SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 

M
ùa Thường Niên Tuần V Năm C (Chúa Nhật) và Năm Lẻ (trong tuần)


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




 

Chúa Nhật


Lời Chúa


 

Bài Ðọc I: Is 6, 1-2a, 3-8

"Này tôi đây, xin hãy sai tôi".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Năm vua Ozias băng hà, tôi nhìn thấy Chúa ngự trên ngai cao, và đuôi áo của Người bao phủ đền thờ. Các Thần Sốt Mến đứng trước mặt Người, và luân phiên tung hô rằng: "Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, toàn thể địa cầu đầy vinh quang Chúa". Các nền nhà đều rung chuyển trước tiếng tung hô, và nhà cửa đều đầy khói.

Lúc bấy giờ tôi mới nói: "Vô phúc cho tôi! Tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn, tôi ở giữa một dân tộc mà lưỡi họ đều nhơ nhớp, mắt tôi đã trông thấy Ðức Vua, Người là Chúa các đạo binh". Nhưng lúc đó có một trong các Thần Sốt Mến bay đến tôi, tay cầm cục than cháy đỏ mà ngài đã dùng cặp lửa gắp ở bàn thờ. Ngài đặt than lửa vào miệng tôi và nói: "Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi của ngươi được xoá bỏ, và tội của ngươi được thứ tha". Và tôi nghe tiếng Chúa phán bảo: "Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho chúng ta?" Tôi liền thưa: "Này con đây, xin hãy sai con".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 137, 1-2a. 2bc-3.4-5. 7c-8

Ðáp: Lạy Chúa, trước mặt các thiên thần, con đàn ca mừng Chúa (c. 1c).

Xướng: 1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, vì Chúa đã nghe lời miệng con xin; trước mặt các thiên thần, con đàn ca mừng Chúa, con sấp mình thờ lạy bên thánh điện Ngài. - Ðáp.

2) Và con sẽ ca tụng uy danh Chúa, vì lòng nhân hậu và trung thành của Chúa. Khi con kêu cầu, Chúa nhậm lời con, Chúa đã ban cho tâm hồn con nhiều sức mạnh. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, các vua địa cầu sẽ ca ngợi Chúa, khi họ nghe những lời miệng Chúa phán ra; và họ sẽ ca ngợi đường lối của Chúa: "Thực, vinh quang của Chúa lớn lao!" - Ðáp.

4) Tay hữu Chúa khiến con được sống an lành. Chúa sẽ hoàn tất cho con những điều đã khởi sự. Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời, xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Ngài. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Cr 15, 1-11 (bài dài)

"Chúa hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng mà tôi đã rao giảng cho anh em, và anh em đã lãnh nhận và đang tin theo, nhờ đó anh em được cứu độ, nếu anh em tuân giữ lời lẽ tôi đã rao giảng cho anh em, bằng không anh em đã tin cách vô ích. Tôi đã rao truyền cho anh em trước tiên điều mà chính tôi đã nhận lãnh: đó là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng theo như lời Thánh Kinh. Người được mai táng và ngày thứ ba Người đã sống lại đúng theo như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với mười một vị. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em trong một lúc; nhiều người trong số anh em đó hãy còn sống tới nay, nhưng có vài người đã chết. Thế rồi Người hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ. Sau cùng, Người cũng hiện ra với chính tôi như với đứa con đẻ non. Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ, và không xứng đáng được gọi là tông đồ, vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng nay tôi là người thế nào, là nhờ ơn của Thiên Chúa, và ơn của Người không vô ích nơi tôi, nhưng tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn tất cả các Ðấng: song không phải tôi, nhưng là ơn của Thiên Chúa ở với tôi. Dù tôi, dù là các Ðấng, chúng tôi đều rao giảng như thế cả, và anh em cũng đã tin như vậy.

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc đọc bài vắn này: 1 Cr 15, 3-8. 11

"Chúa hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, tôi đã rao truyền cho anh em trước tiên điều mà chính tôi đã nhận lãnh: đó là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng theo như lời Thánh Kinh. Người được mai táng và ngày thứ ba Người đã sống lại đúng theo như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với mười một vị. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em trong một lúc; nhiều người trong số anh em đó hãy còn sống tới nay, nhưng có vài người đã chết. Thế rồi Người hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ. Sau cùng, Người cũng hiện ra với chính tôi như với đứa con đẻ non. Dù tôi, dù là các Ðấng, chúng tôi đều rao giảng như thế cả, và anh em cũng đã tin như vậy.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con lắng nghe lời Con của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 5, 1-11

"Các ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, dân chúng chen nhau lại gần Ðức Giêsu để nghe lời Thiên Chúa, lúc đó Người đứng ở bờ hồ Giênêsarét. Người trông thấy hai chiếc thuyền đậu gần bờ; những người đánh cá đã ra khỏi thuyền và họ đang giặt lưới. Người xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông đưa ra khỏi bờ một chút. Rồi Người ngồi trên thuyền, giảng dạy dân chúng. Vừa giảng xong, Người bảo ông Simon rằng: "Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu, và thả lưới bắt cá". Ông Simon thưa Người rằng: "Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới". Các ông đã thả lưới và bắt được rất nhiều cá; lưới các ông hầu như bị rách. Bấy giờ các ông làm hiệu cho các bạn đồng nghiệp ở thuyền bên cạnh đến giúp đỡ các ông. Những người này tới, họ đổ cá đầy hai chiếc thuyền, đến nỗi những thuyền chở nặng gần chìm.

Thấy thế, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi". Ông kinh ngạc và tất cả mọi người ở đó với ông cũng kinh ngạc trước mẻ cá mà các ông vừa mới bắt được; cả ông Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, bạn đồng nghiệp với ông Simon cũng thế. Nhưng Chúa Giêsu phán bảo ông Simon rằng: "Ðừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta". Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Lk 5, 1-11


Suy niệm

 

Nếu phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật IV Thường Niên tuần trước liên quan đến tác động thần linh của Thiên Chúa trong việc tuyển chọn các vị ngôn sứ của Ngài, thành phần được Ngài thánh hiến và sai đi thực hiện một sứ vụ đầy cam go thử thách cho bản thân của họ, thì phụng vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật V Thường Niên hôm nay lại liên quan đến đáp ứng thần linh về phía thành phần ngôn sứ được Thiên Chúa tuyển chọn, như việc đáp ứng thần linh của Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1, của Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại trong Bài Đọc 2, và của Viên Thợ Đánh Cá Simon trong Bài Phúc Âm.

 

Trước hết là đáp ứng thần linh của Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1, chúng ta thấy được thuật lại như sau:

 

"'Vô phúc cho tôi! Tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn, tôi ở giữa một dân tộc mà lưỡi họ đều nhơ nhớp, mắt tôi đã trông thấy Đức Vua, Người là Chúa các đạo binh'. Nhưng lúc đó có một trong các Thần Sốt Mến bay đến tôi, tay cầm cục than cháy đỏ mà ngài đã dùng cặp lửa gắp ở bàn thờ. Ngài đặt than lửa vào miệng tôi và nói: 'Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi của ngươi được xoá bỏ, và tội của ngươi được thứ tha'. Và tôi nghe tiếng Chúa phán bảo: 'Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho chúng ta?' Tôi liền thưa: 'Này con đây, xin hãy sai con'".

Phải, vị ngôn sứ này, thuộc bộ 4 vị tiên tri lớn trong số 16 vị và so với 12 vị được xếp loại nhỏ, trước hết đã nhận biết mình trước nhan Chúa: "lưỡi tôi nhơ bẩn", và vì thế, miệng lưỡi sẽ được sử dụng để truyền đạt sứ điệp của Chúa, sự thật về Chúa, lời nói của Chúa, đã được Thiên Chúa thanh tẩy bằng "cục than cháy đỏ" "đặt vào miệng" của ngài và "đã chạm đến lưỡi" của ngài, nhờ đó tội của ngài đã "được thứ tha" và lỗi của ngài đã "được xóa bỏ". Để rồi, như đã được thánh hiến cho Thiên Chúa, Đấng lên tiếng kêu mời trống trống: "Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho chúng ta?" ngài đã dám đáp ứng lập tức: "Này con đây, xin hãy sai con".

 

Sau nữa là đáp ứng thần linh của vị Tông Đồ Phaolô, như được chính ngài bày tỏ trong Thứ Thứ Nhất gửi Giáo đoàn Corintô ở Bài Đọc 2 hôm nay như sau:

 

"Tôi đã rao truyền cho anh em trước tiên điều mà chính tôi đã nhận lãnh: đó là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng theo như lời Thánh Kinh. Người được mai táng và ngày thứ ba Người đã sống lại đúng theo như lời Thánh Kinh... Sau cùng, Người cũng hiện ra với chính tôi như với đứa con đẻ non. Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ, và không xứng đáng được gọi là tông đồ, vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng nay tôi là người thế nào, là nhờ ơn của Thiên Chúa, và ơn của Người không vô ích nơi tôi, nhưng tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn tất cả các Đấng: song không phải tôi, nhưng là ơn của Thiên Chúa ở với tôi".

 

Trong đoạn thư này, Thánh Phaolô chẳng những khẳng định sứ điệp của ngài hay sứ điệp được ngài rao giảng là những gì hoàn toàn theo đúng truyền thống và hợp với Thánh Kinh, mà còn cho biết thân phận quá khứ bất xứng của ngài với vai trò làm tông đồ để loan truyền sứ điệp ấy, nhưng vì thế và nhờ đó mà ngài cũng đã cảm nhận được hồng ân được tuyển chọn của mình, nên ngài đã làm hết sức để hoàn thành ơn gọi và sứ vụ thừa sai của mình, cho dù có phải gian nan khốn khó hơn các vị tông đồ có cùng một ơn gọi và sứ vụ thừa sai như ngài chăng nữa

 

Sau cùng là đáp ứng thần linh của tay thuyền chài Simon, được Phúc Âm của Thánh ký hôm nay thuật lại như thế này:


"Vừa giảng xong, Người bảo ông Simon rằng: 'Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu, và thả lưới bắt cá'. Ông Simon thưa Người rằng: 'Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới'. Các ông đã thả lưới và bắt được rất nhiều cá; lưới các ông hầu như bị rách. Bấy giờ các ông làm hiệu cho các bạn đồng nghiệp ở thuyền bên cạnh đến giúp đỡ các ông. Những người này tới, họ đổ cá đầy hai chiếc thuyền, đến nỗi những thuyền chở nặng gần chìm. Thấy thế, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: 'Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi'. Ông kinh ngạc và tất cả mọi người ở đó với ông cũng kinh ngạc trước mẻ cá mà các ông vừa mới bắt được; cả ông Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, bạn đồng nghiệp với ông Simon cũng thế. Nhưng Chúa Giêsu phán bảo ông Simon rằng: 'Đừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta'. Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người".


Trong đoạn Phúc Âm trên đây, vì đã có ý chọn chàng Simon hành nghề đánh cá này thành tay chuyên nghiệp bắt cá người sau này của mình và cho mình, Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho chàng để chàng có thể nhờ đó tin tưởng Người, theo Người và trở thành tông đồ của Người, một vị tông đồ chính yếu sau này còn được Người trao quyền lãnh đạo tông đồ đoàn và toàn thể đoàn chiên của Người nữa (xem Mathêu 16:18; Gioan 21:16-18). 


Thật vậy, Chúa Giêsu đã chinh phục chàng thanh niên đánh cá quê mùa chất phác mộc mạc rất chân thành và đầy nhiệt huyết này, bằng cách tỏ mình ra cho chàng, khi bảo chàng rằng "Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu, và thả lưới bắt cá", một điều hoàn toàn phản lại với kinh nghiệm nghề nghiệp của chàng, đúng hơn là vượt lên trên (hơn là phản nghịch với) kinh nghiệm tự nhiên đánh cá của chàng, nhưng chàng vẫn ngoan ngoãn sáng suốt tuân theo như một kẻ mù quáng vì chàng biết vị bảo chàng như vậy không phải là tay chuyên đánh cá như chàng: "Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới".


Mẻ cá lạ mà chàng bắt được sau đó "đầy hai chiếc thuyền, đến nỗi những thuyền chở nặng gần chìm" đã chẳng những khiến chàng "kinh ngạc và tất cả mọi người ở đó với ông cũng kinh ngạc trước mẻ cá mà các ông vừa mới bắt được", mà còn khiến chàng Simon này cảm thấy được lập tức thân phận bất xứng của chàng trước Đấng thần linh đang hiện diện ngay trên chiếc thuyền đánh cá của chàng, Đấng đã chỉ điểm cho chàng nơi đánh cá mà chàng cũng đã vất vả thâu đêm mà chẳng được gì: "Thấy thế, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: 'Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi'".


Thế nhưng, chính thái độ mau mắn tuân phục của chàng và thái độ khiêm hạ biết mình của chàng lại càng làm cho chàng qualify, càng làm cho chàng trở nên xứng đáng được Chúa Giêsu tuyển chọn chàng một cách đặc biệt để làm thừa sai của Người và cho Người, thay Người chăn dắt cả chiên con lẫn chiên mẹ của người là toàn thể Giáo Hội của Người sau này (xem Mathêu 16:18; Gioan 21:16-18): "Nhưng Chúa Giêsu phán bảo ông Simon rằng: 'Đừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta'. Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người".


Cả 3 trường hợp đáp ứng thần linh trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay, trường hợp đáp ứng thần linh của Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1, của Thánh Phaolo trong Bài Đọc 2 và của Thánh Phêrô trong Bài Phúc Âm, đều là 1- những đáp ứng thần linh cho tác động thần linh của chính Đấng kêu gọi các vị làm thừa sai của Ngài, và 2- đều được tác động thần linh thánh hóa trước cho các vị xứng đáng với vai trò thừa tác của các vị, nhờ đó các vị có thể hoàn thành sứ vụ của các vị như lòng mong muốn của Ngài. 


Trong cuộc đời Kitô hữu của chúng ta là thành phần môn đệ của Chúa Kitô cũng thế. Kinh nghiệm sống đạo cho thấy không bao giờ có thể thiếu 2 yếu tố chính yếu bất khả phân ly cho bất cứ một ơn gọi hay sứ vụ nào, đó là tác động thần linh về phía Thiên Chúa và đáp ứng thần linh về phía loài người chúng ta.


Tác động thần linh bao giờ cũng đi trước và đáp ứng thần linh xẩy ra sau đó và theo đó. Tác động thần linh trong cuộc đời Kitô hữu của chúng ta có thể là một ơn soi động nào đó, như đã xẩy ra cho các Thánh sáng lập dòng tu trong Giáo Hội từ trước đến nay; hay là một biến cố bất lợi nào đó xẩy ra, như thất tình hay bị tình phụ, hoặc bị thua bại trên đường đời v.v. khiến một số người trong chúng ta đã từ bỏ trần gian theo Chúa trong đời sống linh mục hay đời tận hiến tu dòng.


Thực tế cho thấy những tác động thần linh khác nhau xẩy ra cho từng người như thế, nhất là cho một số được đặc biệt kêu gọi để thi hành một sứ vụ quan trọng nào đó, như giữ một chức vụ nào đó trong Giáo Hội, không phải lúc nào cũng nhận được tương xứng những đáp ứng thần linh nơi kẻ được chọn ngay từ ban đầu, do họ ngần ngại dấn thân, hay giữa đường đứt gánh, bởi sứ vụ của họ đã trở thành gánh nặng cho họ đến độ họ không thể vác nổi nữa, do họ không biết giữ sức và dưỡng sức nên đã bị kiệt sức, hay bởi vì họ lạm dụng chức vụ cho đến khi chức vụ thay vì là mối lợi của họ hoan hưởng đã trở thành mối hại cho họ phải chịu, hoặc bởi vì họ thấy được một cái gì đó hấp dẫn hơn và giá trị hơn cả chức vụ hiện có của họ nên họ sẵn sàng bỏ con tép bắt con tôm v.v.


Bởi thế, tác động thần linh ban đầu nơi những tâm hồn được trời cao đặc biệt kêu gọi chẳng khác gì như hạt giống được gieo vào lòng của họ và gieo xuống cuộc đời của họ, và có trổ sinh hoa trái hay chăng, ở giai đoạn đầu, bao giờ cũng vẫn phải lệ thuộc vào đáp ứng thần linh của họ; có thể tác động thần linh của Chúa gặp phải đáp ứng thần linh lãnh đạm như vệ đường, hay nông cạn như sỏi đá, hoặc hỗn tạp như bụi gai, chứ không phải là một thái độ đáp ứng thần linh sẵn sàng như những mảnh đất tốt tiêu biểu là Tiên Tri Isaia, Tông Đồ Phaolô và Chàng Đánh Cá Simon trong phụng vụ lời Chúa hôm nay, những tâm hồn nhờ đó mới có được những cảm thức hân hoan chúc tụng như ở Bài Đáp Ca hôm nay:


1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, vì Chúa đã nghe lời miệng con xin; trước mặt các thiên thần, con đàn ca mừng Chúa, con sấp mình thờ lạy bên thánh điện Ngài. 


2) Và con sẽ ca tụng uy danh Chúa, vì lòng nhân hậu và trung thành của Chúa. Khi con kêu cầu, Chúa nhậm lời con, Chúa đã ban cho tâm hồn con nhiều sức mạnh. 


3) Lạy Chúa, các vua địa cầu sẽ ca ngợi Chúa, khi họ nghe những lời miệng Chúa phán ra; và họ sẽ ca ngợi đường lối của Chúa: "Thực, vinh quang của Chúa lớn lao!" 


4) Tay hữu Chúa khiến con được sống an lành. Chúa sẽ hoàn tất cho con những điều đã khởi sự. Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời, xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Ngài. 

 



Thứ Hai


Lời Chúa


 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 1, 1-19

"Thiên Chúa phán: và xảy ra như vậy".

Trích sách Sáng Thế.

Từ nguyên thủy Thiên Chúa đã tạo thành trời đất. Ðất còn hoang vu trống rỗng, tối tăm bao trùm vực thẳm, và Thần trí Thiên Chúa bay sà trên mặt nước.

Thiên Chúa phán: "Hãy có ánh sáng". Và có ánh sáng. Thiên Chúa thấy ánh sáng tốt đẹp, Người phân rẽ ánh sáng khỏi tối tăm. Thiên Chúa gọi ánh sáng là ngày, tối tăm là đêm. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất.

Thiên Chúa phán: "Hãy có một vòm trời ở giữa nước, phân rẽ nước với nước", và Thiên Chúa làm nên vòm trời, và phân rẽ nước phía trên vòm trời với nước dưới vòm trời. Và xảy ra như vậy. Thiên Chúa gọi vòm đó là trời. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ hai.

Thiên Chúa phán: "Nước dưới trời hãy tụ tại một nơi, để lộ ra chỗ khô cạn. Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ khô cạn là đất, và Người gọi khối nước là biển. Thiên Chúa thấy tốt đẹp. Và Thiên Chúa phán: "Ðất hãy trổ sinh thảo mộc xanh tươi mang hạt giống, và cây ăn trái phát sinh trái theo giống nó, và trong trái có hạt giống, trên mặt đất. Và đã xảy ra như vậy. Tức thì đất sản xuất thảo mộc xanh tươi mang hạt theo giống nó, và cây phát sinh trái trong có hạt tuỳ theo loại nó. Và Thiên Chúa thấy nó tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ ba.

Thiên Chúa còn phán: "Hãy có những vật sáng trên vòm trời và hãy phân chia ngày và đêm, và trở thành dấu chỉ thời gian, ngày và năm tháng, để soi sáng trên vòm trời và giãi sáng mặt đất". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa đã làm nên hai vầng sáng lớn: Vầng sáng lớn hơn làm chủ ban ngày, và vầng sáng nhỏ hơn làm chủ ban đêm; và Ngài cũng làm nên các tinh tú. Thiên Chúa đặt chúng trên vòm trời để soi sáng trên mặt đất, và làm chủ ngày đêm, và phân chia ánh sáng với tối tăm. Thiên Chúa thấy tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ tư.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 103, 1-2a. 5-6. 10 và 12. 24 và 35c

Ðáp: Nguyện cho Chúa hân hoan vì công cuộc của Chúa (c. 31b).

Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa. Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, Ngài rất ư vĩ đại! Ngài mặc lấy oai nghiêm huy hoàng, ánh sáng choàng thân như mang áo khoác. - Ðáp.

2) Ngài dựng vững địa cầu trên nền tảng, cho tới muôn đời nó chẳng lung lay. Ngài dùng biển che phủ nó như áo che thân, trên ngọn núi non muôn ngàn nước đọng. - Ðáp.

3) Ngài lệnh cho mạch nước tràn ra thành suối, chúng chảy rì rào giữa miền non núi. Bên cạnh chúng, chim trời cư ngụ, từ trong ngành cây vang ra tiếng hót. - Ðáp.

4) Lạy Chúa, thực nhiều thay công cuộc của Ngài! Ngài đã tạo thành vạn vật cách khôn ngoan, địa cầu đầy dẫy loài thụ tạo của Ngài. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa. - Ðáp.

  

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 6, 53-56

"Tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ qua biển rồi, các ngài tới miền Giênêsarét và ghé bến. Các ngài lên khỏi thuyền, tức thì người ta nhận ra Người, họ liền rảo chạy khắp miền, và nghe tin Người ở đâu thì khiêng những người đau yếu nằm trên chõng đến đó. Bất cứ Người vào làng trại hay đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng và xin Người cho họ ít là được chạm tới gấu áo Người, và tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh.

Ðó là lời Chúa.

 

Related image

 


   

Suy niệm

 

 

 

    "Tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh" - "qua một buổi chiều và một buổi sáng"


Hôm nay, Thứ Hai Tuần V Thường Niên, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh kéo dài tới Thứ Tư Lễ Tro mở đầu Mùa Chay hằng năm, lại càng rõ nét hơn bao giờ nơi Bài Phúc Âm hôm nay, một bài phúc âm được Thánh ký Marco thuật lại về quyền năng chữa lành của Người như sau:

"Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ qua biển rồi, các ngài tới miền Giênêsarét và ghé bến. Các ngài lên khỏi thuyền, tức thì người ta nhận ra Người, họ liền rảo chạy khắp miền, và nghe tin Người ở đâu thì khiêng những người đau yếu nằm trên chõng đến đó. Bất cứ Người vào làng trại hay đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng và xin Người cho họ ít là được chạm tới gấu áo Người, và tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh".

Thật vậy, cảnh tượng được Bài Phúc Âm hôm nay trình thuật đã làm cho chúng ta thấy được hình ảnh đáng thương của thành phần dân chúng đau khổ bởi tật nguyền bệnh nạn cần được chữa lành luôn sống trong hy vọng, đợi chờ và tìm kiếm Đấng Cứu Tinh của mình: "nghe tin Người ở đâu thì khiêng những người đau yếu nằm trên chõng đến đó. Bất cứ Người vào làng trại hay đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng". 

Bài Phúc Âm hôm nay còn cho thấy cả hình ảnh chính yếu về một Đấng Cứu Thế đầy quyền lực, đến độ Người không cần trực tiếp giơ tay đụng đến bất cứ một bệnh nhân hay một người bị tật nguyền nào, thế mà họ vẫn được chữa lành, chỉ cần họ tin tưởng sờ đến gấu áo của Người (chứ không phải hay không cần chạm đến thân xác của Người) là đủ: "tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh".

Hiện tượng chữa lành hay được chữa lành kiểu mới, hoàn toàn không theo truyền thống này, xuất phát từ sáng kiến và hành động đầy đức tin của người đàn bà bị bệnh loạn huyết 12 năm ở bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước, một người đàn bà đã được Chúa Giêsu có ý công khai hóa việc bà làm giữa một đám thật đông đang chen nhau theo Người lúc ấy. Biết được cái mẹo vặt mà tuyệt này, dân chúng bảo nhau làm, vừa giản tiện vừa mau chóng nữa, giúp cho chính Chúa Giêsu cũng có thể nhờ đó chữa lành nhiều người trong một thời gian ngắn. 

Hiện tượng chữa lành như trong bài Phúc Âm hôm nay còn xẩy ra cả ở nơi Thánh Tông Đồ Phêrô nữa, như Sách Tông Vụ thuật lại ở đoạn 5 câu 15-16, một vị thánh có một thần lực đến độ cả đến bóng của ngài đi ngang qua phủ trên ai thì người ấy được chữa lành, một thần lực bề ngoài có thể hơn cả chính bản thân Chúa Kitô, Đấng đã khẳng định trước với các môn đệ ở Bữa Tiệc Ly rằng "ai tin vào Thày ... họ sẽ làm được những việc lớn lao hơn những gì Thày làm, vì Thày về cùng Cha(Gioan 14:12).

Đúng thế, cho dù thành phần tật nguyện bệnh hoạn không cần sờ đến gấu áo của Thánh Phêrô, như gấu áo của Chúa Kitô, mà chỉ cần được bóng của ngài thoáng qua thôi đã được chữa lành, thì thần lực xuất phát từ ngài cũng không phải tự ngài và của ngài, mà là bởi Chúa Kitô ở trong ngài, như cây nho thông nhựa sống của mình cho cành nho, nhờ đó và vì thế chỉ có cành nho (là các môn đệ của Người) mới sinh trái và mới có thể sinh hoa trái, chứ hoa trái không bao giờ xuất phát từ chính thân nho (là Chúa Kitô).

Vấn đề chính yếu ở đây có thể chứng thực Đức Giêsu Nazarét là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" là thần lực của Người và là thần lực từ Người xuất phát, ngoài ra không bao giờ có một con người thuần túy nào ở trên đời này như Người, có thể chữa lành cho con người ta, không phải chỉ bằng cách trực tiếp đặt tay, đụng chạm đến con người cần được chữa lành, mà chỉ cần bằng gấu áo của Người, thậm chí còn qua cả thành phần môn đệ trung gian của Người sau này nữa.

Cách thức chữa lành bằng gấu áo và qua trung gian môn đệ như thế là hình bóng tiên báo về bản chất thần linh cùng tác dụng thần linh nơi các Bí Tích của Chúa Giêsu, những khí cụ thần linh được Người thiết lập để tiếp tục hiện diện với Giáo Hội cho đến tận thế, và qua thừa tác vụ của Giáo Hội trong việc cử hành cùng ban phát các Bí Tích Thánh, Người tiếp tục chữa lành cho chung nhân loại và riêng đàn chiên của Người, đến độ chính Giáo Hội đã trở thành bí tích cứu độ của Người và cho Người (xem Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 1).

Thế nhưng, về phần người được chữa lành hay muốn được chữa lành thì vấn đề quan trọng và then chốt đối với họ là tin tưởng. Bằng không, cho dù Chúa Kitô có thần lực đến đâu chăng nữa, Người cũng chẳng có tác dụng thần linh gì nơi họ, dù họ có tật nguyện bệnh nạn về cả phần xác lẫn phần hồn đáng thương đến đâu chăng nữa.

Như thế không phải là thần lực của Chúa Giêsu có giới hạn và bị bất lực trước những ai không chấp nhận Người, và do đó Người không làm gì được họ, cho dù Người hết sức muốn thông ban và cứu độ, trái lại, chính đương sự tự vô hiệu hóa thần lực cứu độ vô cùng linh hiệu của Người nơi bản thân của họ, và chính bản thân họ cũng chứng thực là thần lực chữa lành của Người chỉ giành cho người nào xứng đáng lãnh nhận mà thôi, một thứ vô cùng quí báu của Người như thế không thể nào lấy quẳng cho loài chó hay loài heo dơ bẩn (xem Mathêu 7:6).

"Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày nhất..., thứ hai..., thứ ba..., thứ tư". Đó là câu Thánh Kinh của Sách Khởi Nguyên ở Bài Đọc 1 hôm nay, một câu cho thấy rất thích hợp với sự kiện Chúa Giêsu chữa lành cho các bệnh nhân bằng thần lực của Người trong Bài Phúc Âm hôm nay. Tại sao theo quan niệm và cảm nhận chung của nhân gian từ trước đến nay thì một ngày được bắt đầu từ sáng đến tối, đằng này 6 ngày tạo dựng của Thiên Chúa lại hoàn toàn ngược hẳn, từ chiều tối tới sáng mai?

Đúng thế, đó là định luật tạo dựng của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên mọi sự từ mầm mống ("chiều") chứ không phải vừa tạo dựng nên tất cả mọi sự đã hoàn toàn nguyên vẹn hình hài tầm vóc của mình, đã toàn hảo ("sáng"), và chỉ từ mầm mống chưa thành toàn ấy hay còn bất toàn ấy mới phát triển cho tới khi thành toàn đúng như tầm vóc theo từng giống loại riêng biệt của mình, đúng như ý định và dự án tạo dựng của Thiên Chúa Hóa Công vô cùng thiện hảo, khôn ngoan và toàn năng, Đấng, qua việc quan phòng thần linh của mình, tiếp tục ở với tạo vật của mình cho tới khi tất cả những gì Ngài muốn được thể hiện nơi chúng nói chung và loài người nói riêng.

Bởi vậy mà chung tạo vật và riêng loài người được dựng nên để Thiên Chúa tỏ mình ra, và chúng càng bất toàn thì lại càng sáng tỏ Vị Thiên Chúa toàn thiện. Sự kiện Chúa Giêsu chữa lành cho đủ mọi thứ bệnh nhân bằng thần lực cứu độ của Người là một chứng thực cho dự án thần linh tạo dựng và quan phòng của Thiên Chúa theo chiều hướng: "Qua một buổi chiều và một buổi sáng": "Đó là ngày Chúa đã làm nên; chúng ta hãy hoan hỉ và mừng vui về ngày ấy" . (Thánh Vịnh 118:24).


 

Ngày 10 tháng 2

Thánh Cô-lát-ti-ca, trinh nữ

lễ nhớ bắt buộc

Thánh nữ là em của thánh Biển-đức, nhà lập luật cho các đan sĩ Tây phương. Thánh nữ chào đời ở Nuốc-xi-a, I-ta-li-a, quãng năm 480. Thánh nữ sống đời thánh hiến ở chân núi Cát-xi-nô, nơi thánh Biển-đức đã lập ra một đan viện nổi tiếng. Thánh nữ qua đời không bao lâu trước anh người (+ năm 547). Chính vì thế, các nữ đan sĩ Biển-đức tôn kính thánh nữ Cô-lát-ti-ca như người mẹ tinh thần của mình.



Tay trinh nữ cầm đèn sáng chói,
Nàng bước vào tiệc cưới thiên thu,
Chính là hôn lễ Đức Vua,
Nước Trời hoan hỷ tung hô chúc mừng.

Nàng dự yến trong cung danh dự,
Sánh duyên cùng Thiên Tử quang vinh,
Chữ trinh xe kết chữ tình,
Nết na đức hạnh công trình bao năm.

Xin chỉ dạy cách ăn thói ở,
Lấy hồng ân che chở phù trì,
Mưu thù cho dẫu tinh vi,
Quyết tâm chống lại, gian nguy chẳng sờn.

Xin Đức Mẹ là gương trinh thục
Hằng cầu thay nguyện giúp chúng nhân,
Ơn thiêng Thánh Tử tuôn tràn,
Tha hương lãnh nhận muôn vàn đỡ nâng.

Lời vinh tụng, quỳ dâng lên Chúa
Đã ban cho trinh nữ thành công,
Triều thần thiên quốc một lòng,
Nghìn thu ca ngợi hát mừng Thánh Danh.

 

Người yêu mến hơn thì mạnh thế hơn

Phụng Vụ Giờ Kinh Sách ngày 10/2 - Bài đọc 2

Trích sách Đối thoại của thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, giáo hoàng.

Cô-lát-ti-ca là em ruột của thánh Biển-đức ; bà đã sống tận hiến cho Chúa toàn năng từ thời thơ ấu. Bà quen đến thăm anh, mỗi năm một lần. Người của Thiên Chúa đi xuống gặp em ở bên ngoài cổng cách một quãng không xa trong phần đất thuộc đan viện.

Một ngày kia, theo thông lệ, bà đến và người anh khả kính cùng với các môn đệ đi xuống gặp bà. Cả ngày họ cùng nhau ca tụng Thiên Chúa và nói chuyện đạo đức. Khi màn đêm buông xuống, họ dùng bữa với nhau.

Đang lúc còn mải mê nói chuyện đạo đức mà trời mỗi lúc một khuya, thì nữ đan sĩ xin với anh rằng : “Em xin anh đừng bỏ em đêm nay ; chúng ta hãy trao đổi với nhau cho đến sáng về những niềm vui của đời sống trên trời.” Người anh trả lời : “Em ơi, em nói gì vậy ? Anh đâu có thể ở lại ngoài tu phòng.”

Nghe anh từ chối, nữ đan sĩ đặt hai bàn tay lên bàn, các ngón đan vào nhau, rồi gục đầu xuống trên hai tay cầu xin Chúa toàn năng. Khi bà ngẩng đầu lên thì sấm chớp ầm ầm nổi dậy và một cơn mưa như trút nước đổ xuống, khiến cả cha Biển-đức khả kính lẫn các anh em tháp tùng người không sao nhấc chân ra khỏi ngưỡng cửa nơi họ đang đứng.

Bấy giờ người của Thiên Chúa buồn bã bắt đầu than trách rằng : “Em ơi, xin Thiên Chúa toàn năng tha thứ cho em, em đã làm gì vậy ?” Bà trả lời : “Này, em đã xin anh mà anh không chịu nghe, thì em đã xin Thiên Chúa của em và Người đã nghe. Bây giờ nếu anh đi được thì cứ đi, cứ để em lại đây mà về đan viện.”

Như thế là người đã không tự ý ở lại, nhưng bị cầm chân tại chỗ ngoài ý muốn, và cả hai thức suốt đêm, tha hồ trao đổi với nhau những chuyện về đời sống thiêng liêng.

Nếu thánh nữ mạnh thế hơn ông anh, thì đó không phải là chuyện lạ, vì như lời thánh Gio-an đã nói : Thiên Chúa là Tình Yêu. Bà mạnh thế hơn vì yêu mến nhiều hơn, thì đó quả là điều chí lý.

Ba ngày sau, khi người của Thiên Chúa đang ở trong tu phòng, ngước mắt lên thì thấy linh hồn em gái mình lìa khỏi xác vào thiên cung dưới hình chim bồ câu. Vui mừng vì em được vinh quang như thế, người hát thánh vịnh thánh ca tạ ơn Thiên Chúa toàn năng, rồi sai anh em đưa xác bà về đan viện đặt trong ngôi mộ người đã chuẩn bị cho chính mình.

Thế là nấm mồ cũng không thể ngăn cách được thân xác của những người vẫn một lòng một ý với nhau trong Thiên Chúa.

Xướng đápTv 132 (133),1

XKhi bà đan sĩ nài van Thiên Chúa đừng để cho anh bà lìa xa bà, thì

Đvì lòng yêu mến của bà, Chúa ban cho bà hơn cả điều bà đã mong ước.

XNgọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau !

Đvì lòng yêu mến của bà, Chúa ban cho bà hơn cả điều bà đã mong ước.

Lạy Chúa, hôm nay chúng con mừng kính thánh nữ Cô-lát-ti-ca, xin cho chúng con theo gương người để lại là hết lòng mến yêu phụng thờ Chúa và cảm nghiệm tình thương Chúa ngọt ngào. Chúng con cầu xin




Thánh Scholastica và Thánh Bênêđictô (Anh em sinh đôi)
Ðọc sách Khởi Nguyên trong bộ Thánh Kinh Cựu Ước, ít ra người ta thấy hai trường hợp anh em sinh đôi được diễn tả thật rõ ràng: Ngay từ thai nhi, hai anh em đã "lục ục" tranh giành với nhau. 

Trường hợp hai đứa con sinh đôi của bà Thamar: cậu anh vừa đưa tay ra ngoài và được bà đỡ cột sợi chỉ điều vào tay để đánh dấu đứa nào ra trước, liền bị thằng em " sinh sự" giằng co trong dạ mẹ; cậu anh đành phải rút tay vào, "đi chỗ khác chơi" có trật tự, "nhường lối" cho em ra ngắm ánh mặt trời trước! Tình cảnh đó có lẽ không khỏi gây đau lòng cho bà Thamar. Thật là " gươm con" thâu "lòng mẹ"!  

 

Trường hợp Esau và Giacóp mới "lủng củng" hơn nữa! Hai anh em thường xuyên "chí chóe" với nhau trong bụng mẹ, đến nỗi mặc dầu hiếm con, bà Rêbecca cũng phải than rên đau khổ và xin Ðấng Gia-vê can thiệp! Tới khi Esau vừa lọt lòng mẹ thì bị cậu em Giacóp nắm chặt gót chân.  Cũng may mà Esau đã được nhìn ánh mặt trời trước! Nhưng chưa hết, về sau, Esau phải bán quyền trưởng nam cho Giacóp chỉ vì một bát cháo đậu; rồi bị Giacóp cướp mất chúc lành của cha.  Sự kiện đã khiến Esau nổi cơn lôi đình, quyết tìm dịp giết em.  Trong khi đó, Giacóp phải cao bay xa chạy để trốn mặt anh.  Trước tình cảnh đó, bà Rebecca phải đau lòng xiết bao! Hai anh em sinh đôi Esau-Giacóp đã trở nên " gươm hai lưỡi" đâm thâu lòng bà Rêbecca! 

          

Thế nhưng, lịch sử cho thấy có những trường hợp trái ngược: Hai anh em thương nhau "ra rít" như bóng với hình, thậm chí còn có cùng một ý hướng, một mong ước, cùng dìu dắt nhau tiến tới trên đường thánh đức. Hai anh em thánh Beneđictô và Scholastica là một thí dụ điển hình.

           

Bênêđictô là anh, còn Scholastica là em gái.  Hai anh em sinh đôi năm 480 trong một gia đình đạo hạnh và giầu sang tại thành Nursia, nước Ý. Ngay từ nhỏ cô cậu đã được hưởng một nền giáo dục đạo đời thật chu đáo.  Tình huynh đệ giữa hai anh em ngày càng phát triển sâu xa. Họ thương nhau tha thiết, đồng thời biết thúc giục và giúp đỡ nhau tập tành các nhân đức Công Giáo.  Tuổi hoa niên của Bênêđictô và Scholastica nơi gia đình trôi êm như một giấc mộng đẹp.

           

Về sau, Bênêđictô được gửi học tại Rôma.  Trí thức cũng như nhân đức của chàng tiến không ngừng.  Trong khi đó Scholastica nhan sắc và đức hạnh lưu lại gia đình, đành tạm rời xa anh một thời gian.  Nàng chuyên chăm các việc trong nhà, thích thú cầu nguyện, và ưa đời trầm lặng, mặc dầu nàng sẵn có tâm hồn tươi vui và hoạt bát.

            

Danh tiếng nhân đức và nhan sắc của Scholastica được loan truyền mau lẹ tới các miền lân cận.  Nhiều chàng công tử giầu sang đã ngấp nghé muốn hỏi nàng làm vợ.  Nhưng Scholastica đã quyết dâng hiến đời mình cho Chúa.  Trong khi đó, Bênêđictô chuyên chăm việc học tại Rôma. chàng nghe thấy tiếng Chúa âm thầm gọi chàng cách mầu nhiệm... Cuối cùng chàng đã đáp  lại tiếng Ngài, bằng cách trốn vào hoang địa Subiacô cách Rôma khoảng 40 dặm để sống đời tịch liêu thân mật với Thiên Chúa. 

         

Sau nhiều năm sống khổ hạnh nơi hang Subiacô, tiếng thơm nhân đức của Bênêđictô truyền tụng khắp nơi.  Nhiều người tuốn đến xin làm môn đệ.  Bênêđictô giảng dạy,  làm phép lạ và lập nhiều tu viện.  Tu viện chính được xây cất tại núi Cassinô, cách Rôma 80 dặm. 

          

Trước tấm gương xa lìa vinh hoa phú quí để theo Chúa sống đời khổ hạnh của anh. Scholastica ước ao mãnh liệt được theo gương anh.  Nàng phân chia của cải cho người nghèo, rồi cùng với một tớ nữ tiến về núi Cassinô để xin Bênêđictô hướng dẫn trên đường  nhân đức.  Bênêđictô rất hài lòng về dự tính của em, và xây cho nàng một tu phòng không xa tu viện Cassinô là bao, đồng thời tự tay soạn luật cho em.          

 

Tiếng tăm nhân đức của Scholastica ngày càng lan rộng. Nhiều trinh nữ giã từ xa hoa trần thế, tụ họp quanh nàng để xin cùng chung lý tưởng hiến dâng cuộc đời phụng sự Chúa.  Ðể dung nạp những tâm hồn thiện chí này, Bênêđictô đã khỡi công xây dựng một đan viện cho các chị dòng Biển Ðức tương lai. 

          

Scholastica đương nhiên được coi như vị sáng lập, và là nữ đan viện trưởng  đầu tiên của chị em Biển Ðức; trong khi Bênêđictô vị sáng lập và là tu viện trưởng đầu tiên của dòng anh em Biển Ðức.  Hai anh em sinh đôi đã có cùng một ước mơ, một chí hướng, và một lý tưởng phụng sự Chúa trong đời tu trì trầm lặng và khổ hạnh.                   

Thật vậy, Thánh Scholastica là em gái thánh Bênêđictô, tổ phụ của những người sống đời khổ tu bên Tây phương. Chúng ta biết được chút ít về đời sống của thánh nữ là do cuốn Dialogue, tập hai, của thánh Grêgôriô cả, cuốn sách ghi lại đời sống thánh Bênêđictô và các phép lạ của ngài. Như anh của ngài, thánh nữ Scholastica đã sinh ra tại quận Sabina miền Nursia.

Khi thánh Bênêđictô thiết lập tu viện tại Montê Cassinô, Scholastica cùng với các trinh nữ quây quần bên ngài đã đến ở bên núi, lập thành tu viện Palumbariola, ngài đặt mình dưới sự hướng dẫn của anh, vì ngài biết rằng: không có ai có thể hướng dẫn các linh hồn về trời cách chắc chắn hơn.

Nhưng ngài không hề làm rộn anh mình và chỉ gặp anh mỗi năm một lần vào trước mùa chay, trong một trang trại của tu viện ở miền núi. Một nguyện đường đã được dựng nên tại đây để ghi nhớ những giây phút khôn tả, mà thánh Bênêđictô thông cho em mình ánh sáng thần linh ngài thụ lãnh được và dạy dỗ em mình đường trọn lành của tu sĩ trong thống hối và yêu thương.

Kể từ đó, hai anh em mỗi năm chỉ gặp nhau có một lần tại căn nhà ngoài nội vi tu viện, trước sự chứng kiến của các thầy đồng hành với Bênêđictô.  Thực ra, những lần gặp gỡ này là chỉ để đàm thoại về Chúa và những sự siêu nhiên.

        

Lần cuối cùng hai anh em được gặp nhau xẩy ra ba ngày  trước khi Scholastica giã từ cõi thế.  Hôm đó, sau khi đã đàm thoại lâu giờ... họ đã trải qua một ngày để khen ngợi Chúa và cầu xin hạnh phúc trên trời, bên ngoài khí trời tươi mát vì đã vào xuân, bầu trời trong sáng lạ thường, thánh Scholastica say sưa cảm nếm hương vị của câu chuyện đàm thoại trong khi màn đêm buông dần xuống... lúc đó thánh Scholastica nói với thánh Bênêđictô: - Anh ơi trời khuya rồi, làm sao anh về được. Thôi mình tiếp tục nói chuyện tới sáng về niềm vui cuộc sống trên trời đi.         

Thánh Bênêdictô trả lời: - Em nói chi, anh không thể nhận lời em được. Anh không thể qua đêm ở ngoài nhà dòng được đâu. Tới đây chúng ta đã biết được câu chuyện kết thúc ra sao theo những gì được Thánh Giáo Hoàng Gêgôriô thuật lại trong cuốn Đối Thoại của ngài (mà chúng ta nghe hay đọc trên đây trong phần phụng vụ giờ kinh sách ngày 10/2 hôm nay)     

Anh em giã biệt nhau được ba ngày thì Scholastica từ trần, hưởng thọ 60 tuổi.  Lúc đó, đang cầu nguyện trong phòng, Bênêđictô trông thấy linh hồn em xinh đẹp như chim bồ câu nhẹ nhàng bay về thiên quốc.  Sau khi dâng lời ca tụng Chúa, Bênêđictô liền sai các thầy rước xác Scholastica về tu viện Cassinô và táng trong chính ngôi mộ Bênêđictô đã chuẩn bị cho mình.   

        

Sau cái chết của em, Bênêđictô còn sống thêm 7 năm trong chay tịnh, hy sinh  và hãm mình... Sáu ngày trước khi chết, Ngài ra lệnh mở sẵn cửa mồ. Ngày cuối đời, sau khi lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa như của ăn đàng, Bênêđictô được các thầy giúp đứng dậy, Ngài giơ cao đôi tay lên trời cầu nguyện. Và trong tư thế đó, Ngài thở hơi cuối cùng.  Ngày hôm ấy hai tu sĩ Biển Ðức, Một ở cùng tu viện với ngài, một đang ở xa, được thị kiến cùng một điềm lạ như nhau: họ trông thấy một đường sáng thật huy hoàng trải dài từ tu viện lên bầu trời về phía đông.  Bên cạnh con đường sáng đó có một người dáng vẻ đạo mạo, y phục lộng lẫy.  Người này hỏi hai thầy rằng họ đang chiêm ngắm con đường của ai đó.  Sau khi họ thú thật không biết, người lạ trả lời: - Ðó là con đường mà Bênêđictô, bạn yêu quí của Chúa, đã lên trời.        

           

Bênêđictô qua đời năm 547, hưởng thọ 67 tuổi. 

          

Hai đứa con sinh đôi của bà Thamar đã khởi sự tranh  giành nhau từ trong lòng mẹ.  Hai anh em sinh đôi Esau và Giacóp không  những " chí chóe" với nhau trong bụng mẹ, lại còn "kèn cựa" hiềm thù nhau nhiều năm trời! Nhưng trái lại, hai anh em sinh đôi Bênêđictô và Scholastica thương nhau từ tuổi ấu thơ, cùng dìu nhau về thiên quốc.  Chẳng những mang cùng một tâm tư, thân xác họ còn được chôn trong cùng một tấm mồ.  Tình huynh đệ thắm thiết từ khi lọt lòng mẹ, trải qua suốt cuộc sống, kéo dài tới lúc chết, và còn tồn tại mãi mãi trên trời. 

         

Hiện tại di hài của thánh nữ Scholastica và thánh Bênêđictô được yên nghỉ dưới bàn thờ trong tu viện ở Mont-Cassin. Từ cuối thế kỷ thứ VIII, lịch Phụng Vụ của Mont-Cassin định ngày kỷ niệm Scholastica vào ngày 10 tháng 02. Việc tôn kính thánh nữ được lan rộng, nhất là trong các Đan viện từ thế kỷ thứ IX.

Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp 


 


 

Thứ Ba


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm I) St 1, 20 - 2, 4a

"Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta".

Trích sách Sáng Thế.

Thiên Chúa phán: "Nước hãy sản xuất những sinh vật bò sát và loài chim bay trên mặt đất, dưới vòm trời". Vậy Thiên Chúa tạo thành những cá lớn, mọi sinh vật sống động mà nước sản xuất theo loại chúng, và mọi chim bay tuỳ theo giống. Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp. Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: "Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều, đầy nước biển; loài chim hãy sinh cho nhiều trên mặt đất". Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ năm.

Thiên Chúa lại phán: "Ðất hãy sản xuất các sinh vật tuỳ theo giống: gia súc, loài bò sát và dã thú dưới đất tuỳ theo loại". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa đã dựng nên dã thú dưới đất tuỳ theo loại, gia súc và mọi loài bò sát dưới đất tuỳ theo giống. Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp; và Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất, và tất cả loài bò sát di chuyển trên mặt đất". Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh Chúa; Chúa tạo thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam có nữ. Thiên Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: "Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều đầy mặt đất, và thống trị nó, hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất". Thiên Chúa phán: "Ðây Ta ban cho các ngươi làm thức ăn mọi thứ cây cỏ mang hạt giống trên mặt đất và toàn thể thảo mộc sinh trái có hạt tuỳ theo giống. Ta ban mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức ăn cho mọi loài dã thú trên mặt đất, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm rất tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.

Thế là trời đất và mọi trang điểm của chúng đã hoàn thành. Ngày thứ bảy Thiên Chúa hoàn tất công việc Người đã làm. Và sau khi hoàn tất công việc Người đã làm, thì ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi. Chúa chúc phúc và thánh hoá ngày thứ bảy, vì trong ngày đó, Người nghỉ việc tạo thành.

Ðó là gốc tích trời đất khi được tạo thành.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 8, 4-5. 6-7. 8-9

Ðáp: Lạy Chúa, lạy Chúa chúng con, lạ lùng thay danh Chúa khắp nơi hoàn cầu (c. 2a).

Xướng: 1) Khi con ngắm cõi trời, công cuộc tay Chúa tạo ra, vầng trăng và muôn tinh tú mà Chúa gầy dựng, thì nhân loại là chi mà Chúa nhớ tới? con người là chi mà Chúa để ý chăm nom? - Ðáp.

2) Chúa dựng nên con người kém thiên thần một chút, Chúa trang sức con người bằng danh dự với vinh quang, Chúa ban cho quyền hành trên công cuộc tay Ngài sáng tạo, Chúa đặt muôn vật dưới chân con người. - Ðáp.

3) Nào chiên nào bò, thôi thì tất cả, cho tới những muông thú ở đồng hoang, chim trời với cá đại dương, những gì lội khắp nẻo đường biển khơi. - Ðáp.

  

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 7, 1-13

"Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?" Người đáp: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: "Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người". Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy". Và Người bảo: "Các ngươi đã khéo bỏ giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của các ngươi. Thật vậy, Môsê đã nói: "Hãy thảo kính cha mẹ", và "ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử". Còn các ngươi thì lại bảo: "Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được là Corban rồi (nghĩa là của dâng cho Chúa)", và các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi huỷ bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau. Và các ngươi còn làm nhiều điều khác giống như thế".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Mark 7, 1-13


Suy niệm


  

    Thành phần biệt phái và luật sĩ thuộc loại chính hiệu "made in Jerusalem"


Hôm nay, Thứ Ba Tuần V Thường Niên, Bài Phúc Âm vẫn tiếp tục chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh kéo dài tới Thứ Tư Lễ Tro mở đầu Mùa Chay hằng năm.

Nếu trong Bài Phúc Âm hôm qua, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" tỏ mình ra, đúng hơn, thông mình ra, hay thông ban ân sủng của mình ra qua việc chữa lành bệnh nạn tật nguyền, thậm chí bằng cả gấu áo của Người cho những ai tin tưởng chạm đến gấu áo ấy, thì trong Bài Phúc Âm hôm nay, Người tỏ mình ra "là chân lý" (Gioan 14:6), Người thông ban chân lý của Người và từ Người ra cho những ai mù quáng, hay nói cách khác, Người mang chân lý đến cho những ai về tâm linh cần chữa lành cái vô thức hay mù quáng của họ, như những người bị bệnh nạn tật nguyền về phần xác cần được Người chữa lành về thể lý vậy.

Thật thế, thành phần mù quáng về tâm linh cần được "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" chữa lành cho đó là "những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem", tức là thành phần giữ luật, thông luật và dạy luật thuộc loại thế giá, thế lực, thuộc loại chính qui, chính gốc, bởi họ có dính dáng tới giáo đô "Giêrusalem", như thể các vị giáo sĩ ở các nước Công giáo trên khắp thế giới ngoài Âu Châu và Tây phương, như ở Á Châu hay Phi Châu hoặc Mỹ Châu Latinh có bằng cấp ở Giáo đô Roma vậy. 

Thành phần biệt phái và luật sĩ thuộc loại chính hiệu "made in Jerusalem" này đã bị khuyết tật hay bị mắc tật nguyền bẩm sinh di truyền mù quáng này ở chỗ nào, nếu không phải ở chỗ đúng như lời Chúa Giêsu nhận định và khiển trách họ trong bài Phúc Âm hôm nay: 

"Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người". 

Phải, cái tật nguyền mù quáng của họ là ở chỗ "giả hình", bôi bác ngoài "môi miệng" chứ không thật "lòng", sống một cuộc đời "giả dối", ở chỗ "dạy những giáo lý và những luật lệ loài người", như những gì được Thánh ký Marco liệt kê trong Bài Phúc Âm hôm nay: "không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng". 

Đáng lẽ, nếu thực sự xứng danh là thành phần thông luật thì họ phải nắm bắt được tất cả sự thật của luật và về luật, liên quan đến mục đích của luật và tinh thần của luật, từ đó họ mới có thể dạy luật cho dân chúng hiểu mà theo, để cả họ lẫn dân đều giữ luật đúng với những gì Thiên Chúa là Đấng ban luật qua Moisen mong muốn. 

Đằng này, chính vì  họ coi trọng loài người hơn Thiên Chúa, hay nói ngược lại, coi Thiên Chúa không bằng loài người, coi giá trị nhân bản cao hơn giá trị thần linh, như chính Chúa Giêsu nhận định "các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy", mà họ đã giảng dạy một cách sai lầm, điển hình là họ đã dạy sai lạc điều răn thảo kính cha mẹ trong 10 Điều Răn Chúa dạy, như Chúa Giêsu đã vạch ra cho họ thấy trong Bài Phúc Âm hôm nay:

"Thật vậy, Môsê đã nói: 'Hãy thảo kính cha mẹ', và 'ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử'. Còn các ngươi thì lại bảo: 'Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được là Corban rồi (nghĩa là của dâng cho Chúa)', và các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi hủy bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau. Và các ngươi còn làm nhiều điều khác giống như thế".

Sở dĩ thành phần chính hiệu Giêrusalem biệt phái và luật sĩ thông luật trong bài Phúc Âm hôm nay bị Chúa Giêsu vạch trần bộ mặt giả hình và lối sống giả dối của họ ra như vậy là vì họ đã dẫn giải sai ý nghĩa của lề luật liên quan đến ý của Đấng ban lề luật cho con người, và những dẫn giải của họ hoàn toàn theo khuynh hướng tự nhiên muốn sống hưởng thụ và dễ chịu hơn là hy sinh và chịu khó, kể cả đối với những bậc sinh thành dưỡng dục họ. 

Hiện tượng và tình trạng thiên lệch đầy chủ quan và vị kỷ này của "những người biệt phái và luật sĩ từ Giêrusalem" này cũng không có gì là khó hiểu, bởi vì một khi họ coi nhẹ Thiên Chúa, coi luật của Ngài không bằng tục lệ loài người, thì cha mẹ loài người của họ cũng đâu có giá trị gì đối với họ mấy nữa. 

Và như thế, ở một nghĩa nào đó, họ đã lấy họ làm cùng đích, khi họ coi luật lệ của Thiên Chúa chỉ là phương tiện để họ hưởng thụ, ở chỗ, một đàng bề ngoài họ có vẻ tuân thủ kỹ lưỡng lề luật đấy, nhưng về tinh thần họ lại tuân thủ lề luật một cách chủ quan, nghĩa là, việc họ giữ luật là đường lối tinh ranh để họ có thể nhờ đó thỏa mãn ý riêng của họ một cách chính đáng, và như thế cùng nhờ thế họ mới có thể làm chủ lề luật, thay thế vị trí của chính Đấng lập luật và ban luật cho họ.

Cho dù con người có vô tình hay cố ý phủ nhận quyền hành của Thiên Chúa về phương diện lề luật luân lý và đạo lý, nhưng họ vẫn phải tuân theo định luật thiên nhiên tuần hành chi phối đời sống của họ, nhất là chi phối đến chính sự sống của họ. Ở chỗ, chính họ không biết được giờ họ qua đời, cũng như chính họ cũng chẳng được quyền chọn sinh ra làm người hay chăng, chọn phái tính, chọn tương lại, chọn cách chết... là tất cả những gì thuộc quyền hành của Đấng quan phòng mọi sự theo dự án thần linh vô cùng khôn ngoan của Người trong việc tiếp tục công cuộc tạo dựng của Ngài, một công cuộc tạo dựng được ghi dấu bằng các định luật bất di bất dịch nơi thiên nhiên tạo vật liên quan đến nguồn gốc của chúng cũng như vị trí của chúng trong vũ trụ bao la hầu như bất tận này. Chẳng hạn những định luật sau đây:

1- Nước là nguồn sống của các sinh vật: "Nước hãy sản xuất những sinh vật bò sát và loài chim bay trên mặt đất, dưới vòm trời. Vậy Thiên Chúa tạo thành những cá lớn, mọi sinh vật sống động mà nước sản xuất theo loại chúng, và mọi chim bay tuỳ theo giống. Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp";

2- Mỗi loài tự chúng có khả năng bảo tồn và phát triển theo giống loại của mình: "Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: 'Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều, đầy nước biển; loài chim hãy sinh cho nhiều trên mặt đất'";

3- Đất là chất liệu làm nên các loài thú vật: "'Ðất hãy sản xuất các sinh vật tuỳ theo giống: gia súc, loài bò sát và dã thú dưới đất tuỳ theo loại'... Thiên Chúa đã dựng nên dã thú dưới đất tuỳ theo loại, gia súc và mọi loài bò sát dưới đất tuỳ theo giống".

4- Con người được tạo dựng nên theo hình ảnh thần linh có nam có nữ: "Thiên Chúa phán: 'Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất, và tất cả loài bò sát di chuyển trên mặt đất'. Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh Chúa; Chúa tạo thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam có nữ".

5- Con người được Thiên Chúa ban quyền thay Ngài làm chủ và phát triển trái đất: "Thiên Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: 'Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều đầy mặt đất, và thống trị nó, hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất'. Thiên Chúa phán: 'Ðây Ta ban cho các ngươi làm thức ăn mọi thứ cây cỏ mang hạt giống trên mặt đất và toàn thể thảo mộc sinh trái có hạt tuỳ theo giống. Ta ban mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức ăn cho mọi loài dã thú trên mặt đất, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất'".

 

Lễ Mẹ Lộ Đức

11/2

 

 

 

Đức Mẹ Nói Cùng Tôi

(St. Marie Bernadette Soubirous, Ep. Ad P. Gondrand, a 1861:
cf. A. Ravier, Les Écrits de Sainte Bernadette, Paris 1961, pp 53-59)



Ngày kia tôi cùng với hai đứa con gái khác đi xuống bờ sông Gave, thì thình lình tôi nghe thấy một cái gì đó như tiếng gió vi vu. Tôi ngoảnh đầu lại hướng về phía đồng cỏ gần bờ sông, song cây cối vẫn lặng lẽ, rõ ràng là tiếng động không xuất phát từ chúng. Đoạn tôi nhìn lên và thấy ngay trong động đá một vị nữ lưu mặc chiếc áo trắng dễ thương với chiếc giây thắt lưng óng ánh. Trên chân của bà mỗi bên đều có một bông hồng mầu vàng nhạt, cùng mầu với những hột ở chuỗi mân côi của bà.

Thấy thế tôi giụi hai mắt, nghĩ rằng tôi đang thấy một cái gì đó, và tôi xỏ tay vào viền quần đựng cỗ tràng hạt. Tôi muốn làm dấu thánh giá, nhưng tôi không thể làm được, và tay tôi trở nên rụng rời. Bấy giờ vị nữ lưu này làm dấu thánh giá và tôi cố làm dấu như bà, mặc dù tay tôi run lẩy bẩy. Thế là tôi bắt đầu lần hạt mân côi, trong khi đó vị nữ lưu này lấy ngón tay đưa hạt chuỗi mà không nhép miệng gì cả. Khi tôi hết đọc Kinh Kính Mừng thì bà liền biến đi.

Tôi hỏi hai cô bạn của mình xem họ có thấy được điều gì chăng, họ nói không. Dĩ nhiên họ muốn biết tôi đã làm gì, và tôi cho họ biết rằng tôi đã thấy một vị nữ lưu mặc bộ áo trắng đẹp, mặc dù tôi không biết bà ấy là ai. Tôi dặn họ đừng nói điều gì về câu chuyện này, và họ cho tôi rằng tôi ngớ ngẫn với những thứ ấy. Tôi nói là họ sai rồi, và tôi đã cảm thấy bị thúc đẩy trở lại nơi này vào hôm Chúa Nhật sau đó …

Lần thứ ba tôi đến đó thì vị nữ lưu này đã mở miệng nói với tôi và xin tôi hãy trở lại hằng ngày trong vòng 15 ngày. Tôi nói tôi sẽ làm như thế, đoạn bà bảo tôi rằng bà muốn tôi nói với các vị linh mục hãy xây cất lên một nguyện đường ở đó. Bà cũng bảo tôi hãy uống nước ở rạch nước. Tôi đã đến con sông Gave là giòng nước duy nhất tôi thấy. Thế rồi bà làm tôi nhận ra rằng bà không nói về con sông Gave, mà là một tia nước nhỏ gần chỗ tôi đứng. Tới nơi, tôi chỉ thấy có một vài giọt nước, còn toàn là bùn. Tôi chụm tay lại để hớt lấy một chút nhưng không được, tôi liền cào đất lên. Tôi cố tìm lấy một ít giọt nước, nhưng mãi vào lần thứ bốn tôi mới có đủ lượng nước để uống. Đoạn người nữ lưu biến đi và tôi trở về nhà.

Tôi đã trở lại đấy 15 ngày, trừ một ngày Thứ Hai và một ngày Thứ Sáu, và lần nào bà cũng hiện ra và bảo tôi tìm một rạch nước mà tắm cũng như để xem chuyện các vị linh mục xây nguyện đường ở đó thế nào. Bà nói tôi cũng phải cầu nguyện nữa để cầu cho tội nhân ăn năn cải thiện đời sống. Tôi đã hỏi bà nhiều lần về ý định của bà, song bà chỉ mỉm cười. Sau cùng, với cánh tay giang ra và đôi mắt ngước lên trời, bà bảo tôi rằng bà là Đấng Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Trong 15 ngày đó, bà đã nói với tôi ba điều bí mật, nhưng tôi không được phép nói với ai cả, và tôi vẫn giữ cho tới nay.
 


(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office of Readings, Saint Paul Editions, 1983, trang 1343-1344)

 

 

Bí Mật Lộ Đức

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


 

    Theo diễn tiến của Biến Cố Thánh Mẫu nổi tiếng được chính thức công nhận xẩy ra trong lịch sử Giáo Hội từ trước đến nay, thì người ta chỉ nghe nói đến Bí Mật Fatima và Bí Mật La Salette thôi, chứ đâu có bao giờ nghe đến Bí Mật Lộ Đức. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có Bí Mật Lộ Đức. Đúng thế, trong 18 lần hiện ra với thiếu nữ Bernadette 14 tuổi tại một hang động ở Massabielle, vào lần hiện ra thứ 7, 23/2/1858, người thiếu nữ quê mùa bần cùng thất học chưa được rước lễ lần đầu này cho biết là Mẹ Maria quả thực đã tiết lộ cho cô biết 3 bí mật riêng (three personal secrets), những bí mật nhiều người tò mò muốn biết nhưng cuối cùng chẳng ai được biết vì Mẹ Maria không cho cô nói lại với ai. Thậm chí cho tới nay, cho dù Bí Mật Fatima phần thứ ba là bí mật đầy rùng rợn (theo óc suy tưởng của nhiều người), tưởng chừng như không bao giờ được Tòa Thánh công bố, vì ích chung, cũng đã được lịch sử ghi nhận nội dung của nó khi nó được Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin chính thức tiết lộ ngày 26/6/2000, nhưng Bí Mật Lộ Đức vẫn hoàn toàn là một huyền nhiệm.

 

    Bí Mật Lộ Đức sở dĩ không được tiết lộ, trước hết, có thể là vì bí mật này chỉ liên quan tới bản thân của vị thụ khải Bernadette thôi. Nếu liên quan tới tình hình thế giới và Giáo Hội, chắc chắn không sớm thì muộn cũng được tiết lộ thôi, như trường hợp của Bí Mật Fatima phần thứ ba vậy. Có thể một trong ba bí mật được Mẹ Maria tiết lộ cho người con gái sống trên đời 35 năm ngắn ngủi đầy đau thương này liên quan tới thân phận của chị, như Mẹ đã tỏ cho chị biết vào lần hiện ra thứ ba, 18/2: “Mẹ không hứa với con hạnh phúc ở đời này mà là đời sau”, một lời cũng đã được tân Chân Phước Zélie Guérin (mới được tôn phong cùng chồng là Louis Martin vào Chúa Nhật Truyền Giáo 19/10/2008 ở vương cung thánh đường Lisieux Pháp quốc), mẹ của chị Thánh Thérèse Hài Đồng Giêsu, cảm nghiệm khi đi hành hương Lộ Đức vào những ngày cuối đời nhưng không được phúc chữa lành. Người ta cũng có thể suy đoán thêm một trong 3 điều bí mật riêng tư được Mẹ Maria tiết lộ cho chị biết ấy liên quan tới ơn gọi tu trì của chị, vì chị đã bắt đầu sống đời tận hiến trong Dòng Chị Em Bác Ái ở Nevers ngày 4/7/1866, khi chị được 22 tuổi, sau Biến Cố Lộ Đức 8 năm, cho đến ngày chị qua đời 13 năm sau, 16/4/1879.

 

    Tuy nhiên, ngoài 3 bí mật tư riêng liên quan tới bản thân của vị thụ khải Bernadette, thực tế cho thấy có một Bí Mật Lộ Đức liên quan đến hết mọi người, bởi thế cần phải tìm hiểu và khám phá để có thể đáp ứng “dấu chỉ thời đại” nơi Biến Cố Thánh Mẫu 150 năm (1858-2008) đặc biệt này, nhất là vào dịp Giáo Hội hoàn vũ long trọng mừng Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12/2008, một lễ liên quan tới danh xưng “Mẹ hoài thai vô nhiễm tội – Que soy era Immaculada Councepciou” của Mẹ ở Lộ Đức vào lần hiện ra thứ 16 ngày 25/3. Vậy cái được gọi là Bí Mật Lộ Đức đây là gì, nếu không phải là cái bí mật tại sao Lộ Đức là nơi có một danh xưng liên quan tới linh hồn vô nhiễm của Mẹ lại là nơi xẩy ra những phép lạ chữa lành xác thân con người? Đúng thế, có hai đặc điểm chính yếu và chuyên biệt ở Lộ Đức, thứ nhất đó là danh xưng “Mẹ hoài thai Vô Nhiễm Tội”, khác với ở danh xưng của Mẹ ở Fatima “Mẹ là Đức Bà Mân Côi” ngày 13/10/1917,  và thứ hai là các cuộc chữa lành bệnh nạn phần xác cho con người, một sự kiện không xẩy ra ở các Biến Cố Thánh Mẫu khác, dù biến cố ấy có thể nổi tiếng hơn như Fatima chẳng hạn. Nếu quả thực đây là Bí Mật Lộ Đức thì ý nghĩa của nó là gì và tại sao lại như thế?

 

    Vào ngày 13/6/2008, tôi có nhận được một điện thư của vị muốn giúp ý kiến về đề tài tĩnh tâm có lợi cho cả hai đoàn thể Đạo Binh Xanh và Đạo Binh Đức Mẹ: Thánh Mẫu học theo thánh An Phong hay thánh Long Mộng Phố, hoặc linh đạo Fatima. Tôi đã đề nghị trong năm 2008 là thời điểm Mừng Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức 150 năm, cũng là thời điểm Mừng 20 năm Phong Thánh cho Các Chứng Nhân Đức Tin trên Đất Việt, đề tài nên chọn là lời Mẹ nói với chị Thánh Bernadette vào lần hiện ra thứ ba 18/2/1858: ‘Mẹ không hứa với con hạnh phúc đời này mà là đời sau’. Đề tài này rất thích hợp với Bí Mật Fatima phần thứ ba liên quan tới thị kiến tử đạo. Trong phần hội thảo chung, tôi đề nghị nêu lên vấn nạn là: ‘Tại sao ở khi hiện ra ở Lộ Đức, Mẹ Maria tự xưng mình 'Mẹ Hoài Thai Vô Nhiễm Tội' ngày 25/3 là những gì liên quan đến phần hồn của Mẹ mà Mẹ lại biến Lộ Đức thành Trung Tâm Thánh Mẫu duy nhất nổi tiếng về các phép lạ chữa lành phần xác cho một số tâm hồn?’ Thế rồi vào ngày 11/8, vị này cho tôi biết rằng: “Đề tài này tuy vậy mà cũng khó, phải có những gợi ý”. Tôi đã hồi âm cho vị ấy là: “Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời được chất chứa trong lời ĐTC GPII huấn dụ trong huấn từ Truyền Tin ở Lộ Đức ngày 15/8/2004 như sau: ‘Từ tảng đá ở động Massabielle, Vị Trinh Nữ này đã hiện ra với Bernadette. Tỏ mình ra như Đấng đầy ơn phúc của Thiên Chúa, Mẹ đã kêu gọi thống hối và nguyện cầu. Mẹ đã chỉ cho Bernadette một mạch nước, và xin em uống mạch nước này. Mạch nước mới mẻ ấy đã trở thành một trong những biểu hiệu của Lộ Đức: một biểu hiệu của sư sống mới được Chúa Kitô ban cho tất cả những ai hướng về Người.”.

 

    Trong Bài Giảng cho Thánh Lễ Mẹ Đau Thương Thứ Hai 15/9/2008 cho Thành Phần Bệnh Nhân trước tiền đường của Đền Thờ Đức Mẹ Mân Côi Lộ Đức, ĐTC Biển Đức XVI, trong chuyến tông du Pháp quốc ngày 12-15/9/2008, đã tiếp tục khai triển chiều hướng trên đây của ĐTC Gioan Phaolô II liên quan tới biểu hiệu nước ở Lộ Đức, như thể hai vị tỏ ra muốn cùng nhau đi sâu vào tất cả những gì là huyền nhiệm ở Lộ Đức để hoàn toàn làm sáng tỏ cái thực sự là Bí Mật Lộ Đức này trước mọi người:

 

    “Nụ cười của Mẹ Maria là suối nước sự sống. Chúa Giêsu phán: ‘ai tin Tôi thì từ lòng họ sẽ vọt lên những giòng sông chảy nước sự sống’ (Jn 7:38). Mẹ Maria là người đã tin tưởng, và từ cung lòng của Mẹ, những giòng sông chảy nước sự sống đã tuôn ra tưới dội lịch sử loài người. Giòng suối mà Mẹ Maria chỉ cho Bernadette ở Lộ Đức đây là một dấu hiệu đơn sơ về thực tại thiêng liêng này. Từ trái tim tin tưởng của Mẹ, từ tấm lòng từ mẫu của Mẹ, chảy ra nước sự sống để thanh tẩy và chữa lành. Bằng việc dìm mình vào những bể tắm ở Lộ Đức, rất nhiều người đã khám phá ra và đã cảm nghiệm được tình yêu thương từ mẫu dịu dàng êm ái của Vị Trinh Nữ Maria này, bằng việc tỏ ra gắn bó với Mẹ để liên kết mình chặt chẽ hơn với Chúa! … Đó là lý do tại sao có rất nhiều bệnh nhân đến Lộ Đức đây để được giãn cơn khát của mình nơi ‘nguồn mạch yêu thương’ này, và để cho mình được Mẹ dẫn đến với nguồn cứu độ duy nhất là Chúa Giêsu Cứu Thế Con Mẹ”.

 

    Tóm lại, nếu ở Fatima, tất cả Bí Mật Fatima (3 phần) được Mẹ Maria tỏ cho 3 Thiếu Nhi Fatima biết vào lần hiện ra thứ ba 13/7/1917, là “Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria”, một trái tim liên quan tới định mệnh chung của nhân loại, đến trình trạng “nhiều linh hồn được cứu độ và thế giới được hòa bình”, thì tất cả Bí Mật Lộ Đức là ở nơi nụ cười của Mẹ Maria, một cử chỉ độc đáo chưa từng có trong lịch sử Biến Cố Thánh Mẫu, một nụ cười là suối nước sự sống tràn đầy “vui mừng và hy vọng”, có tác dụng gia tăng đức tin phần hồn, thậm chí chữa lành cả phần xác của một số tâm hồn thiên định nào đó.

 

    Nếu Biến Cố Thánh Mẫu Fatima liên quan đến lửa, (sự kiện mặt trời nhẩy múa trên trời ngày 13/10/1917), cũng như tới tước hiệu Mẹ Mân Côi, cả hai ám chỉ quyền thế của Mẹ đối với Thiên Chúa (như Bí Mật Fatima phần 3 cho thấy), thì Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức liên quan tới nước, (sự kiện mạch nước vọt lên từ đất ngày 25/2/1858), cũng như tới tước hiệu Mẹ Vô Nhiễm, cả hai ám chỉ tình trạng Mẹ dồi dào ân sủng là để mang lại sự sống cho con cái khổ đau, như ĐTC BĐXVI khẳng định trong huấn từ Truyền Tin CN 14/9/2008 ở Lộ Đức như sau:

 

    “Ơn Hoài Thai Vô Nhiễm được ban cho Mẹ Maria không phải chỉ là một ơn huệ của một cá nhân, mà là một ân sủng cho tất cả mọi người, một ân huệ được ban cho toàn thể dân Chúa. .. chúng ta là con cái của Mẹ Maria, chúng ta cũng được hưởng bổng lộc từ tất cả mọi ân huệ Mẹ có; phẩm vị khôn sánh Mẹ có được nhờ Hoài Thai Vô Nhiễm rạng ngời chiếu tỏa trên chúng ta là thành phần con cái của Mẹ”.

 

    Bí Mật Fatima và Bí Mật Lộ Đức có một liên hệ mật thiết với nhau thế này: nếu ở Fatima Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ được Mẹ tỏ cho Lucia biết “là nơi cho con nương náu và là đường đưa con đến cùng Thiên Chúa”, thì ở Lộ Đức, Đấng “hoài thai Vô Nhiễm Tội” đến là để “thông ơn Thiên Chúa” cho con cái của mình, được thể hiện rõ ràng nhất qua những lần Mẹ chữa lành phần xác cho một số cá nhân đặc biệt nào đó, trong vô số trường hợp được cho biết là mỗi năm có khoảng 40 vụ chữa lành trình báo cho giáo quyền địa phương Lộ Đức, nhưng Giáo Hội mới chính thức công nhận 67 phép lạ. Nếu việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh tật được thuật lại trong các Phúc Âm là những gì chứng thực Vương Quốc Thiên Chúa gần đến hay Ơn Cứu Độ sắp hoàn thành thế nào, thì những việc chữa lành phần xác cho con người ở Lộ Đức mãi đến ngày nay, trong một thời đại văn minh tân tiến tột độ về khoa học và kỹ thuật nhưng lại đang bị phá sản đức tin từ thế kỷ 19, cũng là những gì báo trước Nước Mẹ trị đến cho Nước Chúa vinh quang, Nước của “Đức Mẹ Mân Côi” cũng là “Đức Mẹ Thắng Trận”, Đấng đã khẳng định ở Fatima ngày 13/7/1917 cuối phần Bí Mật Fatima thứ hai là “cuối cùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng”!

 

 

 

 

 

 

Phép Lạ Lộ Đức: Tiến Trình Điều Tra và Công Nhận

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 


 

     Gần văn phòng y khoa bận bịu là một chỗ trưng bày hình ảnh lạ lùng của những người hành hương đã được chữa lành, với những hàng chữ nói về tình trạng tật nguyện bệnh nạn của họ. Vấn đề này là những gì được phổ biến công khai. Những cuộc lành bệnh này không phải tự nhiên xẩy ra mà là chất chứa cả một đức tin trong ấy, thế nhưng làm thế nào để có thể chứng thực được những gì xẩy ra liên  quan tới đức tin siêu nhiên như thế, nhất là giữa một thế giới thiên về duy thực dụng, coi khoa học như là chân lý ngày nay?

 

     Cũng chính vì con người trong thế giới văn minh ngày nay cần đến những chứng cớ về khoa học mà bằng chứng về y khoa liên quan tới những biến cố chữa lành này là những gì bất khả thiếu và hùng hồn cho thấy sự hiện diện thần linh của Đấng Vô Hình làm chủ lịch sử và định mệnh của từng người trên  thế gian này. Ngoài ra, Giáo Hội cũng cần đến những chứng cớ về y khoa để có thể công nhận các biến cố chữa lành được gọi là phép lạ thật sự ở Lộ Đức.

    

Tiến Trình Điều Tra

     Khi một người hành hương Lộ Đức cho rằng mình được chữa lành thì họ được vị bác sĩ ở đó khám nghiệm, trước khi chuyển đến các vị bác sĩ ở văn phòng y khoa là văn phòng được thiết lập chính thức vào năm 1947. Cơ quan này có trách nhiệm thẩm định đầu tiên để xem tính chất thực sự của việc chữa lành. Người hành hương được chữa lành này, cùng với những ghi nhận từ các cuộc khám nghiệm trước đó, được các vị bác sĩ chủ trị khám nghiệm, tất cả đều được chứng dự bởi vị giám đốc đền thánh và vị linh mục đặc trách khách hành hương.

 

     Những qui chuẩn đòi phải có đối với một việc chữa lành bao gồm ít là 4 điều sau đây: chứng bệnh phải thực sự xẩy ra và việc chẩn bệnh xác đáng; dự đoán về chứng bệnh phải rành mạch, kể cả những dự đoán về tính chất vĩnh viễn hay bất trị của nó; việc được chữa lành phải xẩy ra tức khắc, chứ không phải tình trạng hồi phục, hoàn toàn, dứt khoát và mãi mãi; việc chữa trị được qui định không góp phần gì vào biến cố lành mạnh cả.

 

     Khi biến cố chữa lành được khẳng định rồi, thì cuộc thẩm định chung đòi người bệnh gặp gỡ văn phòng y khoa 3 năm nữa. Nếu đa số các bác sĩ đồng ý, thì hồ sơ của bệnh nhân  được lành khỏi ấy sẽ được gửi đến cho Tiểu Ban Y Khoa Quốc Tế Lộ Đức (CMIL: Lourdes International Medical Committee) được thành lập vào năm 1954.

 

     Tiểu ban y khoa quốc tế này sẽ thẩm định những biến cố chữa lành trên 10 đến 15 năm để theo dõi việc phát triển của bệnh nhân. Sau khi văn phòng y khoa quốc tế này khẳng định việc chữa lành hoàn toàn vượt quá khả năng của y khoa thì hồ sơ của việc chữa lành được gửi đến cho các vị thẩm quyền của Giáo Hội.

 

Việc Công Nhận Phép Lạ

 

     Việc công bố phép lạ chữa lành là phận sự của vị giám mục nơi ở của người được chữa lành. Nhưng trước khi vị giám mục địa phương công bố thì vấn đề hay hồ sơ của người bệnh được chữa lành được cứu xét bởi một Ủy Ban Giáo Phận bao gồm các vị linh mục, các vị chuyên  gia về giáo luật, các thần học gia và các vị bác sĩ.

    

Y Khoa hay Phép Lạ chữa lành

 

     Căn cứ vào thời điểm văn phòng y khoa được thiết lập vào năm 1947, thì trước đó, mức độ được chữa lành trước năm 1914 là 1:100, từ 1914 đến 1928 là 1:700, thế nhưng từ 1928 đến 1947 là 1:1600. Tóm lại, có 5 ngàn vụ được cho là chữa lành trước năm 1947. Từ 1947 đến 1990 chỉ còn 1000, trong số đó chỉ có 56 vụ được công nhận trong thời gian này, trung bình là 1.3 vụ mỗi năm, khác với 57 vụ mỗi năm trước năm 1914.

 

     Căn cứ vào các dữ kiện ấy, người ta có thể suy ra rằng càng văn minh hay y khoa càng tiến bộ, bao gồm cả các thứ thuốc men được sáng chế thêm, thì bệnh tật được chữa lành bởi khoa học hơn là bởi phép lạ. Từ thập niên 1960 con số được cho là phép lạ đã thụt giảm hẳn xuống. Vấn đề có thể đặt ra ở đây là chính vì khoa học tân tiến mà người ta tin vào khoa học hơn là trời cao, nên không đến để xin chữa lành nhiều như trước nữa, do đó không có nhiều phép lạ chữa lành xẩy ra nữa.

 

     Giống như vấn đề tại sao ngày nay Âu Châu là nơi đã từng là chiếc nôi Kitô Giáo và lan truyền Kitô Giáo khắp thế giới, nay lại là nơi xuất phát ra nền văn hóa sự chết và cần tái truyền  bá phúc âm  hóa hơn  bao giờ hết. Phải chăng là vì Kitô Giáo đã lỗi thời, không còn tác lực cứu độ nữa? Vấn đề có thể đặt ngược lại là khoa học và kỹ thuật tân tiến hay văn minh của con người nếu quả thực là cứu tinh của con người, mang lại hạnh phúc thực sự và trọn vẹn cho con người, thì tại sao thế giới càng văn minh con người càng bạo loạn như thực tế không thể chối cãi ngày nay cho thấy! Như thế, vấn  đề ở đây là phải chăng vì con người bỏ Thiên Chúa, bị khủng hoảng đức tin con người mới trở nên đáng thương như thế, cần phải được chữa lành cả về (nhất là về) phần hồn nữa vậy.

 

     Kể từ ngày thành lập của mình, tiểu ban y khoa quốc tế này đã cứu xét 1300 vụ và đã nộp 29 vụ cho Giáo Hội và được thẩm quyền  Giáo Hội công nhận 19. Tư năm 1858 tới nay, tức sau 150 năm, Giáo Hội mới chính thức công nhận 67 phép lạ Lộ Đức. Sau đây là hai phép lạ cuối cùng, phép lạ thứ 66 và 67.

 

Phép Lạ thứ 66

 

     Phép Lạ thứ 66 xẩy ra cho ông Jean-Pierre Bély, một người Pháp, bị liệt bại, một chứng bệnh ông đã mắc từ năm 1972. Khi ông đi hành hương Lộ Đức năm ông 51 tuổi, tức vào năm 1987, bạn bè ông cho rằng ông không thể nào chịu nổi chuyến đi. Vào cuối cuộc hành hương, ông được lãnh nhận bí tích xức dầu kẻ liệt, để rồi, khi trở về đến nhà, ông đã bước đi được như một người bình thường. Hiện nay tất cả mọi dấu vết bệnh tật đã hoàn toàn biến mất. Bác sĩ Patrick Fontanaud, một nhà ngộ đạo thức, vẫn chăm sóc cho ông này đã phải thú nhận khoa học không thể nào cắt nghĩa được hiện tượng khỏi bệnh lạ lùng này. Vị làm đầu Văn Phòng Y Khoa Lộ Đức là bác sĩ Patrick Theillier đã nói với tờ Le Monde rằng còn hai phép lạ chữa bệnh nữa sẽ được nhìn nhận, đó là phép lạ xẩy ra cho một phụ nữ 25 tuổi người Pháp và một phụ nữ 60 tuổi người Ý, cả hai đều được khỏi bệnh vào năm 1995.

 

Phép Lạ thứ 67

 

     Còn Phép Lạ thứ 67 thì ĐTGM Gerardo Pierro giáo phận Salerno đã chính thức công bố hôm Thứ Sáu 11/11/2005 là một “việc chữa lành lạ lùng” xẩy ra cho một người đàn bà chịu bệnh khổ đau lâu dài và đã đến viếng Đền Thánh Mẫu Lộ Đức ở Pháp quốc năm 1952.

 

     Bệnh nhân này là bà Anna Santaniello ở giáo phận Salerno, nay đã 94 tuổi, đã chịu tật dị tim từ nhỏ, đã được các bác sĩ tuyên bố là không thể nào chữa khỏi.

 

     Vào năm 40 tuổi, tình trạng sức khỏe của bà bị suy kiệt trầm trọng, và bất chấp lời khuyên của các vị bác sĩ và gia đình của mình, bà quyết định đi viếng Đền Thánh Mẫu Lộ Đức. Bà đã cho Đài Phát Thanh Vatican biết phản ứng của ba bấy giờ như thế này:

 

     “Tôi nói với tất cả họ rằng: ‘Tôi muốn đi. Nếu tôi có chết đi chăng nữa thì tôi muốn chết khi trông thấy Đức Mẹ”.

 

     Bà cảm thấy rất khó thở và những tình nguyện viên ở Lộ Đức đã không muốn đưa bà từ nhà trọ cho bệnh nhân xuống hang Đức Mẹ, bà cũng cho Đài Phát Thanh Vatican biết phản ứng của bá lúc ấy như sau:

 

     “Tôi đã cầu nguyện lớn tiếng để Mẹ có thể nghe thấy tôi, ‘Đức Trinh Nữ ơi, Mẹ cần phải cứu giúp con. Con đã thấy một bóng tối, một bóng tối trên bầu trời thì thào bên tai tôi rằng: ‘Đừng có nghe họ, hãy cứ đi,  hãy cứ đi’. Hết mọi người đều cầu nguyện cho tôi, nam cũng như nữ. Họ đã cho tôi hôn tượng Đức Mẹ họ đang có ở đó trên bàn thờ nhỏ”.

 

     Tật di tim của bà làm cho bà khó khăn trong việc đi đứng và nói năng một cách rõ ràng. Nó đồng thời cũng làm cho mặt bà bị xanh tím cùng với những chỗ xưng ở hạ phần tứ chi.

 

     Ở Lộ Đức, các nữ tu đã đưa bà vào trong hồ nước và theo bà cho biết là bấy giờ “nước lạnh buốt. Thế nhưng tôi lập tức cảm thấy một cái gì đó sôi lên trong ngực của mình, như thể sự sống trở lại với tôi. Sau mấy giây đồng hồ, tôi đứng lên một mình và bắt đầu bước đi, không cần những người mang cáng giúp nữa, làm cho họ nhìn tôi không thể nào tin được”.

 

     “Tôi bảo họ rằng ‘Hãy đi giúp những người khác, vì tôi có thể tự làm lấy được rồi. Tôi bước ra và đi vào công trường, bắt đầu phục vụ bữa ăn trưa cho bệnh nhân. Vào lúc 4 giờ chiều, họ có một cuộc rước kiệu Thánh Thể và tôi đã tham dự, hát ca.

 

     “Tôi rất biết ơn Đức Mẹ vì tôi đã mất đi một người anh và một người chị cũng vì một chứng bệnh này: anh ấy bấy giờ 29 tuổi và chị ấy 33 tuổi”. 

 

     Trở về nhà, bà đã lấy hẹn gặp một vị bác sĩ nổi tiếng về tim, và vị này “nói với tôi rằng tôi chẳng có bị gì cả, tôi rất khỏe mạnh và ông ta không hiểu tại sao lại có tất cả những thứ chứng thư và khám xét đã được thực hiện trước đó”.

 

     Bà đã trở lại Lộ Đức vào một số dịp sau đó để tự nguyện giúp đỡ thành phần bệnh nhân. Bà, gia đình và bạn hữu bà đã đến tham dự lễ nghi công bố phép lạ của bà, lễ nghi được diễn ra tại Chủng Viện John Paul II Metropolitan ở Pontecagnano.

 

     “Việc hiện diện của nhiều bệnh nhân hành hương ở Lộ Đức, cũng như thành phần thiện nguyện viên đi kèm với họ, khiến chúng ta suy nghĩ đến việc chăm sóc từ mẫu và êm ái mà Vị Trinh Nữ này bày tỏ đối với nỗi đớn đau và khổ đau của loài người” (ĐTC Biển Đức XVI, Sứ Điệp Ngày Thế Giới Bệnh Nhân 11/2/2008).

 

     “Đấng Cứu Chuộc thần linh muốn đi sâu vào tâm hồn của hết mọi con người đau khổ bằng trái tim của Người Mẹ Thánh của Người, một con người cao cả đầu tiên và trên hết trong thành phần được cứu chuộc” (ĐTC John Paul II, Apostolic Letter, "Salvifici doloris," n. 26).

 

Phép Lạ thứ 70 

 

Phép lạ cuối cùng được thẩm quyền Giáo Hội chính thức chấp nhận vào năm 2013, và là phép lạ thứ 70 trong hơn 7 ngàn phép lạ từ đầu cho tới nay. Phép lạ thứ 70 này xẩy ra cho một nữ tu người Pháp là Bernadette Moriau, vị nữ tu bị chứng đau cột xương sống, phải ngồi trên xe lăn và hoàn toàn bị tàn tật từ năm 2008, và trong chuyến hành hương Lộ Đức Năm 2008, không hề xin ơn được chữa lành gì hết, nhưng sau khi lãnh nhận phép lành Thánh Thể cho bệnh nhân tham dự thì cảm thấy một dấu lạ xẩy ra nơi thân thể của mình, và khi về phòng riêng thì nghe thấy tiếng nói "hãy bỏ cái nẹp bó ra". Thế là vị nữ tu này từ đó tự nhiên bước ra khỏi xe lăn và không còn sử dụng thuốc giảm đau là morphine nữa.

 

 

 

Hành Hương Thánh Mẫu Lộ Đức
 


Trong cuộc Hành Hương Năm Thánh 2000, tôi được dịp viếng thăm Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức, tôi chợt nghĩ ra một điều, một điều mà nếu không đến đây, tôi nghĩ chắc chắn tôi không bao giờ nghĩ ra và nghĩ được. Thật vậy, trong các Linh Địa Thánh Mẫu, kể cả Linh Địa Fatima, thì phải công nhận một điều không thể chối cãi được là Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức thật là thơ mộng, thật là hữu tình. Có dịp mà không đến thì đúng là mất nửa đời người! Tại sao? Cảm nghĩ của tôi tự nhiên có được sau khi mới từ Linh Địa Thánh Mẫu Fatima tới, đó là vì Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức là nơi duy nhất Đức Mẹ hiện ra tươi cười, chứ không hoàn toàn nghiêm trọng đến buồn thảm như ở các nơi khác, nhất là ở Fatima.


Sự Tích Mẹ Lộ Đức được bắt đầu từ 18 lần Đức Mẹ hiện ra với Bênađét, một thiếu nữ quê mùa nghèo nàn 14 tuổi tại một hang đá ở Lộ Đức thuộc miền Nam Nước Pháp. Trong 18 lần hiện ra này, những lần quan trọng nhất là những lần Mẹ tỏ cho Bênađét biết Mẹ là ai và muốn gì, như lần thứ ba ngày 18/2, lần thứ tám, 24/2, lần thứ chín, 25/2, lần thứ mười ba, 2/3 và lần thứ mười sáu, 25/3.


Vào lần hiện ra thứ ba ngày 18/2, để đáp lại việc Bênađét đưa giấy, bút và mực cho Mẹ để xin Mẹ viết xuống cho biết tên của Mẹ và Mẹ muốn gì, Mẹ đã trả lời như sau: “Những gì Mẹ muốn nói với con không cần phải viết ra. Con có sẵn lòng trở lại đây 15 ngày không? Mẹ không hứa với con được hạnh phúc ở đời này mà là ở đời sau”.


Vào lần hiện ra thứ tám ngày 24/2, Mẹ kêu gọi Bênađét: “Hãy ăn năn thống hối! Hãy ăn năn thống hối! Hãy ăn năn thống hối!” “Hãy cầu xin Thiên Chúa cho các tội nhân!”. “Con hãy bò bằng đầu gối vào hang đá và hãy hôn đất để tỏ dấu hiệu ăn năn thống hối thay cho các tội nhân”.


Vào lần hiện ra thứ chín ngày 25/2, theo lời Bênađét kể lại thì “Vị hiện ra bảo tôi hãy đi uống nước suối. Vì không thấy suối đâu, tôi đã đến uống nước sông (đó là con sông Gave, nhỏ song nước trong vắt và chảy suốt ngày đêm, theo trí nhớ của khách hành hương này). Người bảo tôi không phải nước tôi uống ở chỗ đó, rồi lấy tay chỉ ở dưới tảng đá. Tôi lại đó và chỉ thấy có một chút nước hơi mằm mặn. Tôi đặt bàn tay tôi vào chỗ đó song không thể lấy được một chút nước nào. Đoạn tôi lấy hai tay đào bới và đã lấy được chút đỉnh. Tôi đã đổ đi ba lần vì bẩn, cho đến lần thứ bốn tôi mới uống được. Người bảo tôi ăn một chút cỏ mọc chung quanh mạch suối ấy”.


Vào lần hiện ra mười ba, ngày 2/3, Bênađét đã thuật lại thế này: “Người bảo tôi đi nói với các vị linh mục là hãy xây cất một Ngôi Đền ở đó. Tôi đã đi vị linh mục giáo xứ nói cho ngài hay. Ngài trơ mắt nhìn tôi một lúc đoạn nói với tôi một cách chắc ăn là ‘Vậy thì tên của Bá đó là gì?’. Tôi trả lời ngài rằng tôi không biết. Ngài bảo tôi hãy đi hỏi tên của Người. Ngày hôm sau tôi hỏi Người thì Người chỉ nhoẻn miệng mỉm cười”.


Vào lần hiện ra mười sáu, ngày 25/3, Bênađét cho biết như sau: “Sau hai tuần lễ tôi đã hỏi Người tất cả là ba lần. Người cứ tiếp tục mỉm cười nên tôi không dám hỏi Người nữa. Tuy nhiên, lần này Người lại hướng mắt lên trời, chắp tay trước ngực mà nói cùng tôi rằng: ‘Ta là Đấng Đầu Thai Vô Nhiễm Tội’. Đây là những lời cuối cùng Người nói với tôi. Đôi mắt của Người mầu xanh dương”.


Ở Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức có ba điều chuyên biệt: thứ nhất là mạch nước lạ, thứ hai là ngôi đền thờ, và thứ ba là tước hiệu Vô Nhiễm Nguyên Tội.


Thứ nhất là mạch nước lạ, mạch nước này ở ngay trong hang đá, về phía dưới ở bên phải chỗ Mẹ hiện ra. Mạch nước lạ này được đậy bằng một tấm pha lê trong và chảy về hai phía, một phía cho khách hành hương lấy phúc uống và một phía cho họ tắm. Phía nước uống được hệ thống hóa xong từ năm 1949 và khu nước tắm được hoàn thành từ năm 1955. ĐTC Gioan Phaolô II đã uống nước này vào ngày 14/8/1983. Và vô số phép lạ đã thực sự xẩy ra tại đây, được hội đồng y khoa địa phương được thành lập từ năm 1882 và hội đồng y khoa quốc tế thành lập từ từ năm 1952 công nhận, trong số đó, từ lần xẩy ra đầu tiên ngày 1/3/1858 đến ngày 28/6/1989, tất cả có 65 phép lạ được Giáo Hội chính thức công nhận.


Thứ hai là ngôi đền thờ, như Mẹ yêu cầu, đã được thực hiện, đó là Đại Thánh Đường Vô Nhiễm. Đại Thánh Đường Vô Nhiễm này là một trong 4 đại thánh đường tại Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức. Ba đại thánh đường khác là Đại Thánh Đường Mân Côi, Đại Thánh Đường Thánh Giáo Hoàng Piô X, và Đại Thánh Đường Thánh Bênađét được thánh hiến năm 1988. Đại Thánh Đường Vô Nhiễm được bắt đầu xây vào năm 1866, lúc mà Ngôi Nhà Nguyện Hầm nhỏ được xây nằm ở phía bên trên được hoàn tất cùng năm. Đại Thánh Đường Vô Nhiễm được hoàn tất năm 1871 và được thánh hiến năm 1876. Đại Thánh Đường Vô Nhiễm này ở tầng hai, dưới Ngôi Nhà Nguyện Hầm ở tầng nhất và trên Đại Thánh Đường Mân Côi ở tầng đất. Đại Thánh Đường Mân Côi được xây cất 30 năm sau biến cố Thánh Mẫu Lộ Đức và được thánh hiến vào năm 1901. Đại Thánh Đường Thánh Giáo Hoàng Piô X được thánh hiến năm 1958, kỷ niệm bách chu niên Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức, được xây dưới lòng đất theo hình chiếc tầu lật ngược, chứa được 27 ngàn người, nằm về phía Tây hang Mẹ hiện ra ở bên kia sông Gave, phải đi qua một chiếc cầu. Đại Thánh Đường Thánh Bênađét được thánh hiến năm 1988, chứa được 5000. Tổng Thánh Đường chính của Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức gồm có ba tầng: tầng nhất là Ngôi Nhà Nguyện Hầm nhỏ, tầng hai là Đại Thánh Đường Vô Nhiễm, và tầng ba là Đại Thánh Đường Mân Côi. Tổng Thánh Đường này, phía Tây ở bên hông dính liền với hang động chỗ Mẹ hiện ra, và phía Bắc trước mặt là Công Trường Lộ Đức hình trái tim.


Thứ ba là tước hiệu Vô Nhiễm Nguyên Tội, một tước hiệu nói lên đặc ân vô cùng cao cả của Mẹ đã được Giáo Hội, qua Á Thánh Giáo Hoàng Piô IX, chính thức tuyên tín thành tín điều vào chính ngày Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12/1854, gần bốn năm trước Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức.

Ngoài ra, tại Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức, chúng ta còn có thể đi viếng 14 Đàng Thánh Giá ở ngọn đồi phía Đông của Khu Đền Thờ ba tầng. Cả một ngọn đồi rộng được xây cất cho 14 Chặng Đường Thánh Giá, một chặng đường Thánh Giá vĩ đại tôi chưa từng thấy, và tôi thích nhất là chặng cuối cùng ở mãi sâu dưới chân đồi, hết sức tự nhiên, vì đó là một hang động đá hoàn toàn thiên nhiên, có thể nói lên ý nghĩa đích thực của ngôi mộ đá Chúa Giêsu được táng xác như Phúc Âm nhắc tới. Chưa hết, ngay trong khu Linh Địa, còn có Bảo Tàng Viện lưu niệm tất cả mọi di tích lịch sử về Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức. Bên ngoài khu Linh Địa, vế phía bắc, khách hành hương có thể ra khu phố có nhà ở của chị Bênađét nữa.


Vì Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức, ngoài tiếng tăm về phép lạ chữa lành, vừa thơ mộng hữu hình, vừa nguy nga tráng lệ nên thật sự đã thu hút khách hành hương tuốn về hết sức đông đảo và nhộn nhịp.


Đúng thế, những sinh hoạt hằng ngày chính yếu tại đây gồm có hai cuộc kiệu, đó là kiệu Thánh Thể ban chiều, từ Lều Tạm ở bên kia bờ sông Gave vào hầm Đại Thánh Đường Thánh Giáo Hoàng Piô X, các bệnh nhân ngồi trên xe lăn được theo kiệu và lĩnh phép lành Thánh Thể, và cuộc rước nến vào buổi tối, từ hang Mẹ hiện ra, qua công trường Lộ Đức, đến trước tiền đường Đại Thánh Đường Mân Côi, cho chung khách hành hương, bằng việc lần hạt bằng các thứ ngôn ngữ quốc tế. Riêng tại Đại Thánh Đường Thánh Giáo Hoàng Piô X còn có Thánh Lễ Quốc Tế vào các ngày Thứ Tư và Chúa Nhật hằng tuần. Ngoài ra, tại các Đại Thánh Đường khác, nhất là tại chính hang Mẹ hiện ra, lúc nào cũng có Thánh Lễ của hết phái đoàn hành hương này đến doàn hành hương kia.

Đó chính là lý do, để kết thúc về Sự Tích Đức Mẹ Lộ Đức, tôi xin chia sẻ kinh nghiệm hành hương tại Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức như sau. Muốn tránh cảnh nhộn nhịp với đủ mọi thứ tổ chức ban ngày lẫn ban tối ở đủ mọi nơi và mọi lúc như thế, nhất là để có thể thực sự cảm thấy cái linh thiêng được gần gũi với Mẹ Maria hơn, chúng ta hãy cố dậy từ sáng sớm, đến chính hang Mẹ hiện ra vào lúc 5 giờ sáng, giờ Mẹ thường hiện ra với chị Bênađét ngày xưa, và hãy qùi trước hang Mẹ mà cầu nguyện bằng chuỗi hạt Mân Côi trong tay với Mẹ, như Mẹ đã lần hạt với chị Bênađét xưa kia vậy. Amen.

Ngày Lễ Mẹ Lộ Đức hằng năm cũng đã được Giáo Hội chọn là Ngày Thế Giới Bệnh Nhân. Để hiệp thông với Giáo Hội Hoàn Vũ đang cử hành Ngày Thế Giới Bệnh Nhân lần thứ chín tại Giáo Đô Rôma vào Chúa Nhật ngày 11/2 kính Mẹ Lộ Đức cuối tuần này, cũng như để thông cảm và an ủi quí thính giả bệnh nhân rất thương mến của chúng ta, chúng ta hãy cùng nhau lắng nghe lại huấn từ Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ thành phần bệnh nhân trong ngày Thứ Sáu 11/2 Năm Thánh 2000, khi họ qui tụ về Rôma để Mừng Ngày Năm Thánh của họ, ngày mà 200 người đại diện cho bao ngàn bệnh nhân được Đức Thánh Cha ban phép Xức Dầu Thánh tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Sau đây là lời của ĐTC:

“Đau đớn và bệnh nạn là số phận nơi mầu nhiệm của con người trên trái đất này. Dĩ nhiên con người vẫn có quyền chiến đấu với bệnh nạn, vì sức khỏe là một tặng ân của Thiên Chúa. Thế nhưng, người ta cũng cần phải làm sao để có thể nhận ra dự án của Thiên Chúa mỗi khi đau khổ đến gõ cửa nhà của chúng ta nữa. ‘Chìa khóa’ để có thể nhận thức được điều này ở nơi Thập Giá của Chúa Kitô. Lời nhập thể đã ôm lấy nỗi yếu đuối của chúng ta, mang lấy nó trong mầu nhiệm Thập Giá. Từ bấy giờ, tất cả mọi khổ đau có một ý nghĩa khả dĩ làm cho nó có một giá trị đáng kể. Từ ngày của Cuộc Khổ Nạn, qua 2000 năm rồi, Thập Giá vẫn chiếu sáng như là một cuộc bộc lộ tối hậu mối tình của Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Những ai có thể chấp nhận nó trong đời sống của mình đều cảm thấy rằng đau đớn theo ánh sáng đức tin đã trở thành nguồn hy vọng và cứu độ” (đoạn 3.1).


“Quí bệnh nhân thân mến, đây là giây phút tuyệt đỉnh của Cuộc Mừng Kỷ Niệm của các con! Bằng việc bước qua ngưỡng Cửa Thánh, các con hợp với tất cả những ai trên khắp thế giới đã bước qua đó và những ai sẽ bước qua đó trong Năm Mừng Kỷ Niệm này. Chớ gì việc bước qua Cửa Thánh là dấu hiệu của việc các con thiêng liêng tiến vào mầu nhiệm của Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc tử giá và phục sinh, Đấng vì yêu đã mang lấy ‘những sầu thương và gánh chịu những buồn phiền của chúng ta’ (Is 53:4)” (đoạn 4.2).(L’Osservatore Romano ấn bản Anh ngữ, 16/2/2000, trang 2)
 

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)

 

 

 

Thứ


Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 2, 4b-9. 15-17

"Thiên Chúa đặt con người vào vườn địa đàng".

Bài trích sách Sáng Thế.

Trong ngày Thiên Chúa tạo dựng trời đất, thì chưa có bụi cây nào mọc ngoài đồng, không có một cây rau cỏ nào nẩy mầm ngoài đồng ruộng, vì Chúa là Thiên Chúa chưa cho mưa rơi xuống đất, và chưa có người để trồng trọt, nhưng lúc đó mạch nước từ đất vọt lên, tưới khắp mặt đất.

Vậy Thiên Chúa lấy bùn đất nắn thành con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở thành một vật sống.

Thiên Chúa lập một vườn tại Eđen về phía đông và đặt vào đó con người mà Ngài đã dựng nên.

Thiên Chúa cho từ đất mọc lên mọi thứ cây trông đẹp, ăn ngon, với cây sự sống ở giữa vườn, và cây biết lành dữ.

Vậy Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn địa đàng, để họ trồng tỉa và coi sóc vườn.

Và Thiên Chúa truyền lệnh cho con người như sau: "Ngươi được ăn mọi thứ trái cây trong vườn, nhưng chớ ăn trái cây biết lành dữ, vì ngày nào ngươi ăn nó, ngươi sẽ phải chết".

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 103, 1-2a 27-28, 29bc-30

Ðáp: Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa (1a).

Xướng 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, lạy Chúa là Thiên Chúa của tôi, Ngài rất ư vĩ đại! Ngài mặc lấy oai nghiêm huy hoàng, ánh sáng choàng thân như mang áo khoác. - Ðáp.

2) Hết thảy mọi vật đều mong chờ ở Chúa, để Ngài ban lương thực cho chúng đúng thời giờ. Khi Ngài ban cho thì chúng lãnh, Ngài mở tay ra thì chúng no đầy thiện hảo. - Ðáp.

3) Ngài rút hơi thở chúng đi, chúng chết ngay, và chúng trở về chỗ tro bụi của mình. Nếu Ngài gởi hơi thở tới, chúng được tạo thành, và Ngài canh tân bộ mặt trái đất. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga. 15, 15b

Alleluia, alleluia - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.- Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 7,14-23

"Những gì từ con ngùi ta xuất ra, đó là cái làm cho người ta ra ô uế"

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu lại gọi dân chúng mà bảo rằng: "Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người ta xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".

Lúc Người lìa dân chúng mà về nhà, các môn đệ hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn ấy.

Người liền bảo các ông: "Các con cũng mê muội như thế ư? Các con không hiểu rằng tất cả những gì từ bên ngoài vào trong con người không thể làm cho người ta ra ô uế được, vì những cái đó không vào trong tâm trí, nhưng vào bụng rồi xuất ra".

Như vậy Người tuyên bố mọi của ăn đều sạch.

Người lại phán: "Những gì ở trong người ta mà ra, đó là cái làm cho người ta ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng.

Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho ngươì ta ô uế".

Ðó là Lời Chúa.

 

Image result for Mark 7,14-23

 

 

Suy niệm

 

 

Ổ Chuột Lòng Người

 

 

Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho ngày Thứ Tư tuần V thường niên hôm nay liên quan đến yếu tố chính yếu làm cho con người ta ra dơ bẩn: "Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người ta xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế".

 

Sở dĩ Chúa Giêsu cần phải nhắc đến và khẳng định như thế là vì, ở mấy câu ngay trước bài Phúc Âm hôm nay, đã xẩy ra chuyện lệch lạc là "những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu" (Marco 7:1) để hạch hỏi Người rằng: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?" (Marco 7:5), một thứ lệch lạc được Chúa Giêsu lợi dụng ngay vấn đề của họ để vạch ra cho họ thấy khuynh hướng sai lầm của họ như sau: 


"Người đáp: 'Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: 'Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người'. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người'" (Marco 7:6-7)


Ở đây, qua câu Chúa Giêsu công khai khiển trách này, Người không hề có ý chê trách "tập tục của tiền nhân" là những gì hay và có lợi, ít là liên quan đến sức khỏe về thể lý và lịch sự tối thiểu, nên giữ và cần giữ (xem Mathêu 23:23). Và thành phần thày dạy trong dân là luật sĩ và biệt phái này cũng phân biệt kỹ lưỡng đâu là luật Chúa và những điều nào thuộc về luật Chúa, nên trong câu hạch hỏi của mình họ đã sử dụng chính xác cụm từ "tập tục của tiền nhân" chứ không phải luật Chúa hay luật Moisen v.v.


Tuy nhiên, vấn đề thành phần thày dạy trong dân Do Thái này có khuynh hướng và tỏ ra coi thường những cái trọng và coi trọng những cái thường bị Chúa Giêsu là vị Đại Tôn Sư khiển trách đó là, họ chỉ chú ý tới những cái phụ thuộc mà bỏ qua những cái chính yếu. Đó là lý do trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã thẳng thắn cho họ biết rằng: "các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người'".

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay hoàn toàn không nhắc gì tới thành phần giả hình đã bắt bẻ các môn đệ của Người về việc các vị không rửa tay trước khi ăn uống, mà nhấn mạnh riêng đến các môn đệ của Người, như thể Người sợ các vị bị ảnh hưởng "men" giả hình (xem Luca 12:1) của thành phần đạo hạnh trí thức giữ luật và dạy luật ấy.

 

 

Bởi thế, ngay sau khi Người đính chính công khai với dân chúng về "những gì từ con người ta xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế", Người mới lợi dụng cơ hội chính các tông đồ tí nữa đã bị tác dụng của men giả hình, ở chỗ các vị đã không thật sự nắm bắt được tất cả ý nghĩa sâu xa của những gì Thày của các vị vừa khẳng định với chung dân chúng. Điều này chứng tỏ thành phần môn đệ tông đồ của Chúa Giêsu thật sự là kém trí thức và đơn sơ thật thà đến dễ bị lôi kéo theo tự nhiên, theo gương mù gương xấu mà không biết. Đó là lý do Chúa Giêsu đã giải thích thêm cho các vị về cả về tiêu cực lẫn tích cực như sau:

 

 

"Các con không hiểu rằng tất cả những gì từ bên ngoài vào trong con người không thể làm cho người ta ra ô uế được, vì những cái đó không vào trong tâm trí, nhưng vào bụng rồi xuất ra. Những gì ở trong người ta mà ra, đó là cái làm cho người ta ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho ngươì ta ô uế".


Nghĩa là: 1- Cái xấu từ trong mà ra chứ không phải từ ngoài mà vào; 2- Cái xấu là những gì liên quan đến nội tâm của con người, đến luân lý, đến tội lỗi của con người chứ không phải đến chính sự vật hay sự việc khách quan bên ngoài, cho dù chúng có là gương mù gương xấu là những gì không thể nào không xẩy ra trên thế gian này (xem Mathêu 18:7); 3- Cái xấu là do con người tạo nên chứ không phải từ Thiên Chúa, là do ý con người muốn những gì không đúng ý Chúa, không hợp ý Chúa, phạm đến luật Chúa, trái với lương tâm, hại tới công lý, và chính vì thế mà đó là lý do Chúa Kitô đã bảo móc mắt và chặt tay nếu chúng nên dịp tội cho mình (xem Mathêu 5:29-30).


Nguyên tắc cái xấu là những gì liên quan đến nội tâm của con người và do nội tâm của con người gây ra hoàn toàn trái với ý muốn vô cùng khôn ngoan và hoàn thiện của Thiên Chúa như thế là những gì đã có ngay từ đầu ở trong Vườn Địa Đường, lúc mà Thiên Chúa mới dựng nên loài người, khi Người, trong Bài Đọc 1 hôm nay, phán cùng nguyên tổ của chúng ta như đặt giới hạn giữa Ngài là Đấng vô hạn và con người là tạo vật hữu hạn của Ngài rằng: "Ngươi được ăn mọi thứ trái cây trong vườn, nhưng chớ ăn trái cây biết lành dữ, vì ngày nào ngươi ăn nó, ngươi sẽ phải chết".


"Cây biết lành biết dữ"
đây là gì nếu không phải là một hình ảnh tượng trưng cho lương tâm của con người, một lương tâm được Thiên Chúa đặt vào (build-in) trong con người là loài linh ư vạn vật để làm địa bàn hướng dẫn họ trong việc làm lành lánh dữ theo đúng như ý muốn thần linh của Ngài. Con người không được đụng đến lương tâm, bằng không, họ sẽ phải chết khi phạm đến lương tâm, nghĩa là làm mất lòng Chúa, mất ơn nghĩa với Ngài, khi họ gạt bỏ tiếng lương tâm mà theo ý riêng của mình, để thỏa mãn những gì mình thích và mình muốn, cho dù là tốt mấy chăng nữa, lợi mấy chăng nữa theo ý nghĩ chủ quan của họ, nhưng trái với ý muốn của Thiên Chúa. 

 



Thứ Năm


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm I) St 2, 18-25

"Người dẫn bà đến trước Ađam. Và cả hai nên một thân thể".

Bài trích sách Sáng Thế.

Thiên Chúa phán: "Ðàn ông ở một mình không tốt, Ta hãy tạo dựng cho nó một nội trợ giống như nó".

Sau khi lấy bùn đất dựng nên mọi thú vật dưới đất và toàn thể chim trời, Thiên Chúa dẫn đến trước mặt Ađam để coi ông gọi chúng thế nào, và sinh vật nào Ađam gọi, thì chính đó là tên nó.

Ađam liền đặt tên cho mọi súc vật, chim trời và muông thú.

Nhưng Ađam không gặp một người nội trợ giống như mình.

Vậy Thiên Chúa khiến cho Ađam ngủ say, và khi ông đang ngủ, Người lấy một xương sườn của ông, và đắp thịt lại.

Thiên Chúa làm cho chiếc xương sườn đã lấy từ Ađam trở thành người đàn bà, rồi dẫn đến Ađam.

Ađam liền nói: "Bây giờ đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là người nữ, vì bởi người nam mà ra".

Vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể.

Lúc ấy cả hai người, tức Ađam và vợ ông, đều khỏa thân mà không hề xấu hổ.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 127, 1, 2-3, 4-5

Ðáp: Phúc cho ai biết kính sợ Chúa. (1)

Xướng 1) Phúc cho ai biết kính sợ Chúa, và bước đi trong đường lối Người. Ngươi sẽ hưởng công khó của tay ngươi, ngươi có phúc và sẽ được may mắn. - Ðáp.

2) Vợ ngươi như cây nho sai trái, trong nội cung gia thất nhà ngươi. Con cái ngươi như chồi non cây dầu ở chung quanh bàn ăn của ngươi. - Ðáp.

3) Ðó là ơn phúc lành, cho người kính sợ Chúa. Từ Sion xin Chúa chúc lành cho ngươi. Chúc ngươi thấy Giêrusalem thịnh đạt suốt mọi ngày trong đời sống của ngươi. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sam 3,9

Alleluia, alleluia - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 7, 24-30

"Những con chó ở dưới gầm bàn cũng ăn những mụn bánh rơi của con cái"

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt Tyrô và Siđon. Vào một nhà kia, Người không muốn ai biết mình, nhưng người không thể ẩn náu được. Vì ngay lúc đó, một bà kia có đứa con gái bị thần ô uế ám, bà nghe nói về Người liền đến phục lạy Người.

Bà đó là người dân ngoại, dòng giống Syrôphênixi và bà xin Người trừ quỷ ra khỏi con bà.

Người nói: "Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó".

Nhưng bà trả lời và thưa Người rằng: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái".

Người liền nói với bà: "Vì lời bà nói đó, bà hãy về; quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi".

Khi bà về đến nhà, thì thấy cô gái nhỏ nằm trên giường và quỷ đã xuất rồi.

Ðó là Lời Chúa.

 

Image result for Mark 7, 24-30

 

Suy niệm

 

 

Con người như con chó

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm Tuần V thường niên theo Thánh ký Marco cũng giống bài Phúc Âm theo Thánh ký Mathêu cho Thứ Tư trong Tuần XVIII Thường Niên, về việc Chúa Giêsu chữa cho con gái của người đàn bà xứ Canaan được khỏi bị quỉ ám, một người đàn bà dân ngoại nhưng có một đức tin đầy ma lực đến độ "muốn gì đưc nấy" (Phúc Âm Thánh Mathêu). 


Thế nhưng, để có một đức tin "muốn gì được nấy" này, người đàn bà ngoại bang Cannan "có đứa con gái bị thần ô uế ám, bà nghe nói về Người liền đến phục lạy Người"  này đã phải trải qua một một cơn thử thách phải nói là khủng khiếp, một trận đấu sinh tử, trận đấu thập tử nhất sinh, liên quan đến sắc tộc của bà cũng như đến chính phẩm giá của bà.


Cuộc thử thách đức tin liên quan đến sắc tộc của người đàn bà Canaan, như Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại: "Các môn đệ đến gần Người mà rằng: 'Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi'. Người trả lời: 'Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel'". Qua câu trả lời cho các môn đệ này, Chúa Giêsu như muốn nói rằng chỉ có dân Do Thái của Người là nhất, còn các dân ngoại chỉ là đồ thứ yếu, không đáng chú trọng cho bằng dân Do Thái. 


Cuộc thử thách đức tin liên quan đến phẩm giá làm người của người đàn bà "là người dân ngoại, dòng giống Syrôphênixi và bà xin Người trừ quỷ ra khỏi con bà". Theo Thánh ký Mathêu thì sau khi bà ta "đến lạy Người mà nói: 'Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi'", một câu không có trong Phúc Âm Thánh ký Marco, nhưng cả hai Thánh ký đều thuật lại cùng một câu trả lời giống nhau của Chúa Giêsu cho người đàn bà phục lạy van xin khốn khổ này: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó'". Tuy nhiên Thánh ký Marco còn thêm câu trước đó là: "Hãy để con cái ăn no trước đã".

 

 

Đến đây, bị chạm tự ái như thế, bị coi như loài chó như vậy, không biết có ai còn nhẫn nại để tiếp tục với con người khinh bỉ mình và chửi mình như thế nữa hay chăng, hay là, gặp phải con người thời đại tột đỉnh văn minh và văn hóa ngày nay trọng quyền làm người hơn tình làm người, chắc chắn họ sẽ điên tiết quại lại bằng một câu hùng hổ nào đó như: "Này, ông đừng có tưởng rằng ông ngon lắm nghe, không đáp ứng những gì tôi xin thì thôi, chứ đừng có mà khinh bỉ tôi quá như vậy nhé. Tôi cóc cần ông nữa".  


Thế nhưng, cho dù người đàn bà Canaan bị một độc chưởng vô cùng lợi hại chỉ từ chết tới bị thương như vậy mà bà chẳng những vẫn không hề hấn gì, trái lại, bà còn tung lại một tuyệt chiêu vô cùng ngoạn mục: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái"một tuyệt chiêu đã làm cho đối thủ vô địch của bà đành chào thua bà lập tức"Người liền nói với bà: 'Vì lời bà nói đó, bà hãy về; quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi'". Qua câu nói này Chúa Giêsu dường như muốn nói với bà rằng: "Chính đức tin của bà đã trừ quỉ cho con bà rồi đó".


Điều duy nhất người đàn bà ngoại bang Canaan này muốn đó là làm sao để người con gái của bà khỏi "bị quỷ ám khốn cực lắm" (Thánh ký Mathêu), đến độ, bà cảm thấy cái khổ của chính con bà như là của bà, nên bà đã xin Chúa Giêsu thương chính bản thân bà chứ không phải là đứa con gái của bà: "Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi" (Thánh ký Mathêu). Để rồi, nhờ đức tin "muốn gì được nấy" của bà mà thành quả gặt hái được đó là, theo Thánh ký Mathêu: "ngay lúc đó, con gái bà đã được lành", hay theo Thánh ký Marco: "Khi bà về đến nhà, thì thấy cô gái nhỏ nằm trên giường và quỷ đã xuất rồi".

 

 

Nếu so sánh với đức tin của các tông đồ trong biến cố bị bão tố trên biển hồ và tông đồ Phêrô đi trên nước đến cùng Thày, thì quả thật nhân vật ma nữ cao thủ đức tin này đã hoàn toàn trổi vượt, ở chỗ, cho dù Chúa có tiếp tục chơi trò ma quái với cả bà là một kẻ thuộc dân ngoại chăng nữa, bà chẳng những đã không cảm thấy bị Người nát đến hoảng sợ thế nào, trái lại, còn nhìn thẳng vào Người, nên đã không bị chìm xuống như tông đồ Phêrô - Như thế phải chăng ma nữ cao thủ đức tin này chẳng những đi trên mặt nước mà còn bay trên mặt nước, bất chấp bão tố còn dữ dội kinh hoàng về tinh thần hơn là thứ phong ba bão tố về thể lý thử thách các tông đồ!?!

 

Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại sự kiện Adong nhận biết người nữ xuất thân từ chính bản thân mình và vì thế đã đi đến chỗ gắn bó nên một với nàng: "'Bây giờ đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là người nữ, vì bởi người nam mà ra'. Vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể".

 

Nếu phụng vụ lời Chúa phải liên hệ với nhau, ít là  giữa hai bài đọc chính là Bài Đọc 1 và Bài Phúc Âm của từng ngày thì sự kiện trên đây của Bài Đọc 1 về sự kiện Adong nhận ra người nữ xuất thân từ mình, có tất cả những gì là của mình và đã gắn bó với nàng có liên hệ gì tới sự kiện người đàn bà ngoại giáo xin Chúa Giêsu trừ thần ô uế cho đứa con gái bị ám của bà ấy hay chăng? Nếu có thì ở chỗ nào?? Phải chăng ở chỗ Chúa Giêsu nhận thấy tất cả những gì nơi người phụ nữ ngoại lai này mà Người mong muốn là đức tin mãnh liệt của bà nơi Người nên Người đã đáp ứng làm theo ý nguyện của bà!

 



Thứ Sáu


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm I) St 2, 18-25

"Các ngươi sẽ biết thiện ác như thần thánh".

Bài trích sách Sáng Thế.

Con rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi dã thú mà Thiên Chúa tạo thành.

Nó nói với người nữ rằng: "Có phải Thiên Chúa đã bảo: "Các ngươi không được ăn mọi thứ cây trong vườn?"

Người nữ trả lời con rắn: "Chúng tôi được ăn trái cây trong vườn; nhưng trái cây ở giữa vườn, thì Thiên Chúa bảo: "Các ngươi đừng ăn, đừng động tới nó, nếu không, sẽ phải chết".

Rắn bảo người nữ: "Không, các ngươi không chết đâu. Nhưng Thiên Chúa biết rằng ngày nào các ngươi ăn trái ấy, mắt các ngươi sẽ mở ra, và các ngươi sẽ biết thiện ác như thần thánh".

Người nữ thấy cây đẹp mắt, ngon lành và thèm ăn để nên thông minh.

Bà hái trái cây ăn, rồi lại đưa cho chồng, người chồng cũng ăn. Mắt họ liền mở ra và họ nhận biết mình trần truồng, nên kết lá vả che thân.

Bấy giờ hai người nghe tiếng Thiên Chúa đi trong vườn địa đàng lúc chiều mát.

Ađam và vợ ông liền núp trong lùm cây trong vườn địa đàng cho khuất mặt Thiên Chúa.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 31, 1-2, 5, 6, 7

Ðáp: Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm. (1a)

Xướng 1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian! - Ðáp.

2) Tôi xưng ra cùng Chúa, tội tôi đã phạm, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: "Tôi thú thực cùng Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho tôi. - Ðáp.

3) Bởi thế nên mọi người tín hữu sẽ nguyện cùng Chúa, trong thời buổi khốn khó gian truân. Khi sóng cả ba đào ập tới, chúng sẽ không hại nỗi những người nầy. - Ðáp.

4) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia - Lạy Chúa, xin dạy bảo tôi về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn tôi trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 7, 31-37

"Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh.

Người ta đem đến cho Người một kẻ điếc và xin Người đặt tay trên kẻ ấy.

Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh.

Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là "hãy mở ra", tức thì tai anh được sõi sàng.

Chúa Giêsu liền cấm họ: đừng nói điều đó với ai cả.

Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn.

Họ đầy lòng thán phục, mà rằng: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".

Ðó là Lời Chúa.


 

 

Suy niệm

 

 

Lưỡi Điếc

 

Hôm nay, Thứ Sáu Tuần V Thường Niên, Thánh ký Marco thuật lại cho chúng ta biết sự kiện "Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh", nơi "người ta đem đến cho Người một kẻ điếc và xin Người đặt tay trên kẻ ấy" "Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh. Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là "hãy mở ra", tức thì tai anh được sõi sàng". Sau khi chữa lành cho nạn nhân bị điếc, "Chúa Giêsu liền cấm họ: đừng nói điều đó với ai cả. Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục, mà rằng: 'Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được'".

 

Ở đây, căn cứ vào những gì được Thánh ký Marco thuật lại trong Bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta có thể suy ra mấy điều chính yếu sau đây:

 

1- Nạn nhân bị điếc chắc từ thuở mới sinh, hay từ khi còn rất nhỏ. Bởi thế, nạn nhân chẳng những bị điếc mà còn bị câm nữa. Bởi, theo tự nhiên, người câm không thể nói được thường là vì bị điếc, không nghe thấy gì nên chẳng biết nói. Câm điếc đi với nhau là như thế. Tại sao chúng ta dám khẳng định nạn nhân bị điếc trong bài Phúc Âm đồng thời cũng bị câm?

 

2- Xin thưa, có hai lý do, một liên quan đến cử chỉ chữa lành của Chúa Giêsu và một liên quan đến nhận định của dân chúng. Trước hết, Chúa Giêsu khi chữa lành cho nạn nhân, Người chẳng những "đặt ngón tay vào tai anh" mà còn "bôi nước miếng vào lưỡi anh"; sau nữa, trong lời dân chúng thán phục Người có bao gồm cả nghe và nói: "Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".

 

3- Về cách chữa lành cho nạn nhân bị câm điếc trong Bài Phúc Âm hôm nay cũng rất ư lạ lùng. Thật ra Chúa Giêsu chỉ cần phán một lời là xong. Trong trường hợp trừ thần ô uế cho đứa con gái của bà mẹ ngoại giáo ở Bài Phúc Âm hôm qua cho thấy Người chẳng cần đến gặp em mà em cũng thoát bị quỉ ám. Hay Người chỉ cần làm cử chỉ như dân chúng mang nạn nhân bị điếc đến cho Người là "xin Người đặt tay trên kẻ ấy". Vậy thì những cử chỉ Chúa Giêsu tỏ ra có vẻ phức tạp trong bài Phúc Âm hôm nay chắc hẳn phải có một ý nghĩa sâu xa nào đó?

 

4- "Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh. Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là 'hãy mở ra'". Cử chỉ của Chúa Giêsu trong việc chữa lành cho nạn nhân bị câm điếc này bao gồm 3 tác động rõ ràng: 1- "Người đem anh ta ra khỏi đám đông"; 2- "đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh"; 3- ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là 'hãy mở ra'".

 

5- Ba tác động chữa lành này của Chúa Giêsu có liên hệ chặt chẽ với nhau ở trường hợp Người chữa lành cho nạn nhân bị câm điếc trong Bài Phúc Âm hôm nay: Trước hết, Người đem nạn nhân bị điếc ra khỏi đám đông, một tác động tỏ ra Người trân trọng từng con người một, nhất là con người bất hạnh xấu số hơn "đám đông", để Người có thể đáp ứng khát vọng và nhu cầu của từng con người cần Người cứu giúp tùy từng trường hợp.

 

6- Đối với trường hợp của nạn nhân bị điếc và vì thế cũng bị câm, Chúa Giêsu đã thực hiện tác động trực tiếp đến tật nguyền của nạn nhân, đó là "đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh". "Ngón tay" của Người đây ám chỉ Thần Linh (xem Mathêu 12:28 và Luca 11:20), tức "Thần Chân Lý" là Đấng làm cho con người nhận biết chân lý qua việc nghe biết (xem Gioan 16:13), bởi thế Người mới đặt "ngón tay vào tai anh" chứ không vào bất cứ chỗ nào khác, như vào đầu anh ta hay vào trán anh ta. Còn "lưỡi anh" thì được Người "bôi nước miếng" của Người, những gì xuất phát ra từ miệng của Người, như ám chỉ lời của Người, một lời quyền năng có thể đâm thủng hồn thiêng và xương tủy của con người ta (xem Do Thái 4:12). Chính vì thế mà ngay sau đó Chúa Giêsu đã sử dụng đến lời của Người để hoàn tất việc chữa lành: "hãy mở ra".

 

7- Việc chữa lành của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm nay có tính cách bí tích. Bởi các Bí Tích Thánh do chính Người thiết lập bao giờ cũng có 2 yếu tố chính yếu bất khả thiếu và bất khả phân ly, đó là chất thể (matter) và mô thể (form). Chẳng hạn như Bí Tích Thánh Tẩy phải hội đủ chất thể là nước và mô thể là câu "tôi rửa anh/chị/em nhân danh Cha và Con và Thánh Thần", hay như Bí Tích Thánh Thể phải hội đủ chất thể là bánh không men và rượu nho cùng mô thể là lời Truyền Phép trên Bánh và Rượu. Trong phép lạ chữa lành nạn nhân bị điếc ở Bài Phúc Âm hôm nay cũng thế: chất thể là "nước miếng" của Người được bôi lên lưỡi của nạn nhân bị điếc, và mô thể là lời "Ephrata - hãy mở ra".

 

8- Việc chữa lành cho nạn nhân bị điếc trong Bài Phúc Âm hôm nay chẳng những có tính cách bí tích mà còn có tính cách thiêng liêng nữa. Ở chỗ, "ngón tay" của Người ám chỉ Thần Chân Lý, và "nước miếng" của Người ám chỉ Lời của Người. Bởi thế, việc Người chữa lành cho nạn nhân bị điếc ở Bài Phúc Âm hôm nay không phải chỉ để cho anh ta có thể nghe thấy những tiếng nói của đám đông, và vì thế anh ta có thể bị ảnh hưởng và bị lôi cuốn bởi đám đông vốn chiều theo thế gian và những gì bất chính, mà là để cho anh ta nghe thấy Lời Chúa, nghe tiếng lương tâm chân chính mà sống đúng với ý muốn của Thiên Chúa nhờ đó mà được cứu độ. Bằng không, một khi tai đã nghe thấy có thể trở thành dịp tội cho chính nạn nhân, như trường hợp của hai nguyên tổ trong Bài Đọc 1 hôm nay.

 

Thật vậy, hai nguyên tổ loài người, ngay từ khi mới được tạo dựng nên, ở trong tình trạng công chính nguyên thủy, cả hồn lẫn xác đều tuyệt vời tốt đẹp, chứ không bị điếc như nạn nhân trong Bài Phúc Âm hôm nay. Ấy thế mà, cho dù có tai lành mạnh đã nghe rõ ràng lệnh Thiên Chúa cấm "Các ngươi đừng ăn, đừng động tới nó, nếu không, sẽ phải chết", đúng như nữ nguyên tổ đã nhắc cho rắn quỉ cám dỗ Satan biết, thế mà vẫn bị sa ngã, bao gồm cả chồng bà là Adong, người có tai lành mạnh hơn bà đấy nhưng cũng mù quáng đã nghe theo lời vợ cám dỗ: "Bà hái trái cây ăn, rồi lại đưa cho chồng, người chồng cũng ăn".

 

Như thế, hai nguyên tổ đã bị khuyết tật về tai ngay trước nguyên tội, ở chỗ không nghe tiếng Thiên Chúa mà chỉ nghe lời rắn quỉ. Tuy nhiên, không phải vì thế mà các vị hoàn toàn bị điếc, các vị cùng lắm chỉ bị hễnh hãng thôi. Nói đúng hơn cái tai của các vị bị dị ứng với Lời Chúa và thích thú nghe tiếng quỉ vì những lời của nó hợp với con người hơn là Lời Chúa đầy khó khăn cấm đoán hạn chế. Thế nhưng, trường hợp của các vị vẫn còn có thể cứu được. Ở chỗ, các vị vẫn còn "nghe tiếng Thiên Chúa đi trong vườn địa đàng lúc chiều mát", chứ chưa hoàn toàn bị điếc, bởi vẫn còn tỏ ra sợ hãi Đấng đã dựng nên mình sau khi phạm tội mất lòng Ngài: "Ađam và vợ ông liền núp trong lùm cây trong vườn địa đàng cho khuất mặt Thiên Chúa".

 

THÁNH CYRILLO VÀ MÊTHÔĐÔ

Toàn cầu: Lễ Kính – Ở Âu châu: Lễ Buộc

14/2

Ngày 14 tháng 2  THÁNH SY-RI-LÔ ĐAN-SĨ  THÁNH MÊ-TÔ-ĐI-Ô GIÁM MỤC

  1. Ghi nhận lịch sử – Phụng vụ

Ngày lễ Kính thánh Cyrillô và Mêthôđô, được kính như các Tông đồ dân Slavơ và được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố năm 1980, như thánh Quan thầy Âu châu, cùng tước hiệu với thánh Bênêđictô, trùng với ngày qua đời của thánh Cyrillô, khi đến Rôma vào ngày 14.02.869.

Trong thế kỷ IX, Hội Thánh đã trải rộng khắp miền Đông Âu châu và trong vùng vịnh Địa Trung Hải, và bây giờ lại bành trướng sang những chân trời mới. Các dân tộc Slavơ tiếp nhận Tin Mừng được hai nhà đại truyền giáo đem đến: Là thánh Cyrillô và Mêtôđô. Các ngài sinh tại Thêxalônica (Đông Bắc Hy Lạp), được Hội Thánh chính thống Byzantium (Đế quốc La Mã phương Đông) sai đi rao giảng Tin Mừng Moravia (Vùng đất phía Đông của Cộng hòa Séc ngày nay) và đã gặt hái được những thành công.

Trước khi đi truyền giáo vùng Moravia, Méthôđô là Tổng trấn một tỉnh người Slavơ và Cyrillô, nhỏ tuổi hơn, nhưng lại sáng chói hơn, đã chu toàn những sứ vụ tôn giáo và ngoại giao quan trọng. Cả hai nói lưu loát tiếng Slavơ.

Sứ vụ làm cho hai vị nổi tiếng là sứ vụ do Thượng phụ Photios sai đi từ năm 862-963 với mục đích dạy dỗ và Phúc Âm hóa dân Slavơ ở Moravia trong ngôn ngữ của họ. Vì thế Cyrillô và Mêthôđô bắt đầu dạy ngữ vựng đầu tiên, được gọi là “Cyrillique” và họ cũng đã dịch các văn bản tôn giáo ra tiếng Slavơ: Thánh vịnh, các Phúc Âm, các thư Tông đồ, kinh nguyện…

Để ghi chép tiếng của các dân tộc này và viết lại Kinh Thánh bằng tiếng nói của họ, hai anh em ruột đi truyền giáo này đã hoàn thành bảng mẫu tự mới. Trong ngôn ngữ Slavơ, các ngài không những đã cử hành phụng vụ, mà còn thiết lập một nền tảng cho nền văn hóa Kitô hữu mới. Những khó khăm nghiêm trọng, nhất là cuộc chiến tranh giữa những người Đức và những người Slavơ, đã gây cản trở cho việc Tông đồ của các ngài. Đàng khác Giáo hội Byzantin không nâng dỡ đủ mức cho công cuộc truyền giáo nên các ngài đã kêu xin sự trợ giúp và nâng đỡ từ Giáo Hội Rô-ma. Đức Thánh Cha Ađrianô II đã chấp thuận công cuộc truyền giáo và phương pháp mục vụ của các ngài. Thánh Cy-ril-lô qua đời tại Rôma năm 869; thánh Mêtôđô sau khi được tấn phong Giám mục tại Rôma, đã trở lại rao giảng Tin Mừng và sẵn sàng chịu đựng biết bao mệt nhọc ghê gớm ở cả một miền truyền giáo mênh mông gồm Cộng hòa Séc, Cộng hòa Slovác, và hầu như toàn bộ vùng Nam Tư cũ như Slovenia và Croatia.

Truyền thuyết nói rằng, trong một giai đoạn cực kỳ hăng say, Ðức Mêthôđiô đã chuyển dịch toàn bộ Phúc Âm sang tiếng Slavơ chỉ trong vòng tám tháng. Ngài từ trần vào ngày thứ Ba Tuần Thánh, với các môn đệ tụ tập chung quanh. Sau khi Thánh Mêthôđiô qua đời năm 885 tại Veherad thuộc Tiệp Khắc, sự chống đối vẫn chưa dứt, và công trình của hai anh em thánh nhân ở Moravia đã đi vào chỗ tận tuyệt, các môn đệ của hai ngài phải phân tán khắp nơi. Nhưng sự trục xuất ấy đã có ảnh hưởng tốt đẹp trong việc phổ biến các công trình về phụng vụ, về tâm linh và văn hóa của hai anh em thánh nhân đến các vùng Bulgaria, Bohemia và nam Ba Lan.

Sau cái chết của người em, Méthôđô được gọi làm Giám mục ở Pannonie và Sứ thần Toà Thánh cho dân Slavơ; ngài gặp nhiều khó khăn do sự chống đối của hàng giáo sĩ Đức; nhưng điều này không ngăn cản được công trình Phúc Âm hoá và hội nhập văn hóa mà ngài đã theo đuổi cho đến chết (885).

Các môn đệ ngài đã rao giảng Tin Mừng miền Bohême, ông hoàng Bozyvojd được rửa tội theo nghi thức Slavơ, sau đó là dân Serbie và Lusace (vùng Croatia), tiếp đến là Ba Lan, Bulgarie, Roumanie và vùng Kiev.

Với công trình như thế, chúng ta mới thấy được công khó của hai thánh Cyrillô và Mêthôđô trong việc thiếp lập các cộng đoàn Kitô giáo trong nhiều vùng Đông Âu. Việc này đã tạo một bước tiến để thành lập Âu châu, không những về mặt tôn giáo, nhưng cả về mặt chính trị và văn hóa.

Mỹ thuật trình bày thánh Cyrillô với bản ngữ vựng, và thánh Mêthôđô với một quyển Phúc Âm mở ra, được ghi bằng tiếng Slavơ.

  1. Thông điệp và tính thời sự

Thánh Cyrillô ngã bệnh và biết trước giây phút cuối cùng của mình, vẫn nhận ra ơn gọi cao cả: “Xưa tôi chưa hiện hữu, bây giờ tôi đã hiện hữu và tôi sẽ hiện hữu mãi mãi.” Ngài cầu nguyện cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin gìn giữ đàn chiên trung thành này… Xin triển khai Giáo hội với số lượng cao và qui tụ mọi thành phần vào trong sự hiệp nhất. Xin thu tóm tất cả thành một dân được tuyển chọn, kết hiệp mọi người trong đức tin và giáo lý chính thống…” (Phụng vụ giờ Kinh).

Được giao nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô, Cyrillô và Mêthôđô đã giảng dạy “Đức tin chân thật và giáo lý chính thống”, nhưng hai ngài còn hoàn tất công tác Phúc Âm hóa khi hội nhập sứ điệp Kitô giáo vào trong văn hóa các dân Slavơ. Nhờ thế, khi công trình của hai vị được hoàn tất, đã cho phép ngôn ngữ Slavơ xứng đáng trở thành văn tự phổ biến. Nhờ việc đề cao ngôn ngữ và văn hóa, các dân tộc Slavơ đã có thể chống cự lại thứ chính trị thống trị và đồng hóa của người Đức và người Hy Lạp.

Công trình của Cyrillô và Mêthôđô vô cùng to lớn, đánh dấu bằng sự can đảm trí thức và sự khiêm tốn, vì trong thời gian mà người ta chỉ được cầu nguyện ca tụng Thiên Chúa bằng tiếng Do Thái, Hy Lạp hay Latinh, hai vị thánh Tông đồ của dân Slavơ đã đáp trả bằng tiếng Slavơ, và qua đó cho thấy mọi người có thể đến gần với Thiên Chúa bằng ngôn ngữ của mình.

Bên cạnh các tác phẩm tôn giáo, cả hai đã dịch và suy diễn “Bộ luật Justinien”, được xem như bộ luật cổ nhất của Slavơ (Zakon Sudnyj). Người ta cũng cho rằng thánh Mêthôđô đã dịch quyển Nomokanon [Luật của Giáo hội], thu tập các luật Giáo hội và luật dân sự Byzantin.

Phúc Âm được chọn cho Thánh lễ này là dụ ngôn người gieo giống (Mc 4,1-20). Các khó khăn mà vị Tông đồ đã phải gánh chịu (Mêthôđô cũng đã phải vào tù) không ngăn cản được hạt giống rơi vào đất tốt và mang lại nhiều hoa trái.

Công trình Phúc Âm hóa vẫn chưa kết thúc. Chính vì thế Hội Thánh, trong ngày lễ kính hai vị thánh Tông đồ này, đã hát trong Thánh lễ Thánh vịnh 95: Từ ngày này sang ngày khác, hãy công bố ơn cứu độ của Người / hãy thuật lại cho muôn dân vinh quang của Người / cho muôn dân kỳ công của Người. Chúng ta có thể nhắc lại những lời cuối cùng của Cyrillô nói với anh mình là Mêthôđô: “Anh ơi, chúng ta đã chia sẻ cùng một số phận, cùng dắt một cái cày trên cùng một luống. Em biết anh vẫn thích Núi thánh của anh (sự cô tịch), nhưng đừng bỏ trách nhiệm giảng dạy để trở về với núi đó. Thật vậy, anh tìm được nơi nào để hoàn tất ơn cứu độ của anh?”

 

Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB

http://loichua.donboscoviet.org/ngay-14-thang-2-thanh-cyrillo-va-thanh-methodio/

 

Thánh Sy-ri-lô và Mê-tô-đi-ô là hai anh em ruột, sinh tại Tê-xa-lô-ni-ca, trong một gia đình quyền quý đạo giáo.

Lớn lên, hai anh em theo học tại Công-tăn-ti-nốp. Và sau khi tốt nghiệp, các ngài đã chiếm địa vị cao trong xã hội. Nhưng các ngài đã từ bỏ hư danh trần thế, dâng mình đi tu làm linh mục, phụng sự Chúa và phục vụ các linh hồn.

Lúc đó, vua nước Mô-ra-vi mến mộ đạo Chúa, tin các vị thừa sai và mời vào nước giảng đạo. Hai anh em Sy-ri-lô và Mê-tô-đi-ô biết tiếng Sla-vơ, nên được chọn đến rao giảng Tin Mừng cho nước này, Các ngài sốt sắng nhiệt thành rao giảng đạo Chúa, đem nhiều người trở lại đạo.

Để giúp họ dễ dàng học hỏi giáo lý và tham dự các Bí tích nhất là Thánh lễ, các ngài dịch Kinh Thánh và các bản văn phụng vụ ra tiếng Sla-vơ. Và vì họ chưa có chữ viết nên thánh Sy-ri-lô sáng tạo ra 38 chữ cái cho họ viết.

Nhờ đó, người theo đạo Chúa ngày càng đông, nhất là tham dự Thánh lễ đông hơn các nhà thờ hành lễ bằng tiếng Latin. Các linh mục theo La Ngữ thấy vậy thì tố cáo các ngài lạc đạo, buộc lòng các ngài phải đến Roma biện minh với Đức Giáo Hoàng.

Đức Giáo Hoàng chấp nhận bản dịch của các ngài. Nhưng trong lúc ở đó, thánh Sy-ri-lô lâm bệnh và qua đời, ngày 14 tháng 2 năm 869. Trước khi chết, ngài sốt sắng cầu xin Chúa gìn giữ đoàn chiên ngài đã dày công sáng lập, và cho Hội thánh đồng tâm nhất trí và lan rộng khắp nơi. Ngài cầu nguyện: – Lạy Chúa là Thiên Chúa con, Chúa đã dựng nên các phẩm thiên thần và các đạo binh thần trí vô hình; Chúa đã mở rộng bầu trời và đã đặt đất trên nền tảng vững vàng. Chúa đã kéo mọi vật từ vô hữu sang hiện hữu. Chúa luôn luôn nghe lời những người làm theo ý Chúa. Xin Chúa nhậm lời con nguyện và gìn giữ đoàn chiên trung thành này mà Chúa đã đặt con đây là kẻ bất xứng lên đứng đầu. Xin Chúa cứu họ khỏi lòng độc dữ và ngoại đạo của những kẻ hằng lộng ngôn tới Chúa; Xin Chúa làm cho Hội thánh thêm đông số và đoàn tụ tất cả nên một. Xin Chúa làm cho Hội thánh trở thành dân được chọn, đồng tâm nhất trí trong đức tin chân thật và giáo lý chân chính; xin Chúa đặt lời giáo huấn của Chúa vào lòng họ; vì chính nhờ ơn Chúa, chúng con đã được lãnh nhận sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Đức Kitô, nhờ được khuyến khích làm các việc lành và mọi sự đẹp lòng Chúa.. Chúa dùng sức mạnh tay hữu Chúa mà hướng dẫn họ và cho họ nấp bóng Chúa, để mọi người ca ngợi Chúa và chúc tụng thánh danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen.

Đức Giáo Hoàng truyền cho mọi người Hy Lạp có mặt ở Rôma phải họp với dân thành Rôma cầm nến đi đưa đám ngài như có thói quen làm cho chính các vị Giáo Hoàng. Và mọi người đã làm như thế.

Còn lại thánh Mê-tô-đi-ô, ngài được Đức Giáo Hoàng phong chức Giám mục cai quản miền Mô-ra-vi và Pan-nô-ni.

Khi trở lại Mô-ra-vi, thánh nhân đã bị những người dâng lễ theo tiếng Latin bắt giam.. Và ngài đã qua đời tại đây ngày 6 tháng 4 năm 885.

* Quyết tâm: Noi gương thánh Sy-ri-lô và Mê-tô-đi-ô, hằng ngày lo giúp người dốt nát biết chữ, biết Chúa, và cầu nguyện cho Hội thánh là đoàn chiên Chúa ngày càng thêm đông số và hiệp nhất.

* Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dùng hai anh em thánh Sy-ri-lô và thánh Mê-tô-đi-ô để đưa các dân tộc Xi-la-vô-ni-a tới ánh sáng Tin Mừng. Xin mở lòng chúng con đón nhận Lời Chúa dạy, và biến đổi chúng con thành dân riêng của Chúa, luôn đồng tâm nhất trí với nhau để sống đức tin chân thật và thẳng thắn tuyên xưng.

GPVL

http://giaoxutanviet.com/ngay-14-thang-2-thanh-sy-ri-lo-dan-si-thanh-me-to-di-o-giam-muc/

 

Trong Tông huấn Đức Kitô đang sống, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắn nhủ các bạn trẻ rằng: Một số người trẻ đã hy sinh mạng sống của họ vì mục đích ra đi truyền giáo. Các bạn trẻ thân mến, đừng đợi đến ngày mai mới đóng góp năng lực - sự táo bạo và sự sáng tạo của các bạn để thay đổi thế giới của chúng ta. Tuổi trẻ của các bạn không phải là “một thời gian ở giữa.” Các bạn là hiện tại của Thiên Chúa, và Người muốn các bạn sinh hoa trái. Vì “lúc cho đi là lúc chúng ta nhận lãnh.” Cách tốt nhất để chuẩn bị một tương lai tươi sáng là trải nghiệm hiện tại bao nhiêu có thể, một cách dấn thân và rộng lượng.[1] Lời mời gọi này đưa dẫn chúng ta chiêm ngắm thánh Cyrillô và thánh Mêtôđiô khi Giáo hội đang mở rộng biên cương cho việc truyền giáo và cần lắm sự sáng tạo dấn thân táo bạo của những vị tiên phong như các ngài.

Hai anh em Cyrillô và Mêtôđiô sinh ở Thessalônica nước Hy Lạp. Mêtôđiô sinh năm 815 và Cyrillô sinh năm 827. Cả hai anh em đều trở thành linh mục và cùng có những ước muốn thánh thiện là rao giảng đức tin. Cả hai đã trở nên những nhà truyền giáo cho các dân tộc miền Đông và Trung Âu là Môravia, Bôhêmia và Bungari.[2] Cả hai đều dấn thân và hăng say trong sứ vụ dạy dỗ và Phúc Âm hóa dân Slavơ bằng ngôn ngữ của họ.

Do nhu cầu truyền giáo, nên thánh Cyrillô và thánh Mêtôđiô phát minh ra một bảng chữ cái Slavơ và đã chuyển dịch bộ Kinh Thánh và phụng vụ Giáo hội sang tiếng Slavơ. Nhờ việc này, những người thuộc ngôn ngữ Slavơ có thể tiếp nhận giáo lý Công giáo bằng những từ ngữ mà họ có thể hiểu được. Đây là một bước tiến không chỉ về mặt tôn giáo nhưng cả về mặt chính trị và văn hóa.

Rao giảng Tin Mừng trong môi trường sống của mình đã là một việc tốt trong vai trò làm con cái Chúa. Nhưng rao giảng Tin Mừng một cách quảng đại hơn, dấn thân hơn, táo bạo và sáng tạo hơn đó là việc làm đáng ca ngợi. Hai anh em thánh Cyrillô và thánh Mêtôđiô diễn tả ơn gọi của mình theo nghĩa chặt, đó là “phục vụ sứ mạng truyền giáo cho người khác.” Các ngài đã chia sẻ công trình sáng tạo của Chúa và đóng góp cho lợi ích chung bằng cách sử dụng các hồng phúc mà các ngài đã nhận được.[3]

Việc dấn thân phục vụ Chúa của thánh Cyrillô và thánh Mêtôđiô cho thấy: “Khi chúng ta khám phá ra Thiên Chúa đang kêu gọi chúng ta làm một điều gì đó, (…) chúng ta sẽ vận dụng các khả năng tốt nhất của chúng ta để hy sinh, quảng đại và cống hiến. Biết rằng chúng ta không làm các sự việc chỉ vì mục đích để làm chúng, mà đúng hơn, chúng ta đem đến cho chúng một ý nghĩa, như một đáp ứng đối với một lời kêu gọi đang vang lên trong thẳm sâu, chúng ta phải cung ứng một điều gì đó cho người khác...”[4] Con đường mà hai vị thánh đi đã để lại ý nghĩa cao đẹp cho chúng ta và những người trẻ hôm nay. Chu toàn sứ vụ thôi chưa đủ, dấn thân và mau mắn trong sứ vụ vẫn chưa đủ, cần phải nỗ lực sáng tạo, mở tung các cánh cửa mới và can đảm chấp nhận những lời phê bình chỉ trích của người đương thời. Hãy xem “Trong những thế kỉ qua, đã có những người đặt bước chân đầu tiên của họ trên những con đường mới; họ không được trang bị gì ngoài tầm nhìn riêng của họ. Họ có mục đích khác nhau, nhưng tất cả đều có một số điều chung: bước chân của họ là bước chân đầu tiên, con đường của họ là con đường hoàn toàn mới, nhãn quan của họ không hề do vay mượn, và phản ứng mà họ nhận được luôn là sự căm ghét… Nhưng những người đó, với tầm nhìn không vay mượn, vẫn tiếp tục tiến lên. Họ đã chiến đấu, họ đã đau khổ và họ phải trả giá. Nhưng họ đã chiến thắng.”[5]

Ngày 31/12/1980, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn nhận thánh Cyrillô và thánh Mêtôđiô làm quan thầy của Âu châu cùng với thánh Bênêđictô.

 Chúng  ta ngưỡng mộ hai vị thánh này và noi theo gương các ngài. Hãy xin các ngài phù hộ cho chúng ta lòng can đảm, quảng đại và sự dấn thân của các ngài để chúng ta phục vụ và làm sáng danh Chúa trong những nẻo đường mới cần đến con tim và khối óc của chúng ta. Amen

CÂU CHUYỆN VỀ THÁNH VALENTINE

Có thể bạn đã từng nghe câu chuyện này, nhưng chắc rằng không phải tất cả mọi người đều biết hết về câu chuyện của thánh Valentine, nếu các bạn muốn nghe câu chuyện này thì hãy để trí tưởng tượng của bạn bay bổng theo câu chuyện do chính thánh Valentine kể cho các bạn về điều gì đã xảy ra với ngài và tại sao trên khắp thế giới người ta lại kỷ niệm ngày lễ của Tình Yêu.

Tôi xin được tự giới thiệu về mình.  Tên của tôi là Valentine, là Giám mục sống ở Rome vào thế kỷ thứ 3.  Vào thời đó, Rome nằm dưới sự cai trị của Hoàng đế Claudius.  Tôi không thích Hoàng đế Claudius và mọi người dân thành Rome cũng không thích ông hoàng Claudius.

Vào thời đó, Hoàng đế Claudius muốn xây dựng một đội quân hùng mạnh.  Ông muốn tất cả đàn ông phải tham gia vào đội quân.  Nhưng đa số người dân không muốn chiến tranh, họ không muốn phải chém giết lẫn nhau và phải rời xa gia đình mình.  Và như các bạn có thể đoán, rất nhiều người đã không nhập ngũ.  Điều này làm Hoàng đế Claudius rất giận dữ.  Ông ta cho rằng nếu những người đàn ông không lấy vợ thì họ sẽ không phản đối việc tham gia vào quân đội.

Thế là, ông Hoàng Claudius quyết định không cho phép bất cứ một người đàn ông nào được kết hôn.  Những thanh niên trai tráng rất tức giận với cái luật mới này của ông ta.  Tôi cũng không ủng hộ luật này.  Bởi vì, các bạn có biết không, tôi là một linh mục và công việc yêu thích nhất của tôi là se duyên cho các cặp tình nhân đấy.  Vậy là, sau khi Hoàng đế Claudius ban hành điều luật của ông ta thì tôi vẫn tiếp tục đứng ra tổ chức các đám cưới và tất nhiên là một cách bí mật.  Mà điều này lại dường như là rất thú vị. Các bạn hãy tưởng tượng xem trong một không gian nhỏ với một cây nến chỉ có cô dâu, chú rể và tôi.  Tôi thì thầm đọc những lời nguyện cho đám cưới trong những tiếng bước chân rình rập của những tên lính.

Và một đêm khi đang làm đám cưới cho một đôi tình nhân tôi nghe thấy tiếng bước chân.  Thật là kinh hoàng.  Nhờ ơn Chúa, đôi tình nhân đã kịp trốn thoát, nhưng tôi đã bị bắt (có lẽ tại bước chân của tôi đã không còn nhanh nhẹn như trước đây).  Tôi bị đưa ra toà và bị kết án tử hình.  Những ngày còn lại trong tù chờ án tử hình tôi cố gắng sống một cách vui vẻ.  Các bạn có biết điều gì xảy ra với tôi không? Mọi việc thật là tuyệt vời.  Rất nhiều thanh niên đã đến nhà tù để thăm tôi.  Họ ném hoa và những lá thư qua cửa sổ cho tôi.  Họ muốn tôi biết rằng họ sẽ luôn luôn tin vào tình yêu.  Một cô gái em của người cai tù được anh trai cho phép cô vào nhà tù thăm tôi.  Chúng tôi đã ngồi và nói chuyện với nhau hàng giờ liền.  Cô gái đã giúp tôi luôn giữ vững tinh thần.  Vào ngày tôi phải lên đoạn đầu đài, tôi đã chuyển một lá thư cảm ơn đến cô gái vì tình bạn và lòng trung thành mà cô gái đã dành cho tôi, và tôi ký dưới bức thư dòng chữ: “Tình yêu của Valentine dành cho con.”  Tôi tin rằng lời nhắn ấy đã dẫn đến phong tục trao đổi những bức thông điệp tình yêu vào ngày Valentine.

Bức thông điệp của tôi được viết vào ngày 14 tháng 2 năm 269 sau Công nguyên.  Giờ đây, hàng năm vào ngày này mọi người lại tưởng nhớ tôi, nhưng tôi cho rằng điều quan trọng nhất là mọi người luôn nghĩ về tình yêu và tình bạn vào ngày này.  Và mọi người nghĩ đến Hoàng đế Claudius, người đã cố sức ngăn cản tình yêu nhưng tình yêu đã luôn luôn chiến thắng.  Khoảng hai thế kỷ sau đó, vào năm 496 sau Công nguyên, Giáo Hoàng Gelaius đã quyết định lấy ngày 14-2 là ngày lễ cho các cặp tình nhân gặp gỡ và tìm bạn trăm năm và ông đã chọn một Thánh để đại diện cho những người yêu nhau.  Giám mục Valentine đã được chọn là Thánh quan thầy của Lễ hội này.  Bây giờ bạn đã biết được câu chuyện về ngày Thánh Valentine.  Và nếu bạn không biết làm gì vào ngày này, thì có lẽ bạn có thể kể câu chuyện về Thánh Valentine cho bạn bè của bạn, gia đình hoặc một người nào đó bạn muốn gây ấn tượng.

Hải Âu

http://suyniemhangngay.net/2020/02/21/cau-chuyen-cua-thanh-valentine/

https://www.songtinmungtinhyeu.org/index.php?open=contents&id=2955

Truyền thuyết Thánh Valentine – vị thần bảo trợ tình yêu Và cùng tìm hiểu về ngày lễ tình nhân lãng mạn...

 

Ngày Valentine 14/2 là ngày lễ đặc biệt dành cho các đôi tình nhân trên toàn thế giới. Đây là dịp đôi lứa dành cho nhau các món quà lãng mạn như hoa hồng, chocolate, trao cho nhau những nụ hôn "tình củm". Cùng chúng tớ tìm hiểu về vị thánh trong truyền thuyết và ngày lễ đặc biệt này nhé!

Có lẽ châu Âu là nơi có nhiều dị bản nhất xung quanh vị thánh này. Trong đó, truyền thuyết phổ biến nhất kể về Thánh Valentine là một người xuất thân từ trần gian thời La Mã cổ đại. Dưới thời kì trị vì của hoàng đế Claudius đệ nhị, đế chế La Mã tham gia vào rất nhiều cuộc chiến tranh xâm lược đẫm máu. Nhà vua rất khó khăn trong việc tuyển mộ quân lính. Claudius bạo chúa nghĩ rằng đó là do đàn ông còn bận tâm về gia đình vợ con nên mất hết ý chí; thay vào đó, những người đàn ông trẻ độc thân thì chiến đấu sẽ tốt hơn. Kết quả là một đạo luật hà khắc ra đời: ông đã cấm tất cả đàn ông được kết hôn. Đạo luật đi trái với ý Chúa và dân tình nên gây ra nhiều phẫn nộ.

Trước tình cảnh đó, một vị linh mục nhân ái tên Valentine đã bí mật tổ chức hôn lễ cho nhiều cặp tình nhân trong nhà thờ. Sự việc bại lộ, vị linh mục tốt bụng bị bắt giam trong ngục trước khi bị xử tử bởi hình phạt dã man là chém đầu, kéo lê xác khắp thành. Điều kì diệu là thời gian sống trong ngục tối, linh mục đã giúp chữa khỏi mắt cho con gái quản ngục vốn mù lòa bẩm sinh tên Julia. Trước khi ra pháp trường ngày 14/2 khoảng năm 270 TCN, ông đã gửi cho Julia một tấm thiệp kí tên “dal vostro Valentino” - “from your Valentine”. Cảm động trước lòng tốt của vị linh mục tốt bụng này, ngày lễ Valentine ra đời với ý nghĩa tưởng nhớ những công lao của ông trong việc bảo trợ tình yêu con người.

Một dị bản khác về xuất xứ của ngày Valentine đó là từ các lễ hội Công giáo. Cụ thể ở đây là xuất phát từ lễ hội Lupercalia chỉ có tại Rome cổ đại được tổ chức vào khoảng ngày 13-15/2 hàng năm nhằm tưởng nhớ nữ thần La Mã Juno. Trong ngày này, các cặp đôi sẽ được se duyên thông qua hình thức rút thăm tựa như một hệ thống quay số tình yêu. Những cặp đôi được se duyên sẽ làm quen và nếu thực sự có tình cảm với nhau sẽ trở thành tình nhân. Sau đó, ngày này được các mục sư chuyển thành ngày tình nhân Valentine 14/2.

Một điều thú vị không kém khi tìm hiểu về lễ tình nhân ở các nước châu Âu đó là quan niệm của họ về tình yêu. Với người phương Tây, họ cho rằng vào giữa tháng 2, chim chóc bắt đầu bước vào mùa tìm bạn tình nên khoảng thời gian này là đẹp nhất trong năm cho các đôi lứa tìm hiểu và yêu nhau, dành cho nhau những gì tốt đẹp nhất. Ý niệm về một ngày lễ tình yêu giữa tháng 2 có lẽ xuất phát từ đây.

Ở các nước châu Mĩ, ngày lễ tình nhân còn có những cái tên khác. Ở Brazil, Valentine không diễn ra vào 14/2 như các nước khác. Nó diễn ra vào ngày 12/6 hàng năm và mang tên “Dia dos namorados” có nghĩa là "Ngày của tình yêu". Còn ở Colombia, Valentine được tổ chức vào ngày thứ 7 tuần thứ ba của tháng 9 với cái tên “Dia del amor y amistad” (Ngày tình yêu và tình bạn).

Thánh Valentine Và Lịch Sử Ngày Tình Yêu 14/2


Người ta nghĩ rằng Thánh Valentine đã từng là linh mục ở Rôma cũng như là một y sĩ. Vì không chịu từ вỏ đức tin, ngài được тử đạo vào ngày 14 tháng Hai. Chúng ta không biết gì nhiều về ngài, nhưng ngay vào khoảng năm 350, một nhà thờ đã được xây cất nơi ngài тử đạo.

 

Truyền thuyết nói rằng ngài là một linh mục thánh thiện đã cùng với Thánh Marius giúp đỡ các vị тử đạo trong thời Claudius II. Ngài bị вắт và bị gửi cho tổng trấn Rôma xét χử. Sau khi dụ ∂ỗ mọi cách nhưng đều vô hiệu, quan tổng trấn đã ra ℓệин cho lính dùng gậy đáин đập ngài, sau đó đưa đi ᑕᕼéᗰ đầu vào ngày 14 tháng Hai, khoảng năm 269. Người ta nói rằng Ðức Giáo Hoàng Julius I đã cho xây một nhà thờ gần Ponte Mole để kính nhớ ngài.

Nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc việc cử hành ngày Valentine. Một số cho rằng người Rôma có một tập tục vào giữa tháng Hai, trong ngày ấy các con trai tô điểm tên các cô con gái để tỏ lòng tôn kính nữ thần ᗪâᗰ ᗪụᑕ là Februata Juno.

Các tu sĩ thời ấy muốn ᗪẹᑭ ᗷỏ tập tục này nên đã thay thế bằng tên các thánh tỉ như Thánh Valentine. Một số khác cho rằng thói quen gửi thiệp Valentine vào ngày 14 tháng Hai là vì người tin tin rằng các con chim bắt đầu sống thành cặp vào ngày này, là ngày Thánh Valentine bị ᑕᕼéᗰ đầᑌ.

Dường như chắc chắn hơn cả là vào năm 1477, người Anh thường liên kết các đôi uyên ương với ngày lễ Thánh Valentine, vì vào ngày này, 14 tháng Hai, “mọi chim đực đi tìm chim mái .” Tục lệ này trở thành thói quen cho các đôi trai gái viết thư tình cho nhau vào ngày Valentine. Và ngày nay, các cánh thiệp, quà cáp và thư тử trao cho nhau là một phần của việc cử hành Ngày Valentine.

https://conggiaovn.com/thanh-valentine-va-lich-su-ngay-tinh-yeu-14-2-21/

 

 

 

 

 

Thứ Bảy


Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 3,9-21

"Chúa đuổi ông ra khỏi vườn địa đàng, để cày ruộng đất".

Bài trích sách Sáng Thế.

Thiên Chúa đã gọi Ađam và phán bảo ông rằng: "Ngươi ở đâu?"

Ông đã thưa: "Tôi đã nghe tiếng Ngài trong vườn địa đàng, nhưng tôi sợ hãi, vì tôi trần truồng và đang ẩn núp".

Chúa phán bảo ông rằng: "Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi không được ăn ư?"

Ađam thưa lại: "Người phụ nữ Chúa đã cho làm bạn với tôi, chính nàng đã cho tôi trái cây và tôi đã ăn".

Và Thiên Chúa phán bảo người phụ nữ rằng: "Tại sao ngươi đã làm điều đó?"

Người phụ nữ thưa: "Con rắn đã lừa dối tôi và tôi đã ăn".

Thiên Chúa phán bảo con rắn rằng: "Bởi vì mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu, mi sẽ bò đi bằng bụng và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì rình cắn gót chân người".

Chúa phán bảo cùng người phụ nữ rằng: "Ta sẽ làm cho ngươi gặp nhiều khổ cực khi thai nghén và đau đớn khi sinh con; ngươi sẽ ở dưới quyền người chồng, và chồng sẽ trị ngươi".

Người lại phán bảo Ađam rằng: "Vì ngươi đã nghe lời vợ mà ăn trái Ta cấm, nên đất bị nguyền rủa vì tội của ngươi. Trọn đời, ngươi phải làm lụng vất vả mới có mà ăn. Ðất sẽ mọc cho ngươi đủ thứ gai góc, và ngươi sẽ ăn rau cỏ ngoài đồng. Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi ngươi trở về đất, vì ngươi từ đó mà ra. Ngươi là bụi đất, nên ngươi sẽ trở về bụi đất".

Và Ađam đã gọi tên vợ mình là Evà: vì lẽ bà là mẹ của chúng sinh.

Thiên Chúa cũng làm cho Ađam và vợ ông những chiếc áo da và mặc cho họ.

Và Người phán: "Nầy, Ađam đã trở thành như một trong chúng ta, biết thiện ác. Vậy bây giờ, đừng để hắn giơ tay hái trái cây trường sinh mà ăn và được sống đời đời".

Và Thiên Chúa đuổi ông ra khỏi vườn địa đàng, để cày ruộng đất, là nơi ông phát xuất ra.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 89, 2, 3-4, 5-6, 12-13

Ðáp: Thân lạy Chúa, Chúa là chỗ chúng tôi dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia. (1)

Xướng 1) Ôi Thiên Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra, tự thuở này qua thuở kia, vẫn có Ngài. - Ðáp.

2) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm cạnh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Người phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người". - Ðáp.

3) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi; Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô. - Ðáp.

4) Xin dạy chúng tôi biết đếm ngày giờ, để chúng tôi luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ, xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv. 94, 8ab

Alleluia, alleluia - Ước gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 8,1-10

"Họ ăn no nê".

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Trong những ngày ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu đông đảo, và họ không có gì ăn, Người gọi các môn đệ và bảo: "Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn. Nếu Ta để họ đói mà về nhà, họ sẽ mệt lả giữa đường, vì có nhiều người từ xa mà đến".

Các môn đệ thưa: "Giữa nơi hoang địa nầy, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn no".

Và người hỏi các ông: "Các con có bao nhiêu bánh?"

Các ông thưa: "Có bảy chiếc".

Người truyền dân chúng ngồi xuống đất, rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ phân phát.

Các ông chia cho dân chúng.

Các môn đệ còn có mấy con cá nhỏ.

Người cũng đọc lời chúc tụng và truyền cho các ông phân phát.

Dân chúng ăn no nê và người ta thu lượm những miếng còn thừa lại được bảy thúng.

Số người ăn độ chừng bốn ngàn.

Rồi Người giải tán họ, kế đó Người cùng các môn đệ xuống thuyền đến miền Ðammanutha.

Ðó là Lời Chúa.

 

Image result for Mark 8,1-10


Suy niệm


    

Sự sống dư thừa ... "giữa nơi hoang địa"

 

 

Bài Phúc Âm của Thánh ký Marco cho Thứ Bảy Tuần V Thường Niên hôm nay về sự kiện Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều lần thứ hai, một sự kiện chứng tỏ Chúa Giêsu rất quan tâm đến dân chúng, bao gồm cả nhu cầu về vật chất của họ: "Trong những ngày ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu đông đảo, và họ không có gì ăn, Người gọi các môn đệ và bảo: 'Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn. Nếu Ta để họ đói mà về nhà, họ sẽ mệt lả giữa đường, vì có nhiều người từ xa mà đến'".

 

Trong trường hợp được Phúc Âm Thánh Marcô thuật lại hôm nay, trước hết phải công nhận rằng Chúa Giêsu có một hấp lực thu hút mãnh liệt tới độ đám đông dân chúng theo Người "đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn". Lời của Người ở trong trường hợp này phải nói là chính lương thực thiêng liêng cho tâm hồn của họ, đến độ họ cảm thấy bụng của họ không đói và có thể nhịn ăn về thể xác trong 3 ngày trời: "Người ta sống không nguyên bởi bánh mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mathêu 4:4).

 

Tuy nhiên, sau khi nghe giảng xong, bấy giờ thân xác của dân chúng mới cảm thấy mệt mỏi và đói quặn lên, nhất là đối với "nhiều người từ xa mà đến", khó có gì để ăn ngay cho đỡ đói và nhờ đó mới đủ sức trở về đến nhà. Chính trong câu trả lời của các tông đồ đã cho thấy cái khó khăn tìm kiếm của ăn sau khi dân chúng giải tán: "Giữa nơi hoang địa nầy, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn no".

 

Chính trong hoàn cảnh khó khăn như thế Chúa Giêsu đã lợi dụng để tỏ mình ra cho dân chúng, để họ thấy Người chẳng những khôn ngoan giảng dạy mà còn yêu thương chăm sóc cho họ nữa, vì họ tin theo Người, Đấng không thể bất trung với họ và phản bội lòng cảm phục tin tưởng của họ, nên Người đã ra tay cứu vớt, khi hỏi các tông đồ: "Các con có bao nhiêu bánh?" một thứ món ăn quen thuộc nhất của dân chúng và là món ăn tiêu biểu cho chính Lời Chúa nữa.

 

Ngoài bánh ra, còn một món ăn nữa cũng hoàn toàn phổ thông với đại đa số quần chúng thuộc giới bình dân đó là cá, một món ăn cũng được chính Chúa Giêsu sử dụng để nuôi ăn 7 tông đồ trên bờ hồ Tibêria sau khi Người sống lại từ trong kẻ chết (xem Gioan 21:9). Nếu bánh biểu hiệu cho lời Chúa, cho sự sống thần linh xuất phát từ hay được cung cấp từ lời Chúa, thì cá khô hay cá nướng biểu hiệu cho phần rỗi của các linh hồn, bởi các tông đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn và sai đi để "chài lưới người" (Luca 5:10), nghĩa là để làm cho con người nhận biết chân lý, nhận biết Lời Chúa, nhận biết Chúa Kitô (là Lời Chúa, là Bánh Sự Sống) mà được cứu độ.

 

Việc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng theo đuổi Người để lắng nghe "những lời ban sự sống đời đời" (Gioan 6:68) của Người, ở một nghĩa nào đó như báo trước việc Người thiết lập Bí Tích Thánh Thể, việc Người trở thành tấm bánh bẻ ra nuôi dưỡng thành phần dân tân Ước của Người, thành phần tin tưởng Người và đã chấp nhận Phép Rửa để trở thành môn đệ của Người, trở thành chi thể thuộc Nhiệm Thể của Người, thành cành nho dính liên với Người là thân nho. Và việc hiệp lễ trong phụng vụ Thánh Lễ bao giờ cũng xẩy ra sau phần phụng vụ Lời Chúa, như trong Bài Phúc Âm hôm nay dân chúng sau khi nghe lời Chúa thì được ăn bánh của Chúa, "ăn no nê", đến độ "còn thừa lại được bảy thúng". Vì Chúa Kitô chính là "sự sống" (Gioan 11:25; 14:6), một sự sống thần linh vô cùng bất tận, và "đến cho họ được sống và sống một cách viên mãn" (Gioan 10:10) bằng chính bản thân Người nơi mầu nhiệm Vượt Qua.

 

Nếu trong Bài Phúc Âm dân chúng theo Chúa Kitô được ăn no nê sự sống, cả về phần hồn lẫn phần xác, thì ở trong Bài Đọc 1 hôm nay hai nguyên tổ của loài người chúng ta lại ăn cái chết: "Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi không được ăn ư?" - chết cả về phần xác: "Ngươi là bụi đất, nên ngươi sẽ trở về bụi đất", lẫn phần hồn: "Thiên Chúa đuổi ông ra khỏi vườn địa đàng".

 

Tuy nhiên, bản tính của con người dù mắc nguyên tội trở thành hư hại nhưng không hoàn toàn băng hoại đến độ không thể cứu chữa được nữa. Bởi thế, ngay trong bản án nguyên tội, Vị Thiên Chúa là Tình yêu vô cùng nhân hậu vẫn chừa cho con người con đường sống, đó là chịu khổ để đền tội. Đó là lý do "Thiên Chúa đuổi ông ra khỏi vườn địa đàng" - "để cày ruộng đất, là nơi ông phát xuất ra". Nhưng con người ra khỏi vườn địa đường là để được sống và sống viên mãn hơn qua lời hứa cứu chuộc của Ngài nơi "miêu duệ người nữ", bởi thế mà trước khi bị đuổi ra khỏi vườn địa đường con người đã được Thiên Chúa thương xót và quan tâm chở che bao bọc, ở chỗ: "Thiên Chúa cũng làm cho Ađam và vợ ông những chiếc áo da và mặc cho họ".

 

Đó là tất cả ý nghĩa vô cùng thấm thía về cả thân phận khốn nạn đáng thương của con người trước Lòng Thương Xót Chúa vô cùng bất tận trong Bài Đáp Ca hôm nay: "Thân lạy Chúa, Chúa là chỗ chúng tôi dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia".

 

1) Ôi Thiên Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra, tự thuở này qua thuở kia, vẫn có Ngài.

2) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm cạnh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Người phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người".

3) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi; Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô.

4) Xin dạy chúng tôi biết đếm ngày giờ, để chúng tôi luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ, xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài.