôi bị tử hình. Chúng tôi bị coi như con chiên đem đi giết"). Nhưng chúng ta vượt thắng được trong tất cả những sự ấy vì Ðấng đã yêu thương chúng ta. Tôi chắc chắn rằng dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay các bậc quyền quý, tài sức, dù những sự hiện tại hay tương lai, hoặc sức mạnh, dù cao hay sâu, dù tạo vật nào khác, cũng không có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Tv 108, 21-22. 26-27. 30-31

Ðáp: Lạy Chúa, xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa (c. 26b).

Xướng: 1) Nhưng phần Ngài, lạy Chúa, xin cùng con hành động vì danh Ngài, xin cứu sống con, bởi lòng Ngài từ bi nhân hậu! Bởi vì tấm thân con đau khổ và cơ hàn, và trong người con tâm can quằn quại! - Ðáp.

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, xin giúp đỡ con, xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa! để thiên hạ biết rằng đó là bàn tay của Chúa, và lạy Chúa, họ biết rằng Chúa đã làm những chuyện này. - Ðáp.

3) Con sẽ hết lời ca tụng Chúa, và con sẽ ngợi khen Ngài ở giữa chúng nhân. Vì Ngài đứng bên hữu kẻ cơ hàn, để cứu sống họ khỏi bọn người lên án. - Ðáp. 

Alleluia: x. Ep 1, 17-18

Alleluia, alleluia! - Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã soi lòng trí để chúng ta biết thế nào là sự cậy trông Chúa kêu gọi chúng ta. - Alleluia. 

Phúc Âm: Lc 13, 31-35

"Không lẽ một tiên tri phải giết chết ngoài thành Giêrusalem?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Trong ngày ấy, có mấy người biệt phái đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: "Xin Thầy lên đường và đi khỏi đây, vì Hêrôđê toan giết Thầy". Người trả lời: "Các ông hãy đi nói với con cáo đó rằng: "Ðây Ta trừ quỷ và chữa lành bệnh tật hôm nay và ngày mai, rồi ngày thứ ba Ta hoàn tất cuộc đời. Nhưng hôm nay, ngày mai và ngày hôm sau nữa, Ta còn phải đi đường, vì không lẽ một tiên tri bị giết chết ngoài thành Giêrusalem".

"Ôi Giêrusalem, Giêrusalem! Ngươi giết hại các tiên tri và ném đá những người đã được sai đến cùng ngươi. Ðã bao lần Ta muốn tụ họp con cái ngươi, như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh, thế mà ngươi đã không muốn. Thì đây, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang vu. Nhưng Ta bảo cho các ngươi hay: Các ngươi sẽ không còn xem thấy Ta, cho đến khi các ngươi sẽ nói rằng: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến!"

Ðó là lời Chúa.

Image result for Lc 13, 31-35

Suy Nghiệm Lời Chúa:
 

Bất chấp con cáo Hêrôđê


Hôm nay, Thứ Năm Tuần XXX Thường Niên, Phúc Âm của Thánh ký Luca thuật lại lời Chúa Giêsu, Đấng đang tiến về giáo đô Giêrusalem, đích điểm của cuộc hành trình cứu độ của Người với tư cách là một Đấng Thiên Sai Cứu Thế, tiên báo cho những người biệt phái biết, (chứ không phải là các môn đệ của Người biết), lần đầu tiên về cuộc tử nạn của Người ở Giêrusalem.

"Trong ngày ấy, có mấy người biệt phái đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: 'Xin Thầy lên đường và đi khỏi đây, vì Hêrôđê toan giết Thầy'. Người trả lời: 'Các ông hãy đi nói với con cáo đó rằng: Ðây Ta trừ quỷ và chữa lành bệnh tật hôm nay và ngày mai, rồi ngày thứ ba Ta hoàn tất cuộc đời. Nhưng hôm nay, ngày mai và ngày hôm sau nữa, Ta còn phải đi đường, vì không lẽ một tiên tri bị giết chết ngoài thành Giêrusalem'".

Thật ra, đây không phải là lần đầu tiên Chúa Giêsu ngấm ngầm báo trước về cuộc tử nạn của Người với những người ngoài thành phần môn đệ của Người. Nhưng quả thật là lần đầu tiên với nhóm biệt phái. Ngoài ra, theo Phúc Âm Thánh ký Gioan, ngay từ đầu, Người cũng đã báo trước với chung dân Do Thái nữa ở ngay tại Đền Thờ Giêrusalem, khi Người thách họ "hãy cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày Tôi sẽ dựng lại nó" (Gioan 2:19). 

Chưa hết, theo Phúc Âm Thánh ký Mathêu, gần đến giờ của mình, tức là sau khi Người đã vinh quang vào Thánh Giêrusalem và đã thanh tẩy Đền Thờ, Người còn nói với thành phần lãnh đạo dân Do Thái nữa, qua dụ ngôn người con duy nhất của chủ vườn nho là chính bản thân Người bị bọn tá điền sát hại để chiếm gia nghiệp của người con này nữa (xem Mathêu 21:23,37-38).

Ở đây, trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, không biết những người biệt phái báo tin cho Người về âm mưu của quận vương Hêrôđê có hiểu được những gì Người nói liên quan đến cuộc tử nạn của Người sẽ xẩy ra ở giáo đô Giêrusalem hay chăng, tuy nhiên, thành phần biệt phái vẫn âm mưu hại Người nay có một số trong họ lại muốn cứu Người thì phải kể là sự lạ. 

Hơn thế nữa, có người trong họ cũng đã mời Người đến nhà dùng bữa, như nhân vật tên Simon (xem Luca 7:36,40) hay nhân vật thủ lãnh nhóm này ở bài Phúc Âm ngày mai (xem Luca 14:1). Thậm chí có nhân vật biệt phái trong Hội Đồng Đầu Mục Do Thái là Nicôđêmô đã lén lút đến gặp Người ban đêm nữa (xem Gioan 3:1). Chính Chúa Giêsu đã chọn một pharisiêu để làm tông đồ cho dân ngoại là chàng Saulê (xem Tông Vụ 23:6). Như thế đủ cho thấy chúng ta đừng bao giờ "vơ đũa cả nắm" theo thành kiến về cá nhân nào hay về một nhóm nào có "con sâu làm rầu nồi canh"

Về phần Chúa Giêsu, khi nghe tin báo nguy hiểm cho bản thân mình như thế từ những người biệt phái, Người vẫn không hề tỏ ra lo âu sợ hãi và vội vàng tìm cách trốn tránh, trái lại, Người còn bảo những người báo tin ấy hãy đi nói lại với vị quận vương tinh quái như "con cáo" ấy về những gì Người vẫn tiếp tục cần làm và phải làm: "trừ quỷ và chữa lành bệnh tật hôm nay và ngày mai", cho tới khi hoàn tất sứ vụ của Người: "rồi ngày thứ ba Ta hoàn tất cuộc đời". 

Thậm chí Người cũng chẳng ngần ngại công khai cho biết Người trong thời gian ấy đang ở đâu nữa, cứ việc tìm đến với Người nếu muốn, không hề sợ bị bại lộ tông tích: "Nhưng hôm nay, ngày mai và ngày hôm sau nữa, Ta còn phải đi đường" để tiến về Giêrusalem và chỗ đó mới là nơi định mệnh của Người: "vì không lẽ một tiên tri bị giết chết ngoài thành Giêrusalem hay sao". 

Nếu Đền Thờ Giêrusalem biểu hiệu cho sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa thì Thành Giêrusalem biểu hiệu cho dân Chúa, nơi Thiên Chúa muốn ở giữa họ (xem Khải Huyền 21:1-3) như là một Emmanuel - Thiên Chúa ở giữa chúng ta (xem Mathêu 1:23 và Gioan 1:14). 

Thế nhưng, cho dù Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ luôn ở với họ vẫn liên lỉ ngoại tình bằng việc hiến mình tôn thờ các ngẫu tượng của họ và các thần ngoại bang, bất chấp thành phần được Thiên Chúa sai đến nhắc nhở họ, bao gồm cả chính Con của Ngài, và vì thế họ sẽ phải hứng chịu hậu quả tương xứng cho tới khi họ nhận biết Người là Đấng Thiên Sai của họ, như Chúa Giêsu đã báo trước ở cuối bài Phúc Âm hôm nay:

"Ôi Giêrusalem, Giêrusalem! Ngươi giết hại các tiên tri và ném đá những người đã được sai đến cùng ngươi. Ðã bao lần Ta muốn tụ họp con cái ngươi, như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh, thế mà ngươi đã không muốn. Thì đây, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang vu. Nhưng Ta bảo cho các ngươi hay: Các ngươi sẽ không còn xem thấy Ta, cho đến khi các ngươi sẽ nói rằng: 'Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến!'"

Sự kiện Chúa Giêsu Kitô thực sự đã chịu khổ nạn và tử giá ở Giêrusalem, nghĩa là ở giữa dân Do Thái, do dân Do Thái và cho dân Do Thái, không phải là vì quyền lực sự dữ thắng thế trên Người, hay là vì Người không thể xuống khỏi thập giá như dân này thách thức Người, cho bằng vì Người đã tự hiến (xem Gioan 10:17-18,17:19) theo đúng ý Cha của Người là Đấng đã sai Người, đến độ Ngài đã, như Thánh Phaolô Tông Đồ khẳng định trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay: "không dung tha chính Con Mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta". Bởi Chúa Giêsu Kitô không phải chỉ là Đấng Thiên sai của dân Do Thái mà còn là Đấng Cứu Thế của chung nhân loại "chúng tanữa.

Chính vì thế, chính vì Thiên Chúa đã "không dung tha chính Con Mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta", mà Con của Ngài là những gì quí nhất của Ngài, là chính bản thân Ngài (xem Do Thái 1:3), mà Thánh Phaolô đã trấn an và phấn khích chúng ta, trước hết, hãy tin tưởng cậy trông tất cả mọi sự nơi Thiên Chúa là Đấng: "lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Người sao?", sau nữa, hãy yêu mến trung kiên với Thiên Chúa cho đến cùng:

"Ai sẽ tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Ðức Kitô được? Hay là gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo sao?... Tôi chắc chắn rằng dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay các bậc quyền quý, tài sức, dù những sự hiện tại hay tương lai, hoặc sức mạnh, dù cao hay sâu, dù tạo vật nào khác, cũng không có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".

Bài Đáp Ca hôm nay chẳng những phản ảnh tâm tình của một Chúa Kitô khổ nạn và tử giá trong Bài Phúc Âm hôm nay mà còn của thành phần Kitô hữu tin tưởng trung kiên với tình yêu của Thiên Chúa bất chấp mọi gian nan thử thách cho đến cùng trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay:

1) Nhưng phần Ngài, lạy Chúa, xin cùng con hành động vì danh Ngài, xin cứu sống con, bởi lòng Ngài từ bi nhân hậu! Bởi vì tấm thân con đau khổ và cơ hàn, và trong người con tâm can quằn quại! 

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, xin giúp đỡ con, xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa! để thiên hạ biết rằng đó là bàn tay của Chúa, và lạy Chúa, họ biết rằng Chúa đã làm những chuyện này. 

3) Con sẽ hết lời ca tụng Chúa, và con sẽ ngợi khen Ngài ở giữa chúng nhân. Vì Ngài đứng bên hữu kẻ cơ hàn, để cứu sống họ khỏi bọn người lên án. 

 



Thứ Sáu

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 9, 1-5

"Tôi đã ước ao được loại khỏi Ðức Kitô vì phần ích anh em của tôi".

Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tôi xin nói thật trong Ðức Kitô, tôi không nói dối: lương tâm tôi làm chứng cho tôi trong Thánh Thần, là tôi buồn phiền quá đỗi, lòng tôi hằng đau đớn luôn. Chính tôi đã ao ước được loại khỏi Ðức Kitô vì phần ích anh em của tôi, là những thân nhân của tôi về phần xác. Họ đều là người Israel, họ được quyền làm nghĩa tử, được vinh quang, giao ước, lề luầt, việc phượng tự và lời hứa; các tổ phụ cũng là của họ, và bởi các đấng ấy mà Ðức Kitô sinh ra phần xác, Người là Thiên Chúa trên hết mọi sự, đáng chúc tụng muôn đời. Amen.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 147, 12-13. 14-15. 19-20

Ðáp: Hỡi Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa! (c. 12a).

Xướng: 1) Hỡi Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa! Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! vì Người giữ chặt các then cửa ngươi; Người chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội. - Ðáp.

2) Người giữ cho mọi bờ cõi ngươi được bình an, Người dưỡng nuôi ngươi bằng tinh hoa của lúa mì. Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy rảo. - Ðáp.

3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 36a và 29b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin nghiêng lòng con theo lời Chúa răn bảo, và xin rộng tay ban luật pháp của Chúa cho con. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 14, 1-6

"Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không kéo nó lên sao?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào dùng bữa trong nhà một thủ lãnh biệt phái, thì những người hiện diện ở đó dòm xét Người. Bấy giờ có một người mắc bệnh thuỷ thũng ở trước mặt Người. Chúa Giêsu lên tiếng hỏi các Luật sĩ và biệt phái rằng: "Trong ngày Sabbat, có được phép chữa bệnh không?" Các ông ấy làm thinh. Bấy giờ Người kéo kẻ ấy lại, và chữa lành, rồi cho về. Ðoạn Người bảo các ông rằng: "Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?" Nhưng các ông không thể trả lời câu hỏi ấy.

Ðó là lời Chúa.

Image result for Lc 14, 1-6

Suy Nghiệm Lời Chúa:


Bất chấp cả Ngày Hưu Lễ


Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXX Thường Niên, trình thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành ở ngay trong nhà của một vị thủ lãnh nhóm biệt phái vào ngày hưu lễ, nguyên văn như sau:

"Khi ấy, vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào dùng bữa trong nhà một thủ lãnh biệt phái, thì những người hiện diện ở đó dòm xét Người. Bấy giờ có một người mắc bệnh thuỷ thũng ở trước mặt Người. Chúa Giêsu lên tiếng hỏi các Luật sĩ và biệt phái rằng: 'Trong ngày Sabbat, có được phép chữa bệnh không?' Các ông ấy làm thinh. Bấy giờ Người kéo kẻ ấy lại, và chữa lành, rồi cho về. Ðoạn Người bảo các ông rằng: 'Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?' Nhưng các ông không thể trả lời câu hỏi ấy".

Bài Phúc Âm này cho thấy Chúa Giêsu tấn công địch ngay trong lòng địch, đó là ở ngay trong nhà của một thủ lĩnh biệt phái Người đã chữa lành vào ngay ngày hưu lễ, thành phần biệt phái vẫn hay theo dõi Người để bắt bẻ Người và mưu đồ hại Người, một cuộc tấn công Người cố ý làm, cho dù có đụng đến chủ trương duy luật của thành phần thông luật, giữ luật và dạy luật trong dân chúng ấy.

Thế nhưng, họ thông luật ở chỗ thuộc nhiều luật lệ hơn dân chúng, bao gồm cả việc giữ luật hơn dân chúng, thế nhưng họ lại dẫn giải luật một cách thiển cận và theo thiên kiến vị kỷ, bởi thế, họ không thấy được đâu là tinh thần thực sự của luật và mục đích chính yếu của những gì được gọi là luật, của những gì tự bản chất chỉ là phương tiện giúp con người đạt được cứu cánh của họ hơn là cùng đích của họ. 

Chính vì thế, Chúa Giêsu muốn lợi dụng việc chữa lành cho "một người mắc bệnh thủy thũng" vào ngày hưu lễ ở trong chính nhà của một người lãnh đạo biệt phái để nhờ đó có thể soi sáng cho họ biết những gì họ chủ trương là lệch lạc, là sai lầm, cần phải chỉnh đốn lại:

"Chúa Giêsu lên tiếng hỏi các Luật sĩ và biệt phái rằng: 'Trong ngày Sabbat, có được phép chữa bệnh không?' Các ông ấy làm thinh... Ðoạn Người bảo các ông rằng: 'Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?' Nhưng các ông không thể trả lời câu hỏi ấy".

Sở dĩ thành phần biệt phái thông luật này tỏ thái độ "làm thinh" trước hai câu hỏi tối căn bản được Chúa Giêsu đặt ra gợi ý cho họ suy nghĩ và tự vấn không phải là vì họ chịu thua, hay đang cần giờ để tìm thêm được lý mạnh hầu phản công lại Người, hoặc vì nể mặt Người, mà chính là vì họ "không thể trả lời câu hỏi ấy". 

Nếu "im lặng là đồng lõa" thì phải chăng những người biệt phái chứng kiến thấy việc Chúa Giêsu ngang nhiên chữa lành trong ngày hưu lễ ở ngay nhà của họ, nhất là "không thể trả lời câu hỏi" được Người đặt ra cho họđã hoàn toàn chấp nhận những gì Chúa Giêsu nói là chí lý, là chính xác, là chân thực, cần phải áp dụng thi hành? 

Cũng có thể, nếu họ có thiện chí và tinh thần cởi mở. Bằng không, trái lại, với tinh thần cực đoan và bảo thủ, kèm theo tự ái về thế giá thông luật của mình, họ sẽ vẫn tiếp tục đường lối sai lầm của họ, với những biện minh và dẫn giải chủ quan phi chân lý. Nếu xẩy ra trường hợp đáng tiếc này thì cũng dễ hiểu. Vì bình thường con người ta vẫn hay cố chấp cho dù thực sự biết mình sai, để bảo vệ tiếng tăm mặt mũi của mình. Do đó, họ vẫn tiếp tục ngoan cố làm sai, bất chấp hậu quả gây ra cho bản thân họ cũng như cho những ai được họ dẫn dắt!

Thế nhưng, dầu sao, đối với Chúa Giêsu Kitô "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29) những con người đáng thương ấy vẫn "nhầm không biết việc mình làm" (Luca 23:34), vẫn đáng tha thứ. Chính vì cảm nghiệm được tình yêu vô cùng nhân hậu này của Thiên Chúa qua Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, mà nhân vật biệt phái chính qui Saulê đã hết lòng thông cảm với dân của mình, đến độ, trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, ngài đã dám liều mất phần rỗi của mình cho phần rỗi của họ:

"Anh em thân mến, tôi xin nói thật trong Ðức Kitô, tôi không nói dối: lương tâm tôi làm chứng cho tôi trong Thánh Thần, là tôi buồn phiền quá đỗi, lòng tôi hằng đau đớn luôn. Chính tôi đã ao ước được loại khỏi Ðức Kitô vì phần ích anh em của tôi, là những thân nhân của tôi về phần xác".

Tuy nhiên, theo vị Thánh Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô này, thì dân của ngài ấy chắc chắn không bị Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất lãng quên và loại bỏ, cho dù họ có ngoan cố đến đâu chăng nữa, bởi vì chính Thiên Chúa đã tự chọn dân tộc bẩm sinh ngoan cố này cho Ngài, để tỏ ra quyền năng đầy khôn ngoan và nhân hậu của Ngài trong việc thực hiện dự án cứu độ của Ngài cho chung nhân loại nơi Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, Đấng đã xuất phát từ giòng dõi dân Do TháiĐó là lỳ do vị tông đồ này đã viết:

"Họ đều là người Israel, họ được quyền làm nghĩa tử, được vinh quang, giao ước, lề luầt, việc phượng tự và lời hứa; các tổ phụ cũng là của họ, và bởi các đấng ấy mà Ðức Kitô sinh ra phần xác, Người là Thiên Chúa trên hết mọi sự, đáng chúc tụng muôn đời. Amen".

Nếu cảm nhận được đặc ân tuyển chọn của mình trong dự án cứu độ của Thiên Chúa như thế, dân Do Thái không thể nào không vang lên những cảm nhận và tâm tình của mình như trong Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Hỡi Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa! Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! vì Người giữ chặt các then cửa ngươi; Người chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội. 

2) Người giữ cho mọi bờ cõi ngươi được bình an, Người dưỡng nuôi ngươi bằng tinh hoa của lúa mì. Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy rảo. 

3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người. 

 

 

Ngày 1 tháng 11

Lễ Các Thánh Nam Nữ

Lễ Trọng

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Kh 7, 2-4, 9-14

"Tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng".

Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.

Tôi là Gioan đã nhìn thấy một thiên thần khác từ phía mặt trời mọc đi lên, tay cầm ấn Thiên Chúa hằng sống, và lớn tiếng kêu gọi bốn thiên thần được lệnh tàn phá đất và biển mà rằng: "Chớ có tàn phá đất, biển và cây cối trước khi ta đóng ấn trên trán những tôi tớ của Thiên Chúa chúng ta". Và tôi đã nghe biết số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel.

Sau đó, tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: "Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Ðấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên".

Rồi tất cả các thiên thần đến đứng chung quanh ngai vàng, và các trưởng lão cùng bốn con vật sấp mình xuống trước ngai mà thờ lạy Thiên Chúa rằng: "Amen! Chúc tụng, vinh hiển, khôn ngoan, cảm tạ, vinh dự, uy quyền và dũng lực cho Thiên Chúa chúng tôi muôn đời. Amen". Rồi một trong các trưởng lão lên tiếng hỏi rằng: "Những người mặc áo trắng này là ai vậy? Và họ từ đâu mà đến?" Tôi đáp lại rằng: "Thưa ngài, hẳn ngài đã rõ". Và người bảo tôi rằng: "Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6

Ðáp: Lạy Chúa, này là dòng dõi của những kẻ tìm Chúa (c. 6a).

Xướng: 1) Trái đất và muôn loài trên mặt đất là của Chúa, hoàn cầu và muôn vật trên địa cầu. Vì chưng Chúa đã xây dựng nền móng trái đất trên biển cả, và Người đã tạo dựng nó trên các sông ngòi. - Ðáp.

2) Ai sẽ được trèo lên núi Chúa? Ai sẽ được dừng bước trong thánh điện? Ðó là người có bàn tay vô tội và tâm hồn trong sạch, không để lòng xuôi theo sự giả trá. - Ðáp.

3) Người đó sẽ hưởng phúc lành của Chúa và lượng từ bi của Chúa, Ðấng giải thoát họ. Ðấy là dòng dõi của những kẻ tìm Người, những kẻ tìm tôn nhan Thiên Chúa của Giacóp. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Ga 3, 1-3

"Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy".

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, các con hãy coi: Tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa và thực sự là thế. Vì đó mà thế gian không nhận biết chúng ta, vì thế gian không biết Người. Các con thân mến, hiện nay, chúng ta là con Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao thì vẫn chưa được tỏ ra. Chúng ta biết rằng: khi được tỏ ra, thì chúng ta sẽ giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy. Và bất cứ ai đặt hy vọng nơi Người, thì tự thánh hoá mình cũng như Người là Ðấng Thánh.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Mc 11, 28

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các con". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 1-12a

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.

"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Rev 7, 2-4, 9-14

 

Suy Nghiệm Lời Chúa:

 

sự sống viên trọn


Hôm nay, Lễ Trọng Kính Các Thánh trên trời, Phụng Vụ Lời Chúa vì thế được Giáo Hội chọn đọc đều trực tiếp liên quan đến Các Thánh: Bài Đọc 1 liên quan tới số phận của các ngài, Bài Đáp Ca liên quan tới tinh thần của các ngài, Bài Đọc 2 liên quan tới vinh phúc của các ngài, và sau hết Bài Phúc Âm liên quan đến thánh đức của các ngài.

Bài Đọc 1 liên quan tới số phận của các ngài

Thật vậy, Sách Khải Huyền ở đoạn 7 đã cho chúng ta thấy số phận của Các Thánh nơi hình ảnh "đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: 'Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Ðấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên'... Rồi một trong các trưởng lão lên tiếng hỏi rằng: 'Những người mặc áo trắng này là ai vậy? Và họ từ đâu mà đến?' Tôi đáp lại rằng: 'Thưa ngài, hẳn ngài đã rõ'. Và người bảo tôi rằng: 'Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên'".

Phải, nếu NÊN THÁNH là nên giống Chúa Kitô, mà Chúa Kitô là một Đấng Thiên Sai Cứu Thế khổ nạn và tử giá, và nếu môn đệ không hơn Thày, đầy tớ không hơn chủ (xem Gioan 13:16), thì ai muốn theo Người, muốn làm môn đệ của Người không thể đi con đường nào khác ngoài con đường chính Người đã đi như một gương mẫu tối hậu cho họ. Càng nên giống Người càng phải khổ
. Càng khổ càng nên giống Người, đúng như dự án của Thiên Chúa: "Những ai Ngài biết trước thì Ngài cũng tiền định cho thông phần hình ảnh Con của Ngài" (Roma 8:29). Như thế, nếu Các Thánh là thành phần giống Chúa Kitô nhất thì các ngài phải là những con người đã "đi đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới" (Khải Huyền 14:4): "Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên'". 

Bài Đáp Ca liên quan tới tinh thần của các ngài. 

Thế nhưng, để có thể "từ đau khổ lớn lao mà đến, giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên", "đi đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới" như thế, Các Thánh, như Bài Đáp Ca cho thấy, cần phải "là dòng dõi của những kẻ tìm Chúa, những kẻ tìm tôn nhan Thiên Chúa của Giacóp", thành phần "có bàn tay vô tội và tâm hồn trong sạch, không để lòng xuôi theo sự giả trá".

Bài Đọc 2 liên quan tới vinh phúc của các ngài. 

Ngay từ khi lãnh nhận Phép Rửa, Kitô hữu đã là thánh, vì đã được trở nên dưỡng tử của Thiên Chúa, đã được thông phần vào bản tính vô cùng hoàn thiện của Thiên Chúa và sự sống thần linh vô cùng viên mãn của Ngài, một hiệp thông thần linh ngay khi còn ở trần gian này, và nhờ đó, sau này, như lời trong Bài Đọc 2 được trích từ Thư 1 của Thánh Gioan khẳng định: "
chúng ta sẽ giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy".

Bài Phúc Âm liên quan đến thánh
 đức của các ngài.

Vẫn biết, nhờ Phép Rửa, Kitô hữu đã LÀ THÁNH, nhưng thực tế cho thấy bản tính vướng mắc nguyên tội của con người, cho dù đã được thanh tẩy, đã được tha khỏi nguyên tội, vẫn còn nguyên dấu vết và hậu quả của nguyên tội, chẳng những sống đời khổ đau và cùng đời chết đi, mà vẫn còn mầm mống tội lỗi là đam mê nhục dục cùng tính mê nết xấu trong mình nữa, khiến họ luôn hướng hạ và khuynh chiều về xác thịt, có thể sa ngã phạm tội bất cứ lúc nào, cần phải quyết liệt chiến đấu cho tới cùng, nhất là khi gặp gian nan khốn khó. 

Bởi thế, cho dù đã LÀ THÁNH, trong cuộc hành trình đức tin trên trần thế, đầy những cám dỗ và khổ đau, gây ra bởi xác thịt, thế gian và ma quỉ, Kitô hữu vẫn cần phải liên lỉ NÊN THÁNH nữa, bằng cách thắng vượt bản tính tự nhiên luôn tìm hưởng thụ đầy vị kỷ của mình, mà trung thành sống theo tác động thần linh của Thiên Chúa. Nhờ đó, họ mới có thể LÀM THÁNH đúng như ơn gọi LÀM Con Thiên Chúa và bản chất LÀ Con Thiên Chúa của họ, thành phần tác hành như Thiên Chúa là Cha của mình muốn, như Cha của mình tác hành: "trọn lành như Cha trên trời" (Mathêu 5:48), "thương xót như Cha thương xót" (Luca 6:36), và "yêu nhau như Thày đã yêu" (Gioan 13:34, 15:12). 

Bài Phúc Âm của Thánh ký cho Lễ Các Thánh hôm nay đã cho thấy thành phần LÀM THÁNH này, qua những tác động siêu nhiên, tác động thần linh, tác động trọn lành của họ, những tác động được gọi là thánh đức và được liệt kê thứ tự như sau:

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. 
Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. 
Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. 
Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. 
Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. 
Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. 
Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. 
Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.
Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời".

Thánh đức của các thành phần con cái Thiên Chúa, của những ai LÀM THÁNH như Các Thánh, đó là sống những tinh thần trọn lành sau đây:

"Nghèo khó": CÁC THÁNH là những vị trước hết không theo đam mê yêu thích và dính bén với bất cứ một người nào, một vật nào, một việc nào hay một sự gì trên thế gian này ngoài Thiên Chúa là Chân Thiện Mỹ duy nhất tối cao của các vị, là "Nước Trời" của các vị; dù mọi sự trên thế gian này cần thiết mấy chăng nữa, tốt lành mấy chăng nữa và ích lợi mấy chăng nữa, các vị cũng chỉ sử dụng chúng như phương tiện tạm bợ hơn là cùng đích của các vị
 
"Hiền lành": CÁC THÁNH là những vị không bao giờ tỏ thái độ khinh bỉ trần gian và ghét bỏ trần gian, như những tâm hồn mới bước vào đường nhân đức cảm thấy sốt sắng nhất thời mắc phải, hay như những tâm hồn là nạn nhân của thế gian nên quay ra thù hận ghét bỏ thế gian, trái lại, tinh thần nghèo khó siêu thoát còn làm cho các vị thanh thoát sử dụng tất cả mọi sự và  "hiền lành" đối xử với tất cả mọi sự đúng như giá trị của chúng, nên các vị chẳng những không mất chúng mà còn giữ được chúng như "được đất làm của mình vậy", ở chỗ các vị thánh hóa chúng bằng tinh thần khó nghèo siêu thoát của các vị.  
 
"Khóc lóc": CÁC THÁNH là những vị sống khổ chế theo tinh thần khó nghèo trọn lành, cho dù việc sống khổ chế của các vị có làm cho bản tính tự nhiên vốn xu hướng về hưởng thụ vị kỷ của các vị ban đầu trải qua những lúc cảm thấy tiếc xót; thế nhưng, cho dù lòng tham muốn tự nhiên có cảm thấy "đau buồn" hay "khóc lóc", như Dân Do Thái xưa trong sa mạc muốn quay về với củ hành củ tỏi Ai Cập, các vị vẫn cảm thấy một thứ "an ủi" khôn sánh trong tâm hồn.

"Đói khát sự công chính": CÁC THÁNH là những vị đói khát sự công chính hơn ai hết, vì các vị đã có được 3 phúc đức đầu trên đây trong Tám Mối Phúc Thật liên quan đến tinh thần từ bỏ tạo vật cũng như chính mình, đến độ các vị không "đói khát" hay mong ước gì hơn ngoài Nước Trời, ngoài "sự công chính", ngoài phần rỗi các linh hồn, đến độ cái làm cho các vị "no thỏa" nhất, mãn nguyện nhất, vui sướng nhất là được hy sinh và phục vụ tha nhân, nhất là những người anh chị em hèn mọn nhất của Chúa Kitô, theo khả năng và hoàn cảnh hết sức của các vị.
 
"Thương xót": CÁC THÁNH là những vị "thương xót" đồng loại hơn ai hết, nhất là những người anh chị em hèn mọn nhất của các vị về thể lý (nghèo khổ), về tâm lý (khù khờ), về tâm linh (dại dột), về luân lý (tội lỗi), về đạo lý (lầm lạc) v.v. Các vị cảm thấy những bất hạnh nơi anh chị em của mình như là của các vị, và vì thế các vị dám dấn thân hy sinh cho họ hết sức mình, đến độ, các vị trở thành đáng "thương xót" như Chúa Kitô khổ giá đáng thương hơn cả tội nhân.
 
"Có lòng thanh sạch": CÁC THÁNH là những vị được hiệp nhất nên một với Vị Thiên Chúa là Tình Yêu, bằng tấm "lòng thanh sạch", chẳng những ở chỗ các vị không hề quyến luyến và dính bén với bất cứ một sự gì trần tục thấp hèn trên thế gian này, mà còn ở chỗ, nhất là sau khi các vị trải qua đêm tối tăm thanh tẩy đức tin của các vị, các vị được Thánh Linh Chúa chiếm đoạt và làm chủ, nhờ đó các vị có được một con mắt hết sức tinh tường hơn ai hết trong việc "nhìn xem Thiên Chúa", tức là trong việc dễ dàng nhận biết ý Chúa muốn để đáp ứng một cách thích đáng.

n ở hòa thuận": CÁC THÁNH là những vị tràn đầy bình an của những người "con cái Thiên Chúa", không gì có thể cướp mất bình an Chúa Kitô ban cho các vị ở nơi tâm hồn của các vị, cho dù các vị có bị đau khổ thử thách, trái lại, chính nhờ tình trạng bình an sâu xa trong tâm hồn các vị ngay trong chính những biến loạn của cuộc đời như thế của các vị mà các vị luôn "ăn ở thuận hòa", không bao giờ có đối thủ, không bao giờ biết thù hằn oán ghét ai, trái lại, luôn tha thứ và nhẫn nại chịu đựng hết mọi phiền toái hay xúc phạm gây ra bởi những người anh chị em của các vị.
 
"Chịu bách hại vì lẽ công chính": CÁC THÁNH là những vị sống công chính, mà công chính như ánh sáng chiếu soi tăm tối nên các vị luôn trở thành mục tiêu chống đối và "bách hại" của quyền lực sự dữ, của thành phần bất chính, như lương tâm chân chính bao giờ cũng bị con người phàm tục đê hèn phản loạn và đàn áp, như các tiên tri loan báo những gì Thiên Chúa nhắc nhở đều bị dân Do Thái chống đối và sát hại, như chính Chúa Kitô bị dân Người phủ nhận và đóng đanh; nếu không một quyền lực sự dữ nào có thể triệt hạ được Đấng phục sinh từ trong kẻ chết, thì quyền lực bất khuất và bất diệt ấy cũng biến những bách hại của các vị trở thành hạt giống "Nước Trời". 

 

(Xin đọc thêm những lời của đức giáo hoàng Phanxicô dưới đây về Các Thánh)

 

 

"Các thánh chúng ta tưởng nhớ hôm nay chính là những ai sống trong ân sủng của Bí Tích Rửa Tội các vị lãnh nhận, các vị giữ nguyên tuyền 'ấn tín' ấy, tác hành như là thành phần con cái của Thiên Chúa, tìm cách noi gương bắt chước Chúa Giêsu, và giờ đây các vị đã đạt tới đích điểm của các vị ở chỗ cuối cùng các vị 'thấy Thiên Chúa như Ngài là'".

 Đức Thánh Cha Phanxicô - Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật Lễ Các Thánh 1/11/2015   

Xin chào Anh Chị Em thân mến và chúc mừng ngày quan thày!


Trong việc cử hành hôm nay, Lễ Các Thánh, chúng ta cảm thấy thực tại Các Thánh Thông Công đặc biệt trở nên sống động, tức là đại gia đình của chúng ta, được làm nên bởi tất cả mọi phần tử của Giáo Hội, có thành phần chúng ta còn đang h
ành trình trên trần gian, có những người - đông đảo hơn - đã ra khỏi trần gian và đã về Trời. Tất cả chúng ta đều được hiệp nhất, được gọi là "Các Thánh Thông Công", tức là cộng đồng của tất cả những ai đã lãnh nhận Phép Rửa. 


Trong phụng vụ, Sách Khải Huyền nhắc nhở chúng ta một đặc tính thiết yếu của các thánh như thế này: các vị là những con người h
oàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Cuốn Sách này cho thấy các vị là một đám đông "được tuyển chọn", mặc áo trắng và có in "ấn tín của Thiên Chúa" (7:2-4,9-14). Qua cái cá biệt cuối cùng này, được nhấn mạnh bằng thứ ngôn từ bóng bẩy, cho thấy các thánh thuộc về Thiên Chúa một cách trọn vẹn và chuyên biệt; các vị là tài sản của Ngài. Mang ấn tín của Thiên Chúa trong đời sống của mình và nơi con người của mình nghĩa là gì? Tông Đồ Gioan cũng cho biết rằng nó có nghĩa là trong Chúa Giêsu Kitô, chúng ta đã thực sự trở nên con cái của Thiên Chúa (xem 1Gioan 3:1-3). 


Chúng ta có nhận thức được đại tặng ân này hay chăng? Chúng ta có nhớ rằng nơi Phép Rửa chúng ta đã được Cha Trên Trời "niêm ấn" và đã trở nên con cái của Ngài hay chăng? Nói đơn giản là 
chúng ta mang tên họ của Thiên Chúa, tên họ của chúng ta là Thiên Chúa, vì chúng ta là con cái của Thiên Chúa. Đây là gốc gác của ơn gọi nên thánh! Các thánh chúng ta tưởng nhớ hôm nay chính là những ai sống trong ân sủng của Bí Tích Rửa Tội các vị lãnh nhận, các vị giữ nguyên tuyền "ấn tín" ấy, tác hành như là thành phần con cái của Thiên Chúa, tìm cách noi gương bắt chước Chúa Giêsu, và giờ đây các vị đã đạt tới đích điểm của các vị ở chỗ cuối cùng các vị "thấy Thiên Chúa như Ngài là".


Đặc tính thứ hai thích đáng với các thánh đó là 
các vị trở nên những tấm gương để bắt chước. Chúng ta hãy lưu ý nhé: chẳng những các vị Thánh được tôn phong mà có thể nói cả những vị Thánh "ở bên cạnh" chúng ta, những vị nhờ ơn Chúa đã nỗ lực thực hành Phúc Âm nơi những cái thường tình trong đời sống của họ. Chúng ta cũng đã gặp những vị Thánh này: có lẽ chúng ta đã có một ai đó trong gia đình của chúng ta, hay trong số bạn bè quen biết của chúng ta. Chúng ta cần phải biết ơn họ và nhất là cần phải tạ ơn Chúa là Đấng đã ban họ cho chúng ta, Đấng đặt họ gần chúng ta, như là những tấm gương sống động và lây lan về cách sống chết trung thành với Chúa Giêsu cũng như với Phúc Âm của Người. Biết bao người tốt lành chúng ta đã biết đến và đang biết đến và chúng ta nói rằng: "Người này là một vị Thánh!", chúng ta nói như thế một cách bộc phát. Đó là những vị Thánh kề bên chúng ta, những vị chưa được tôn phong nhưng đang sống với chúng ta.


Để bắt chước các hành vi cử chỉ yêu thương và nhân hậu của họ là một cái gì đó như thể kéo dài sự hiện diện của họ trên thế gian này. Thật vậy, 
những hành vi cử chỉ phúc âm ấy là những hành vi cử chỉ duy nhất chống lại cái hủy hoại của sự chết: một hành động êm ái dịu dàng, một hành động quảng đại giúp đáp, giành thời gian lắng nghe, một cuộc viếng thăm, một lời nói tử tế, một nụ cười tươi... Những hành vi cử chỉ này có vẻ tầm thường chẳng là gì trước con mắt của chúng ta, thế nhưng trước con mắt của Thiên Chúa chúng lại là những gì thường hằng, vì tình yêu và lòng thương cảm mạnh hơn cả sự chết


Chớ gì Trinh Nữ Maria, Nữ Vương Các Thánh, giúp chúng ta tin tưởng hơn nữa vào ân sủng của Thiên Chúa, tiến bước nhanh chóng
 trên đường thánh thiện. Chúng ta hãy ký thác cho Người Mẹ của chúng ta nỗ lực hằng ngày của chúng ta, và chúng ta cũng nguyện cầu cùng Mẹ cho kẻ chết của chúng ta với niềm hy vọng sâu xa rằng chúng ta sẽ được gặp lại họ một ngày kia tất cả cùng nhau ở trong mối hiệp thông vinh hiển trên Thiên Đàng.  

http://www.zenit.org/en/articles/full-text-pope-s-angelus-address--3

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch (kèm theo nhan đề và những chỗ nhấn mạnh tự ý)

 

ĐTC PHANXICÔ: HUẤN TỪ TRUYỀN TIN LỄ CÁC THÁNH THỨ TƯ NGÀY 1-11-2017

"Các Thánh không phải là những mẫu gương mô phạm hoàn hảo,

mà là những con người được Thiên Chúa đụng chạm"

Xin chào và mừng lễ Anh Chị Em thân mến!

Lễ Trọng Các Thánh là lễ của "chúng ta", không phải vì chúng ta tốt lành mà vì sự thánh thiện của Thiên Chúa đã đụng chạm tới chúng ta. Các Thánh không phải là những mẫu gương mô phạm hoàn hảo, mà là những con người được Thiên Chúa đụng chạm. Chúng ta có thể so sánh các vị với những cửa sổ ở các nhà thờ, nơi ánh sáng lọt qua bằng các bóng mầu khác nhau. Các Thánh là những người anh chị em của chúng ta, thành phần đã lãnh nhận ánh sáng của Thiên Chúa nơi tâm hồn của mình và truyền đạt ánh sáng này cho thế giới, mỗi vị theo cái bóng của mình. Tuy nhiên, tất cả các vị đều trong sáng; các vị đã chiến đấu để loài bỏ đi các dấu vết và bóng tối của tội lỗi, để cho ánh sáng tốt lành của Thiên Chúa chiếu qua. Đó là mục đích của đời sống: để cho ánh sáng của Thiên Chúa chiếu qua nhờ đó đời sống của chúng ta cũng mới có mục đích.

Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu hướng về thành phần của Người, về tất cả chúng ta, mà nói với chúng ta rằng "Phúc thay - Blessed" (Mathêu 5:3). Người đã mở đầu việc giảng dạy của Người bằng lời ấy, có nghĩa là "Phúc Âm - Gospel", là Tin Mừng - Good News, vì đó là lối sống hạnh phúc. Ai ở với Chúa Giêsu thì có phúc - blessed, thì hạnh phúc - happy. Hạnh phúc không phải là ở chỗ có một cái gì đó hay trở nên một ai đó, không phải thế. Hạnh phúc thật là ở với Chúa và sống cho tình yêu. Anh chị em có tin như thế chăng? Hạnh phúc không phải là ở chỗ có một cái gì đó hay trở nên một ai đó, không phải thế. Hạnh phúc thật là ở với Chúa và sống cho tình yêu. Anh chị em có tin như thế chăng? Chúng ta cần phải tiến tới chỗ tin như thế. Bấy giờ các thứ yếu tố làm thành một đời sống hạnh phúc mới được gọi là các mối Phúc Đức - Beatitudes: phúc cho ai đơn sơ, cho ai khiêm hạ biết giành chỗ cho Thiên Chúa, những người có thể khóc thương kẻ khác và khóc vì lầm lỗi của mình, những người hiền lành, chiến đấu cho công lý, biết thương xót tất cả mọi người, biết canh giữ tính chất tinh tuyền của tâm can, luôn hoạt động cho hòa bình và sống hân hoan; họ không biết thù ghét, thậm chí ngay cả khi chịu khổ đau, họ đáp lại sự dữ bằng sự lành.

Đó là những mối Phúc Đức. Chúng không đòi hỏi những cử chỉ hào nhoáng; chúng không giành cho thánh phần siêu việt - supermen, mà là cho những ai sống các thứ thách đố và khốn khó hằng ngày, mà là cho chúng ta. Các Thánh là như thế đó: như tất cả chúng ta, các vị hít thở bầu khí phóng uế của sự dữ xầy ra trên thế giới này; tuy nhiên, trong cuộc hành trình các vị vẫn không bao giờ lạc mất dấu vết của Chúa Giêsu - Jesus' trace, được nói đến trong các mối Phúc Đức, như tấm bản đồ của đời sống Kitô hữu. Hôm nay là lễ của những ai đã đạt tới đích điểm được phác họa nơi tấm bản đồ ấy: không những của các Thánh nhân theo niên lịch, mà còn cả của rất nhiều anh chị em "cận kề" chúng ta nữa, những con người có lẽ chúng ta đã gặp gỡ và biết đến. Đó là một lễ của gia đình - a family feast, của nhiều con người đơn sơ và kín đáo thực sự giúp Thiên Chúa trong việc đẩy mạnh thế giới này. Có rất nhiều người hôm nay đây! Rất nhiều. Xin cám ơn những người anh chị em ẩn danh đang giúp Thiên Chúa đẩy mạnh thế giới này, những con người sống giữa chúng ta. Chúng ta chào họ bằng một tràng pháo tay nhiệt liệt!

Trước hết - hãy nói đến mối Phúc Đức thứ nhất - họ là những người "có tinh thần nghèo khó" (Mathêu 5:3). Nghĩa là gì? Nghĩa là họ không sống vì thành đạt, quyền năng và tiền của; họ biết rằng ai tích lũy giầu sang phú quí cho bản thân mình thì không làm giầu trước nhan Thiên Chúa (xem Luca 12:21). Trái lại, họ tin rằng Chúa mới là kho tàng của đời sống, tình yêu thương tha nhân là nguồn lợi tức duy nhất thực sự. Đôi khi chúng ta không cảm thấy hạnh phúc về một cái gì đó chúng ta đang thiếu hay quan tâm, một khi chúng ta không được cứu xét đến như chúng ta mong muốn; chúng ta hãy nhớ rằng mối Phúc Đức của chúng ta không ở trên đời này, mà là ở trong Chúa và nơi tình yêu thương: con người thực sự có phúc chỉ khi nào ở với Người, chỉ ở chỗ yêu thương mà thôi.

Sau hết, tôi muốn nói đến một mối Phúc Đức khác, mối phúc đức không có trong Phúc Âm mà là ở cuối cuốn Thánh Kinh, mối phúc đức về việc kết thúc đời sống: "Phúc cho thành phần chết trong Chúa" (Khải Huyền 14:13). Ngày mai chúng ta sẽ được kêu gọi hỗ trợ người chết của chúng ta bằng việc cầu nguyện, nhờ đó họ được hoan hỉ muôn đời trong Chúa. Chúng ta hãy tưởng nhớ đến những người thân yêu của chúng ta bằng tấm lòng tri ân và chúng ta hãy nguyện cầu cho họ.

Xin Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Các Thánh và là Cửa Thiên Đàng, chuyển cầu cho cuộc hành trình nên thánh của chúng ta và cho những người thân yêu của chúng ta đã ra đi trước chúng ta và giờ đây đang ở quê hương thiên đình.

https://zenit.org/articles/angelus-address-solemnity-of-all-saints/

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và những chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu 

 


Thứ Bảy

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa 


Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 11, 1-2a. 11-12. 25-29

"Nếu sự bỏ rơi người Do-thái là sự giao hoà của thế giới, thì đâu là cái lợi, nếu không phải là sự sống lại từ cõi chết?"

Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, chớ thì Thiên Chúa đã bỏ rơi dân Người rồi sao? Hẳn là không. Vì chính tôi cũng là người Israel, miêu duệ của Abraham, thuộc chi họ Bengiamin. Thiên Chúa không từ bỏ dân Người mà Người đã chiếu cố trước.

Vậy tôi xin hỏi: Chớ thì họ đã vấp chân đến nỗi ngã xuống rồi sao? Hẳn là không. Nhưng vì lỗi lầm của họ mà Dân ngoại được ơn cứu độ, để họ ganh đua với những kẻ ấy. Nếu lỗi lầm của họ làm cho thế giới nên giàu có, và sự thiếu thốn của họ làm cho Dân ngoại được phú túc, thì sự dư đầy của họ còn lợi nhiều hơn biết bao.

Anh em thân mến, tôi không muốn để anh em không hay biết mầu nhiệm này (để anh em không tự cho mình là những kẻ khôn ngoan): là một phần dân Israel cứng lòng mãi cho đến khi toàn thể Dân ngoại nhập giáo, và bấy giờ toàn thể Israel cũng sẽ được cứu độ, như có lời chép rằng: "Từ Sion có Ðấng Cứu độ sẽ đến mà cất sự vô đạo khỏi Giacóp. Và đó là giao ước Ta ký kết với họ, khi Ta xoá bỏ tội lỗi của họ".

Xét theo Tin Mừng thì họ thật là kẻ thù nghịch vì anh em, nhưng xét theo kén chọn, thì họ là những người rất được yêu thương vì các tổ phụ. Bởi vì Thiên Chúa ban ân huệ và kêu gọi ai, Người không hề hối tiếc.

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Tv 93, 12-13a. 14-15. 17-18

Ðáp: Chúa sẽ không loại trừ dân tộc của Chúa (c. 14a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, phúc thay người được Ngài dạy bảo, và giáo hoá theo luật pháp của Ngài, hầu cho họ được thảnh thơi trong những ngày gian khổ. - Ðáp.

2) Vì Chúa sẽ không loại trừ dân tộc, và không bỏ rơi gia nghiệp của Ngài. Nhưng sự xét xử sẽ trở lại đường công chính, và mọi người lòng ngay sẽ thuận tình theo. - Ðáp.

3) Nếu như Chúa chẳng phù trợ con, trong giây phút hồn con sẽ ở nơi yên lặng. Ðang lúc con nghĩ rằng "Chân con xiêu té", thì, lạy Chúa, ân sủng Ngài nâng đỡ thân con. - Ðáp. 

Alleluia: Tv 147, 12a và 15a

Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai Lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia. 

Phúc Âm: Lc 14, 1. 7-11

"Hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa, và họ dò xét Người. Người nhận thấy cách những kẻ được mời chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng:

"Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: "Xin ông nhường chỗ cho người này", bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: "Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên", bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc.

"Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".

Ðó là lời Chúa.

Image result for Lc 14, 1. 7-11

Suy Nghiệm Lời Chúa:

Biết thân biết phận thì chỉ đáp ứng hơn là chọn lựa

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần XXX Thường Niên, tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua. Đúng hơn, cả hai bài Phúc Âm hôm qua và hôm nay là một, vì khung cảnh diễn ra đều ở trong cùng một địa điểm là "nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa", nhưng về nội dung thì được Giáo Hội cắt ra làm hai, vì ở nơi đây Chúa đã dạy hai bài học cho thành phần biệt phái đang ăn uống với Người bấy giờ. 

Bài học thứ nhất đã được Chúa Giêsu huấn dụ trong bài Phúc Âm hôm qua về tinh thần và mục đích của lề luật liên quan đến sự kiện Người chữa lành cho người bị bệnh thủy thủng vào ngày hưu lễ. Bài học thứ hai được Người huấn dụ họ sau khi "Người nhận thấy cách những kẻ được mời chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng:  

"Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: 'Xin ông nhường chỗ cho người này', bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: 'Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên', bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc. Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".

Bài học thứ hai này trong Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu dạy đó là "hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết", một thái độ khôn ngoan nhất, một chọn lựa tốt lành nhất. Không phải để, về phần tiêu cực, tránh được bẽ mặt khi "ngồi vào chỗ nhất", chỗ mà có thể "có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: 'Xin ông nhường chỗ cho người này', bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết". Cũng không phải để, về phần tích cực, được vẻ vang hơn khi "Người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: 'Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên', bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc". 

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trong các cuộc hội họp, hay ngay cả trong nhà thờ, giáo dân Việt Nam nói riêng thường thích ngồi ở dưới hơn là ngồi ở trên. Cho dù có mời lên chỗ trống còn nhiều ở trên cũng không chịu. Có thể là vì họ sợ ngủ gật. Có thể là vì họ muốn ngồi đấy để chuồn ra ngoài cho dễ, hay biến cho nhanh dù chưa xong lễ. Có thể là vì bạn bè cùng tham dự không chịu thay đổi chỗ ngồi nên ngồi với nhau cho vui. Có thể là vì họ không muốn bị ai dòm ngó đằng sau. Có thể là vì họ có con nhỏ quấy phá muốn tránh chia trí cho mọi người. Có thể là vì họ cảm thấy mình hèn hạ tội lỗi bất xứng chỉ đáng ngồi cuối cùng v.v.

Ai cũng có lý do chính đáng để cứ ngồi ở chỗ cuối. Thế nhưng, chúng ta hãy suy nghĩ thật kỹ câu "hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết" Chúa Giêsu huấn dụ những người biệt phái trong bài Phúc Âm hôm nay, cũng để huấn dụ cả chúng ta nữa, chúng ta mới thấy đó là một nguyên tắc sống đức tin và đồng thời cũng là một linh đạo rất thiết thực, cần thiết, hữu dụng và không thể không áp dụng để có thể sống bình an và nên trọn lành. 

Thật vậy, vấn đề then chốt ở câu "hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết" này đó là thái độ đáp ứng tuân theo hơn là chủ động chọn lựa. Bởi thế, Chúa Giêsu không bảo rằng "hãy chọn chỗ cuối cùng mà ngồi", mà là "hãy đi mà ngồi vào chỗ cuối cùng". Tại sao thế? Tại vì nếu chúng ta mà "chọn" tức là chúng ta có quyền, chúng ta làm chủ, chúng ta làm theo ý muốn của chúng ta, làm theo ý nghĩ, ý thích, ý riêng của chúng ta, và sẽ chẳng bao giờ vừa với lòng tham vô đáy của chúng ta, không bao giờ hợp với tính hay thay đổi theo cảm giác cảm tình của chúng ta v.v.

Trong đời sống tu đức cũng thế. Bao lâu chúng ta còn làm chủ, còn tự tin, còn cậy mình v.v. thì bấy lâu chúng ta còn xa Chúa, chưa trọn lành, cho đến khi, qua những đau thương thử thách Chúa gửi đến cho chúng ta để thanh tẩy chúng ta, để kéo chúng ta ra khỏi thế gian, chúng ta bấy giờ mới chỉ còn biết bám lấy Chúa, chỉ còn biết tin tưởng vào Ngài và phó thác cho Ngài, nghĩa là bấy giờ nhờ được Chúa hoàn toàn chiếm đoạt và ngự trị, chúng ta mới có thể "nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48), mới có thể "thương xót như Cha là Đấng thương xót" (Luca 6:36), mới có thể "yêu nhau như Thày đã yêu thương các con" (Gioan 13:34,15:12).

Đó là lý do chúng ta thấy trong Biến Cố Truyền Tin, Mẹ Maria đầy ân phúc đã không "chọn" chỗ cuối cùng, mà là chấp nhận, là "đi ngồi vào chỗ cuối cùng" của Mẹ đó là thân phận của một nữ tỳ xin vâng (xem Luca 1:38), là chỗ Chúa chọn cho Mẹ - Phải chăng vì thế mà Mẹ đã không hề lên tiếng chối từ cho dù được chọn làm Mẹ Thiên Chúa!?! 

Đó là lý do chúng ta còn thấy chỉ khi nào Tông Đồ Phêrô không còn tự mình đi đây đi đó nữa, mà trái lại, ngài còn bị dẫn đi đến nơi ngài không muốn, hoàn toàn trái ý của ngài, ở trong thế bị động hơn là chủ động như trước, ngài mới có thể thực sự "theo Thày", tức mới thực sự nên giống Đấng chịu đóng đinh là Thày của ngài (xem Gioan 21:18-19). 

Đó cũng là lý do tại sao kẻ lớn nhất trên Nước Trời là kẻ "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" (Mathêu 18:3), như tâm hồn của người nam cao trọng nhất được người nữ sinh ra (xem Mathêu 11:11), đến chỉ để tỏ cho dân chúng biết Đấng đến sau mình (xem Gioan 1:31,27): "Người cần được gia tăng, còn tôi cần bị giảm xuống" (Gioan 3:30).

Trường hợp của dân Do Thái thì sao - họ có "đi mà ngồi vào chỗ cuối cùng" hay chăng, hay là, đúng như Chúa Giêsu nhận thấy họ trong bài Phúc Âm hôm nay rõ ràng là "những kẻ được mời chọn chỗ nhất"? 

Quả thực đúng như thế. Ở chỗ, Thiên Chúa đã kén chọn dân Do Thái giữa các dân tộc trên thế giới này, nhưng thực tế cho thấy, qua giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ, họ đã không sống đúng với ơn gọi chuyên biệt này của họ, không "đi mà ngồi vào chỗ cuối cùng" được Thiên Chúa chọn cho ấy, trái lại, họ đã tự "chọn chỗ cuối cùng mà ngồi" cho họ, đó là một "chỗ" vời vợi xa cách Thiên Chúa của họ hơn bao giờ hết và hơn ai hết, "chỗ" ngoại tình với tà thần và sấp mình tôn thờ ngẫu tượng, trắng trợn loại bỏ Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ.

Thế nhưng, "chỗ cuối cùng" mà Thiên Chúa đã chọn cho dân Do Thái vẫn còn đấy, vì như Thánh Phaolô Tông Đồ trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay khẳng định: "Thiên Chúa không từ bỏ dân Người mà Người đã chiếu cố trước....Thiên Chúa ban ân huệ và kêu gọi ai, Người không hề hối tiếc". 

Hơn thế nữa, chính nhờ họ tạm thời bỏ trống "chỗ cuối cùng" tuyệt vời của họ mà dân ngoại mới được ngồi ké nữa, như vị tông đồ dân ngoại này nhận định trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay: "vì lỗi lầm của họ mà Dân ngoại được ơn cứu độ... Nếu lỗi lầm của họ làm cho thế giới nên giàu có, và sự thiếu thốn của họ làm cho Dân ngoại được phú túc, thì sự dư đầy của họ còn lợi nhiều hơn biết bao".

Đó là một "mầu nhiệm", mầu nhiệm cứu độ theo dự án vô cùng khôn ngoan huyền diệu của Thiên Chúa mà Thánh Phaolô muốn cho dân ngoại biết, qua Kitô hữu giáo đoàn Rôma, trong Bài Đọc 1 hôm nay, để thành phần dân ngoại này không bị ảo tưởng và vênh vang tự phụ: 

"Anh em thân mến, tôi không muốn để anh em không hay biết mầu nhiệm này (để anh em không tự cho mình là những kẻ khôn ngoan): là một phần dân Israel cứng lòng mãi cho đến khi toàn thể Dân ngoại nhập giáo, và bấy giờ toàn thể Israel cũng sẽ được cứu độ".

Trong giòng Lịch Sử Cứu Độ của mình, chính Dân Do Thái cũng đã cảm nghiệm được Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ không bao giờ bỏ họ, cho dù họ có thế nào chăng nữa, đến độ, có những lúc họ cảm thấy không thể nào thiếu Ngài, như những tâm thức của Bài Đáp Ca hôm nay: 

1) Lạy Chúa, phúc thay người được Ngài dạy bảo, và giáo hóa theo luật pháp của Ngài, hầu cho họ được thảnh thơi trong những ngày gian khổ. 

2) Vì Chúa sẽ không loại trừ dân tộc, và không bỏ rơi gia nghiệp của Ngài. Nhưng sự xét xử sẽ trở lại đường công chính, và mọi người lòng ngay sẽ thuận tình theo. 

3) Nếu như Chúa chẳng phù trợ con, trong giây phút hồn con sẽ ở nơi yên lặng. Ðang lúc con nghĩ rằng "Chân con xiêu té", thì, lạy Chúa, ân sủng Ngài nâng đỡ thân con. 

  

Ngày 2 tháng 11

Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Ðã Qua Ðời

Lễ Nhớ

 

 

Lễ Nhất

Bài Ðọc I: Rm 6, 3-9

"Chúng ta phải sống đời sống mới".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Ðức Giêsu Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Ðức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế. Vì nếu chúng ta được liên kết với Người trong cùng một cái chết, giống như cái chết của Người, thì chúng ta cũng được hợp nhất với Người, trong sự sống lại giống như vậy.

Nên biết điều này: con người cũ của chúng ta đã cùng chịu đóng đinh khổ giá, để xác thịt tội lỗi bị huỷ đi, hầu cho chúng ta không còn làm nô lệ tội lỗi nữa, vì con người đã chết, tức là được giải thoát khỏi tội lỗi. Mà nếu chúng ta đã chết với Ðức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Ðức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 5).

Hoặc đọc: Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con (c. 4a).

Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.

2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. - Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương: đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 11, 25-26

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 6, 51-59

"Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?"

Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời".

Ðó là lời Chúa.

 

Lễ Nhì

Bài Ðọc I: Kn 3, 1-9

"Chúa chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu".

Trích sách Khôn Ngoan.

Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Ðối với con mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài đã chịu khổ hình, lòng cậy trông của các ngài cũng không chết. Sau một giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽ được vinh dự lớn lao: vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.

Khi đến giờ Chúa ghé mắt nhìn các ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau. Các ngài sẽ xét xử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời. Các ngài đã tin tưởng ở Chúa, thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Chúa trong tình yêu, vì ơn Chúa và bình an sẽ dành cho những người Chúa chọn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 24, 6-7bc. 17-18. 20-21

Ðáp: Lạy Chúa, con vươn linh hồn con lên tới Chúa (c. 1b).

Hoặc đọc: Lạy Chúa, phàm ai trông cậy Chúa, ắt chẳng hổ ngươi (c. 3b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.

2) Xin cho lòng con được nhẹ bớt lo âu, và giải thoát con khỏi cảnh ưu tư phiền muộn. Xin Chúa coi cảnh lầm than khốn khổ của con, và tha thứ hết mọi điều tội lỗi. - Ðáp.

3) Xin gìn giữ mạng sống con và giải thoát con, đừng để con bẽ bàng vì đã tìm nương tựa Chúa. Nguyện cho lòng con vô tội và trung thứ bảo vệ con, vì con trông cậy vào Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: 2 Tm 2, 11-12a

Alleluia, alleluia! - Nếu chúng ta cùng chết với Chúa Kitô, thì chúng ta cùng sống với Người; nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Người. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 23, 33. 39-43

"Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục người rằng: "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa".

Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?" Và anh ta thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Lễ Ba

Bài Ðọc I: Rm 5, 5-11

"Chúng ta đã nên công chính trong Máu của Người, và nhờ Người chúng ta được cứu khỏi cơn thịnh nộ".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tình yêu của Thiên Chúa tuôn đổ trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần đã ban cho chúng ta. Chúa Kitô theo kỳ hẹn mà chịu chết vì chúng ta là kẻ tội lỗi. Ít có ai chết thay cho người công chính, họa chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta.

Vậy phương chi bây giờ, chúng ta đã nên công chính trong máu của Người, và nhờ Người chúng ta sẽ được cứu khỏi cơn thịnh nộ. Bởi chưng nếu khi chúng ta còn là thù nghịch, mà chúng ta đã được giao hoà cùng Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Ngài, thì huống chi khi đã được giao hoà, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong sự sống của chính Chúa Kitô. Và không những thế, chúng ta còn được vinh hiển trong Thiên Chúa nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người mà bây giờ chúng ta được lãnh ơn giao hoà.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 26, 1. 4. 7 và 8b và 9a. 13-14

Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng cứu độ tôi (c. 1a).

Hoặc đọc: Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh (c. 13).

Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.

2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Người. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin nghe con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa. Xin Chúa đừng ẩn mặt xa con. - Ðáp.

4) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy trông đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và trông đợi Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 6, 39

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ý của Cha là hễ sự gì Người đã ban cho Ta, Ta chẳng để mất, nhưng ngày sau hết Ta sẽ cho nó sống lại". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 17, 24-26

"Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, (Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng:) "Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Chia sẻ Suy Niệm:

sự sống chưa trọn


Giáo Hội cố ý đặt Lễ Các Đẳng (2/11) ngay sau Lễ Các Thánh (1/11) hằng năm như có ý nhấn mạnh đến mầu nhiệm các thánh thông công. 

Các Thánh là những vị đã được hưởng phúc trên thiên đàng, đã đạt đến cùng đích của mình, đã được hiệp thông thần linh viên mãn trong Thiên Chúa và với Thiên Chúa, còn Các Đẳng là những vị tuy đã được rỗi nhưng chưa hoàn toàn được hưởng vinh phúc như Các Thánh, chưa được hoàn toàn chiêm ngưỡng Thánh Nhan Thiên Chúa vô cùng uy nghi và toàn thiện, bởi hậu quả gây ra bởi tội lỗi của các vị khi còn sống trên trần gian này.

Các Đẳng ở dưới luyện ngục không phải để đền tội lỗi của mình cho bằng để đền bù những hậu quả do tội gây ra. Mà hậu quả do tội lỗi gây ra không phải chỉ là đau khổ và chết chóc như trên thế gian này khi con người còn sống, mà còn là và nhất là ở chỗ do tội lỗi họ phạm trên trần gian mà mối liên hệ giữa h và Thiên Chúa bị gián đoạn, bị hư hoại. Bởi thế, cái đau khổ nhất của các linh hồn trong luyện ngục là chưa được chiêm ngưỡng dung nhan Thiên Chúa, chưa được tận hưởng hiệp thông thần linh với Ngài là cùng đích của các vị.

Vấn đề được đặt ra ở đây là như thế thì chẳng lẽ ở đời sau, hay nói đúng hơn ở trong luyện ngục, (trừ thiên đàng và hỏa ngục), cũng có "thời gian" hay sao hay cũng còn "thời gian" hay sao? Vì các linh hồn ở đó "vẫn chưa" được hoàn toàn chiêm ngưỡng Thánh Nhan Thiên Chúa, nghĩa là "vẫn còn" trông đợi một "tương lai vĩnh phúc" sau khi họ đã chết và ra khỏi trần gian, ra khỏi phạm trù không gian và thời gian. 

Đúng thế, nếu xét về thứ không gian và thời gian theo thể lý của ngày tạo dựng thứ tư (xem Khởi Nguyên 1:14-19), mà bất cứ loài tạo vật hay sinh vật hữu hình nào ở trên trái đất này cũng bị chi phối và lệ thuộc, thì các linh hồn ở trong luyện ngục quả thực không còn "thời gian" nữa. 

Như thế, nói chung, đối với các sinh vật hữu hình sống trong thời gian và không gian, cách riêng với loài linh ư vạn vật là con người, thì quả thực "chết là hết" - "hết thời" hay "hết thời gian", chứ không phải chỉ là hiện tượng và tình trạng linh hồn ra khỏi thân xác, hay nói cách khác, chính vì "hết thời" mà linh hồn ra khỏi xác, mà con người ta lìa đời: "Mọi sự đều có thời của mình trên trần gian này... có thời sinh ra và có thời chết đi..." (xem Giảng Viên 3:2).

Chính vì thế mà bản thân của họ không còn thời gian, không còn cơ hội để lập công đền tội trong thân xác của họ nữa, cần phải có người nào còn sống trong thân xác ở trên trần gian này, nghĩa là còn sống trong thời gian để lập công đn tội thay cho họ. 

Thời gian ở trên trần gian này quí như vậy, qua đi không bao giờ trở lại nữa, mà con người ta đã lãng phí vào bao nhiêu là những gì chẳng đáng trên đời này, như thể không có đời sau, không có vĩnh cửu, trong khi đó họ vẫn sợ chết, nghĩa là vẫn muốn được sống mãi mãi, vẫn muốn được sống trường sinh bất tử. Vậy nếu họ tin có đời sau thì họ đang tìm gì ở trên đời này vậy?! Các Đẳng trong luyện ngục rất mong được có thời gian vô cùng quí báu như khi còn sống trên đời này mà chẳng bao giờ được nữa. Đã muộn rồi. Đã hết thời nơi họ rồi. 

Thế nhưng, cho dù không còn thời gian để tự lập công nữa, Các Đẳng vẫn có thể nhận công bởi những người còn thời gian, còn sống trên trần gian này, mà luyện ngục, ở một nghĩa nào đó, dường như vẫn còn liên hệ với thời gian, vẫn là một thực tại linh thiêng chưa tuyệt đối như thiên đàng hay hỏa ngục, vẫn còn có thể đổi thay, vẫn chưa viên mãn vì các linh hồn ở đó chưa đạt được cùng đích tối hậu của mình, vẫn còn mong đợi. 

Đó là lý do, như ngục tổ tông xưa là một thực tại linh thiêng vô hình để trông chờ Đấng Thiên Sai Cứu Chuộc Nhân Trần thế nào, cho đến khi "Người xuống ngục tổ tông" đưa các thánh lên mới không còn ngục tổ tông này nữa, thì cũng có thể nói luyện ngục là một thực tại linh thiêng vô hình chỉ tồn tại cho đến tận thế là thời điểm Chúa Kitô đến lần thứ hai, sau đó không bao giờ còn luyện ngục nữa. 

Cả lâm bô (limbo) là "nơi" chúng ta vẫn tin rằng vô thưởng vô phạt cho những linh hồn chết đi chưa kịp được nhận Phép Rửa tha nguyên tội mà cũng chưa kịp phạm bất cứ một cá tội nào cũng thế. Nếu Thiên Chúa dựng nên con người là để cho họ được hạnh phúc đời đời, được hiệp thông thần linh với Ngài trong cõi vĩnh phúc: "Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý" (Timôthêu 2:4), thì lâm bô không thể nào tồn tại đời đời, trái lại, chỉ có thể tồn tại cho đến khi Chúa Kitô đến lần thứ hai "để mang ơn cứu rỗi cho những ai thiết tha trông đời Người" (Do Thái 9:28). 

Mà các linh hồn ở trong lâm bô, cũng như trong luyện tội cho tới khi Chúa Kitô đến lần cuối cùng, như trường hợp của Amélia được Đức Mẹ trả lời cho em Lucia vào lần hiện ra thứ nhất ở Fatima ngày 13/5/1917 rằng "nó sẽ phải ở trong luyện tội cho tới tận thế", đều hết sức trông mong được tận hưởng vinh phúc trong tình trạng hiệp thông thần linh với Thiên Chúa là cùng đích của họ, thì phải kết luận là hai thực tại lâm bô và luyện ngục chỉ tồn tại tạm thời thôi.

(Về trường hợp của thiếu nữ mười tám đôi mươi Amélia này, lời Mẹ Maria nói đến số phận của cô phải ở trong luyện ngục cho tới tận thế, thì một là Mẹ ngầm báo rằng sắp sửa đến tận thế rồi đấy, bằng không biết cô thiếu nữ trẻ trung nhỏ tuổi quê mùa vào năm 1917 này đã phạm những tội gì mà bị phạt lâu dài đến thế? Nếu thế thì tội lỗi của con người ta vô cùng khủng khiếp ghê sợ chưa từng có hiện nay còn đáng bị trừng phạt khủng khiếp đến chừng nào ch)

Vậy nếu ngục tổ tông chỉ tồn tại cho tới khi Chúa Kitô đến trần gian lần thứ nhất và luyện ngục chỉ tồn tại cho đến khi Người đến thế gian lần thứ hai, cả lâm bô cũng thế, thì ba thực tại này chỉ là những thực tại linh thiêng tạm thời, một thực tại chuyển tiếp, một thực tại vẫn hướng về "thời gian viên trọn" (Galata 4:4) của Chúa Kitô, Đấng đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc của Người bằng cuộc Vượt Qua của Người, nhưng qua Giáo Hội, Người vẫn tiếp tục công việc cứu chuộc của Người cho đến tận thế, bao gồm cả việc cứu những linh hồn ở trong luyện ngục cho khỏi hình phạt họ phải chịu nữa cũng như cứu các linh hồn ở trong lâm bô vô thưởng vô phạt cũng trông mong được đời đời cứu độ.

Đó là lý do, cho dù không tự mình lập công đền tội, các linh hồn trong luyện ngục vẫn có thể tiếp tục hưởng Ơn Toàn Xá cũng gọi là Ơn Đại Xá, ơn tha hết mọi hình phạt gây ra bởi tội lỗi, do một người nào đó hoàn tất có ý chỉ cho họ, nhờ công nghiệp vô cùng châu báu của Chúa Giêsu Kitô là những gì vẫn còn tác hiệu trong thời gian cho tới khi Người lại đến, nhờ đó họ lập tức được tha thứ hết mọi hình phạt bởi tội lỗi của họ gây ra mà được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần. 

Nếu nói rằng luyện ngục là "nơi" các linh hồn bị giam cầm để đền bù hậu quả của tội lỗi khi vấp phạm trên đời, thì luyện ngục là một "nơi" khổ chứ không sướng như thiên đường. Nhưng tình trạng "khổ" liên quan đến hình phạt ở trong luyện ngục đây không như ở trong hỏa ngục, vì tình trạng "khổ" ở luyện ngục chỉ tạm thời trong một "thời gian" chứ không vô cùng bất tận như trong hỏa ngục.

Tình trạng "khổ" ở trong luyện ngục là ở chỗ dù con người đã chết nhưng hồn thiêng bất tử của con người vẫn chưa đạt được cùng đích của mình là Thiên Chúa, nghĩa là chưa được hoàn toàn và trọn vẹn hiệp thông thần linh với Ngài. Và vì chưa đạt được cùng đích của mình nên linh hồn trong luyện ngục vẫn thao thức mong chờ cho tới khi được hoàn toàn mãn nguyện, nghĩa là được "lên" thiên đàng, được "vào nơi" muôn đời vinh phúc, hay nói đúng hơn, được "ở trong " hay được tham hưởng sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi và với Thiên Chúa Ba Ngôi.

Tuy chưa được hoàn toàn và trọn vẹn tham hưởng sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi và với Thiên Chúa Ba Ngôi, Các Đẳng trong luyện ngục cũng đã được cứu độ rồi, nghĩa là cũng được tham hưởng "một phần nào" sự sống thần linh của Thiên Chúa và với Thiên Chúa, tuy chưa hoàn toàn và trọn vẹn như Các Thánh ở trên trời, nghĩa là họ được tham hưởng sự sống thần linh này tùy theo mức độ tội trạng của họ trước kia, tức tùy theo tình trạng xa cách Thiên Chúa của họ gây ra bởi tội lỗi họ phạm khi còn sống trên trần gian, hay tùy theo mức độ liên hệ của họ với Ngài khi còn sống, cũng như tùy theo "thời gian" bao lâu họ đã ở trong luyện ngục, nhờ đó mỗi ngày họ càng gần Chúa hơn, càng hưởng Chúa hơn.

Nếu còn sống trên trần gian thành phần Kitô hữu đang hành trình đức tin chỉ thấy Thiên Chúa như qua tấm gương thì trên thiên đàng Các Thánh được thấy Thiên Chúa nhãn tiền, diện đối diện, một cách như Ngài là (xem 1Corinto 13:12), và nhờ đó Các Thánh được trở nên giống như Thiên Chúa, phản ảnh Thiên Chúa, như Bài Đọc 2 cho Lễ Các Thánh hôm qua cho biết: "hiện nay, chúng ta là con Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao thì vẫn chưa được tỏ ra. Chúng ta biết rằng: khi được tỏ ra thì chúng ta sẽ giống như Ngài, vì chúng ta sẽ thấy Ngài như Ngài là" (1Gioan 3:2).

Và như thế, Các Đẳng trong luyện ngục, nếu đã được cứu độ, tức nếu đã được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa ở một mức độ nào đó, chưa hoàn toàn và trọn vẹn, thì Các Đẳng cũng đang ở trong tiến trình nên "giống như Ngài" và đang từ từ "sẽ thấy Ngài như Ngài là" cho đến "khi được tỏ ra", nghĩa là cho đến khi Thiên Chúa trở nên trọn vẹn nơi các vị "như Ngài là" mà khi còn sống trên thế gian họ còn thiếu sót trong việc nhận biết "Ngài như Ngài là"

Đó là lý do khi còn sống trên trần gian này, càng nhận biết Thiên Chúa bao nhiêu, ở chỗ càng hiệp nhất nên một với Ý Muốn của Ngài bằng đức tin tuân phc bao nhiêu cũng như bằng đức ái trọn hảo hiện thực hóa đức tin (xem Galata 5:6) bao nhiêu, thì càng được hoan hưởng Thiên Chúa nhanh bấy nhiêu và nhiều bấy nhiêu, như Các Thánh nói chung trên thiên đàng, nhất là như Mẹ Maria đầy ơn phúc, một đệ nhất tạo vật về ân sủng

Trường hợp của những linh hồn được lên thiên đàng ngay sau khi lãnh nhận Phép Rửa, dù là mới sinh hay người lớn, là những trường hợp đốt giai đoạn được hưởng Nước Trời nhanh nhất, như người trộm bị đóng đanh bên phải Chúa Kitô (xem Luca 23:40-43), nhưng không thể nào được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa bằng Các Thánh hay như Mẹ Maria là những hạt giống sinh 30, 60 hay 100 (xem Mathêu 13:23).

Vấn đề được thông hiệp thần linh với Thiên Chúa trên thiên đàng nhiều hay ít hoàn toàn không phải là do con người khi còn sống trên gian này "lập công" nhiều hay ít, mà hoàn toàn do Công Nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, được con người chấp nhận khi lãnh nhận Phép Rửa, bằng nước hay máu hoặc lửa, và tiếp tục trung thành đáp ứng ơn cứu độ này cũng như cộng tác với ơn cứu độ này cho phần rỗi các linh hồn khác.

Trong khi các linh hồn ở lâm bô không thể chuyển cầu cho người thế, vì các linh hồn này không có "công" gì và đang ở trong tình trạng vô thưởng vô phạt, thì Các Đẳng ở trong luyện ngục, tùy theo mức độ "được tỏ ra" của Thiên Chúa nơi các vị, nghĩa là tùy theo mức độ các vị được hiệp thông thần linh với Ngài bao nhiêu và tới đâu, các vị cũng có thể xứng đáng chuyển cầu cho những ai còn sống trên trần gian, nhất là những ai nhớ đến các vị để giúp các vị mau chóng được hoàn toàn và trọn vẹn hiệp thông thần linh đời đời với Thiên Chúa trên thiên đàng như Các Thánh. 

 

 

Nếu chúng ta quả thực tin có đời sau thì chúng ta đang tìm kiếm những gì ở đời này?

      Hôm nay, 2/11, Giáo Hội tưởng nhớ đến Các Linh Hồn trong Luyện Ngục, chúng ta hãy cùng nhau lợi dụng dịp lễ này để suy niệm nhé: Nếu chúng ta quả thực tin có đời sau thì chúng ta đang tìm kiếm những gì ở đời này?

     Trên thực tế, chúng ta có tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài trườc hết mọi sự hay chăng? (Mt 6:33). Không phải chỉ ở chỗ tham dự Thánh Lễ,  trong đó chúng ta nghe lời Chúa và hiệp lễ hằng ngày mà đủ, vì Chúa vẫn có thể phủ nhận chúng ta rằng "Ta không hề biết các ngươi" dù chúng ta có biện minh rằng chúng ta đã từng nghe Người giảng dạy (có thể hiểu là nghe lời Chúa trong lễ) và ăn uống với Người (có thể hiểu là hiệp lễ) - (xem Lk 13:25-27). 

     Hơn thế nữa, chúng ta còn cần phải: 1- cương quyết chống lại các chước cám dỗ, 2- phải chọn những gì trọn lành hơn là những gì dễ chịu thoải mái, và 3- phải chịu đựng mọi trái ý xẩy đến cho mình nữa v.v., mới chứng tỏ chúng ta quả thực tin có đời sau và tìm kiếm những gì chân thật và hoàn hảo bất diệt, và chúng ta quả thực tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài trước hết và trên hết mọi sự. 

     Giả sử Chúa cho các linh hồn dưới hỏa ngục được trở về trần gian nhưng phải chịu khổ gấp trăm ngàn lần hơn ở dưới hỏa ngục và liên lỉ suốt cả nghìn năm như thế thì họ có sẵn sàng trở lại trần gian hay chăng? Theo tôi, chắc chắn họ sẽ vui mừng hết sức vì biết rằng cho dù có khổ đến mấy đi nữa nhưng họ vẫn còn hy vọng được cứu rỗi và nắm chắc được phần rỗi của mình.  

     Và giả sử Chúa cho cả các thánh trên trời trở lại trần gian, một chuyện không bao giờ xẩy ra, như trường hợp các linh hồn đã muôn đời hư đi trong hỏa ngục, nhưng nếu được phép, theo tôi, các thánh cũng chấp nhận liền, không phải vì thiên đàng không đủ cho các ngài, mà là vì các ngài tự mình vẫn cảm thấy mình kính mến Chúa chưa đủ Đấng vô cùng toàn thiện chí ái, nên được dịp là các ngài lợi dụng để yêu Chúa hơn bao nhiêu có thể, nhất là bằng những hy sinh đau khổ chỉ ở trên thế gian này mới có.

     Thế thì:

     1- Về thời gian: Tại sao chúng ta lại phung phí thời gian từng giây từng phút qua đi không bao giờ trở lại ở trên trần gian này với những thứ phù du chứ! Thời gian sống trên trần gian này quá ư là ngắn ngủi (hầu như là hư không) so với cõi đời đời, nhưng phải nói là nó quí "vô cùng", vì chỉ một tíc tắc cuối đời thôi của cuộc sống trần gian, chúng ta một là được Chúa hai là mất Chúa đời đời kiếp kiếp?  

     Nếu chúng ta biết lợi dụng thời gian mau qua ngắn ngủi trên đời này thì chúng ta chẳng những có thể biến mỗi ngày từ 24 tiếng thành 36 tiếng hay 48 tiếng, mà còn biến thời gian thành vĩnh cửu nữa, nhờ tinh thần sống siêu nhiên của chúng ta. Thật vậy, với sức tự nhiên mỗi ngày chúng ta chỉ làm được một số việc giới hạn nào đó, nhưng với lòng yêu mến Chúa, chúng ta có thể làm gấp đôi như vậy, thì không phải một ngày đã trở thành 2 ngày rồi hay sao, chỉ nhờ lòng yêu mến Chúa của chúng ta. Chưa hết, nếu chúng ta chỉ tìm ý Chúa và làm trọn ý Chúa trong mọi sự, thì chúng ta quả thực đã sống đời đời ngay trong thời gian và ngay trên trần gian này rồi vậy. Bởi vì: "Thế gian cùng với những quyến rũ của nó đang qua đi, nhưng ai làm theo ý muốn của Thiên Chúa sẽ tồn tại muôn đời" (1Jn 2:17).

     2- Về đau khổ: Tại sao chúng ta lại không chấp nhận tất cả những đau khổ, so với vinh quang bất diệt đời sau hay với hình phạt muôn đời trong hỏa ngục, thì chẳng là gì trên trần gian mau qua tạm gửi này, những đau khổ chẳng là gì đó lại có thể chẳng những đền bù tội lỗi của chúng ta, mà còn được thông hiệp với cuộc khổ nạn và tử giá vô cùng quí báu của Chúa Kitô cho phần rỗi "những linh hồn cần đến Lòng Thương Xót Chúa hơn", nhất là được dịp chịu đựng để tỏ lòng kính mến hơn nữa Đấng toàn ái chí tôn đã vô cùng yêu thương từng con người được Ngài dựng nên theo hình ảnh thần linh và tương tự như Ngài, đến độ đã trở thành đáng thương hơn cả đối tượng đáng thương của Ngài?    

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL