PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

TUẦN VII THƯỜNG NIÊN NĂM CNĂM LẺ

 

 

Chúa Nhật

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: 1 Sm 26, 2. 7-9. 12-13. 22-23

"Chúa trao đức vua trong tay tôi mà tôi không nỡ ra tay".

Trích sách Samuel quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Saolê cùng với ba ngàn quân sĩ tinh nhuệ của Israel kéo xuống hoang địa Ziphô để vây bắt Ðavít. Ban đêm Ðavít và Abisai đến nơi quân sĩ (của vua) đóng, và thấy Saolê đang nằm ngủ trong lều, cây giáo của ông thì cắm xuống đất ở phía đầu. Abner và quân sĩ thì ngủ chung quanh ông.

Abisai liền nói với Ðavít rằng: "Hôm nay, Thiên Chúa đã trao kẻ thù trong tay ngài; vậy giờ đây xin cho tôi lấy giáo đâm ông ấy một phát thâu xuống đất, không cần đến phát thứ hai". Nhưng Ðavít nói với Abisai rằng: "Chớ giết ngài, vì có ai đưa tay phạm đến Ðấng Chúa xức dầu mà vô tội đâu?" Rồi Ðavít lấy cây giáo và bình nước ở phía đầu của Saolê và cả hai ra đi. Không ai hay biết và không ai thức dậy, nhưng mọi người vẫn ngủ, vì Chúa khiến họ ngủ say.

Ðavít sang phía bên kia, đứng trên ngọn núi đàng xa, đôi bên cách xa nhau. Ngài hô lên rằng: "Ðây là ngọn giáo của nhà vua, một trong các cận vệ của vua hãy qua đây mà lấy, Chúa sẽ báo đáp cho mỗi người tuỳ theo sự công minh và thành tín cuả họ, vì hôm nay Chúa trao đức vua trong tay tôi mà tôi không nỡ ra tay giết đấng được Chúa xức dầu".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 102, 1-2. 3-4. 8 và 10. 12-13.

Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót. (c. 8a).

Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Ðáp.

2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. - Ðáp.

3) Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi. - Ðáp.

4) Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ Người. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Cr 15, 45-49

"Như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc địa giới, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh người thiên quốc như vậy".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, Ađam cũ là người có sự sống, còn Ađam mới thì có thần trí ban sự sống. Những điều có trước, không phải thuộc linh giới, mà là thuộc thể giới, rồi mới đến cái thuộc về linh giới. Người thứ nhất bởi đất mà ra, thì thuộc về địa giới, còn người thứ hai bởi trời mà đến, thì thuộc thiên giới. Người thuộc địa giới đó thế nào, thì những người khác thuộc địa giới cũng vậy; và người thuộc thiên giới đó thế nào, thì những người khác thuộc thiên giới cũng vậy. Bởi thế, như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc địa giới, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh người thiên quốc như vậy.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 6, 64b và 69b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 27-38

"Các con hãy tỏ lòng thương xót như Cha các con hay thương xót".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả má con bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại. Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng.

Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn, và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác.

Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ. Hãy cho, thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for LK 6, 27-38

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Tiếp tục đề tài sống trọn lành (ở bài Phúc Âm tuần trước về 4 phúc thật và 4 khốn nạn), Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm hôm nay, hay sống cảm thương với các môn đệ, nhất là với thành phần 12 vị vừa được tuyển chọn làm tông đồ của mình, Chúa Giêsu đã đi thẳng và đi ngay vào những gì chính yếu nhất và thiết yếu nhất Người muốn nói với các vị và muốn các vị sống như vậy.

Thật thế, ngay sau khi mở màn như một dạo khúc cho bài huấn dụ trọn lành cũng là bài huấn dụ về lòng cảm thương này, một dạo khúc bao gồm 4 "phúc" hạnh và 4 "khốn" nạn tương phản nhau, một dạo khúc đã được Chúa Giêsu tài tình hòa âm cho hai bè hát xung khắc nhau, nhưng một khi trình diễn với tất cả hồn sống của mình thì chính ca sĩ mới cảm thấy thấm thía hơn bao giờ hết, nhất là khi hát đến các phiên khúc chính yếu và các kết thúc của bản thánh ca thương xót huyền diệu siêu vời này.

Bản Thánh Ca Thương Xót này, mà điệp khúc là phần hòa âm hai bè "phúc/khốnđầy tính chất giằng co nhức nhối, có tất cả 2 phiên khúc và 2 đoạn kết thứ tự được liệt kê như sau:

Bài Thánh Ca Thương Xót - Phiên khúc thứ nhất:

"Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại".

Bài Thánh Ca Thương Xót - Phiên khúc thứ hai:

"Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng".

Bài Thánh Ca Thương Xót - Đoạn tạm kết:

"Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác".

Bài Thánh Ca Thương Xót - Đoạn tận kết:

"Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được thứ tha. Hãy ban tặng, thì các con sẽ tặng lại; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".

Tất cả nội dung và ý nghĩa của bản Thánh Ca Thương Xót này, tức là tột đỉnh của bản Thánh Cha Trọn Lành này đều được cô đọng ở chung đoạn tổng kết và ở riêng câu đầu của đoạn tổng kết ấy, đó là: "các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ". Mà "nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ" ở chỗ nào, nếu không phải, cũng trong đoạn tổng kết, ở 4 thái độ thứ tự là: 1- "Ðừng xét đoán", 2- "Ðừng kết án", 3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng".

Trong 4 thái độ để phản ảnh lòng nhân từ của Cha trên trời xót thương nhân loại vừa được tóm kết trên đây, có 2 thái độ mang tính cách tránh những gì là tiêu cực: 1- "Ðừng xét đoán", 2- "Ðừng kết án", và 2 thái độ có tính cách thực hiện những gì là tích cực: 3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng". 

1- "Ðừng xét đoán" và 2- ừng kết án": bởi vì, "Thiên Chúa không sai Con Ngài đến thế gian để luận án thế gian nhưng là để thế gian nhờ Người mà được cứu độ" (Gioan 3:16). Bởi vậy, những ai muốn "thương xót như Cha thương xót", nhất là thành phần môn đệ của Chúa Kitô được Người tuyển chọn làm chứng nhân cho Người, cũng "đừng xét đoán" và "đừng kết án".  

3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng": bởi vì, "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến ban Người Con duy nhất của Ngài, để ai tin vào Người thì không phải chết ("tha th") nhưng được sự sống đời đời ("ban tặng")" (Gioan 3:16). Bởi vậy, những ai muốn "thương xót như Cha thương xót", nhất là thành phần môn đệ của Chúa Kitô được Người tuyển chọn làm chứng nhân cho Người, cũng "hãy tha thứ" và "hãy ban tặng", ở chỗ vừa "tha thứ" vừa "ban tặng" đúng như phiên khúc 1 đã khuyên dạy: (Tha Thứ) - "Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong". (Ban Tặng) - "Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại".

Gương mẫu sống điển hình nhất cho giáo huấn trọn lành của Bài Phúc Âm hôm nay phải nói là vị vua thứ hai tương lai của dân Do Thái, đó là Đavít. Thật vậy, trước khi làm vua, chàng thanh niên Đavít này đã thắng tên Goliát cồ tượng của quân Philitinh bằng mấy viên đá, bởi chàng chỉ hoàn toàn tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa mà thôi (xem 1Samuel 17:41-54). Tuy nhiên, chàng không ngờ lại được các thiếu nữ đón mừng bằng một lời chạm tự ái Vua Saolê (xem 1Samuel 18:6-9), nên bị Saulê tìm cách hãm hại 2 lần. Lần thứ hai Đavít bị vua Saolê đích thân thân chinh đi lùng giết được Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại. Thế nhưng, Đavít đã đối xử với vị vua thù địch của mình ra sao, chúng ta hãy đọc lại nguyên câu truyện của nó:

"Trong những ngày ấy, Saolê cùng với ba ngàn quân sĩ tinh nhuệ của Israel kéo xuống hoang địa Ziphô để vây bắt Ðavít. Ban đêm Ðavít và Abisai đến nơi quân sĩ (của vua) đóng, và thấy Saolê đang nằm ngủ trong lều, cây giáo của ông thì cắm xuống đất ở phía đầu. Abner và quân sĩ thì ngủ chung quanh ông. Abisai liền nói với Ðavít rằng: 'Hôm nay, Thiên Chúa đã trao kẻ thù trong tay ngài; vậy giờ đây xin cho tôi lấy giáo đâm ông ấy một phát thâu xuống đất, không cần đến phát thứ hai'. Nhưng Ðavít nói với Abisai rằng: 'Chớ giết ngài, vì có ai đưa tay phạm đến Ðấng Chúa xức dầu mà vô tội đâu?' Rồi Ðavít lấy cây giáo và bình nước ở phía đầu của Saolê và cả hai ra đi. Không ai hay biết và không ai thức dậy, nhưng mọi người vẫn ngủ, vì Chúa khiến họ ngủ say. Ðavít sang phía bên kia, đứng trên ngọn núi đàng xa, đôi bên cách xa nhau. Ngài hô lên rằng: 'Ðây là ngọn giáo của nhà vua, một trong các cận vệ của vua hãy qua đây mà lấy, Chúa sẽ báo đáp cho mỗi người tuỳ theo sự công minh và thành tín cuả họ, vì hôm nay Chúa trao đức vua trong tay tôi mà tôi không nỡ ra tay giết đấng được Chúa xức dầu'".

Bài Đọc 2 hôm nay Thánh Phaolô cho chúng ta biết về 2 Adong: cũ và mới, nhưng hoàn toàn khác nhau về tầm mức của bản chất của mình, ở chỗ Adong mới là Chúa Giêsu Kitô hoàn toàn trọn hảo hơn Adong cũ của nguyên tội: "Anh em thân mến, Ađam cũ là người có sự sống, còn Ađam mới thì có thần trí ban sự sống. Những điều có trước, không phải thuộc linh giới, mà là thuộc thể giới, rồi mới đến cái thuộc về linh giới. Người thứ nhất bởi đất mà ra, thì thuộc về địa giới, còn người thứ hai bởi trời mà đến, thì thuộc thiên giới. Người thuộc địa giới đó thế nào, thì những người khác thuộc địa giới cũng vậy; và người thuộc thiên giới đó thế nào, thì những người khác thuộc thiên giới cũng vậy".

Tuy nhiên, cho dù là vượt trội hơn Adong cũ về bản chất "linh giới" và "thiên giới" trọn hảo của mình, Adong mới cũng đã mặc lấy nhân tính của Adong cũ và như Adong cũ, nhờ đó, đã thăng hóa bản tính đã bị hư hoại theo nguyên tội của Adong cũ là con người thuộc "thể giới" và thuộc "địa giới". Do đó, khi lãnh nhận Phép Rửa Tái Sinh, Kitô hữu đã được biến đổi, hay đúng hơn đã được thánh hóa, đúng như Thánh Phaolô khẳng định ở câu cuối cùng của Bài Đọc 1 hôm nay: "Bởi thế, như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc địa giới, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh người thiên quốc như vậy". "hình ảnh người thiên quốc" này ra sao, nếu không phải là hình ảnh đã được Chúa Kitô phác họa, mong muốn và kêu gọi các tông đồ của Người trở nên trong Bài Phúc Âm hôm nay: "nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ".

Thế nhưng, thực tế phũ phàng cho thấy, cho dù, nhờ được Thánh Tẩy Tái Sinh, Kitô hữu vẫn chưa hoàn toàn được biến đổi, bởi vẫn mang nơi bản thân mình bản chất "thể giới" và "địa giới" của Adong cũ, nên vẫn tiếp tục hướng hạ theo trần gian và hướng nội theo lòng vị kỷ của mình, hoàn toàn ngược lại với giáo huấn trọn lành của Bài Phúc Âm hôm nay, không xứng đáng với phẩm vị và tư cách của một người con Thiên Chúa, đã được mặc lấy bản chất "linh giới" và "thiên giới" của Chúa Kitô và như Chúa Kitô. Bởi thế, họ mới liên lỉ cần phải than lên như câu xướng của Bài Đáp Ca hôm nay: "Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót", với tất cả tâm tình và ý thức về bản thân mình trước nhan Thiên Chúa xót thương của chính Bài Đáp Ca này:

 

1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người.

2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng.

3) Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi.

4) Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ Người.

 

 

 

Thứ Hai sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 1, 1-10

"Sự khôn ngoan được tác tạo trước mọi loài".

Khởi đầu sách Huấn Ca.

Mọi sự khôn ngoan đều bởi Thiên Chúa, và luôn luôn đã ở với Người và có từ trước muôn thuở.

Ai đếm được cát biển, giọt mưa và số ngày từ muôn đời? Ai đã đo được trời cao, đất rộng và biển sâu? Ai có thể khám phá ra sự khôn ngoan của Thiên Chúa có trước muôn vật?

Sự khôn ngoan được tác tạo trước muôn loài, và trí khôn được dựng nên từ vạn kiếp. Nguồn mạch sự khôn ngoan là lời Thiên Chúa trên các tầng trời, và lối vào sự khôn ngoan là các giới răn vĩnh cửu.

Căn nguyên sự khôn ngoan được mạc khải cho ai? Ai hiểu biết được mưu toan của sự khôn ngoan? Luật lệ khôn ngoan đã được mạc khải và tiết lộ cho ai? Và ai thấu triệt được trăm ngàn đường lối của nó?

Chỉ có một Ðấng Tối Cao là Ðấng Tạo Thành toàn năng, là Vua uy quyền và rất đáng kính sợ, Người ngự trên toà sự khôn ngoan và là Thiên Chúa thống trị.

Chính Người đã tạo thành sự khôn ngoan trong Thánh Thần, Người đã nhìn xem, tính toán và đo lường. Người đã đặt nó trên mọi công trình của Người, trên mọi sinh linh tuỳ lòng rộng rãi của Người, Người đã phân phát nó cho những ai yêu mến Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 92, 1ab. 1c-2. 5

Ðáp: Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai (c. 1a).

Xướng: 1) Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai, Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai. - Ðáp.

2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở, từ đời đời vẫn có Chúa. - Ðáp.

3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin, lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn thuở. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 9, 13-28

"Lạy Thầy, tôi tin, xin Thầy trợ giúp đức tin hèn kém của tôi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu (từ trên núi xuống) và đến cùng các môn đệ, Người thấy một đám đông vây quanh các ông và những luật sĩ đang tranh luận với các ông.

Vừa thấy Người, tất cả đám đông kinh ngạc, họ sợ hãi và chạy đến chào Người. Và Người hỏi họ rằng: "Các ngươi tranh luận gì với nhau đó?" Một người trong đám đông trả lời rằng: "Lạy Thầy, tôi đem đến cùng Thầy đứa con trai tôi đang bị quỷ câm ám. Quỷ đột nhập vào nó bất kỳ ở đâu thì vật nó ngã xuống đất và nó xùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ ra. Tôi đã xin các môn đệ Thầy trừ quỷ, nhưng họ bất lực". Người đáp lại: "Hỡi thế hệ cứng lòng tin, Ta còn ở giữa các ngươi đến bao giờ? Ta phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Ðem nó lại đây cho Ta". Và người ta đem nó đến.

Vừa thấy Chúa Giêsu, quỷ liền dằn vặt đứa bé dữ dội, đứa bé ngã ra, xùi bọt mép, lăn lộn trên đất. Chúa Giêsu hỏi cha nó rằng: "Nó bị như thế từ bao giờ?" Ông ta đáp: "Thưa từ lúc bé! Quỷ thường xô nó vào lửa, vào nước để giết nó. Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì thì xin Thầy thương giúp chúng tôi". Chúa Giêsu nói với ông: "Sao lại nói: Nếu Thầy có thể? Với kẻ nào tin, thì mọi sự đều có thể được". Tức thì cha đứa bé khóc lóc kêu lên: "Thưa Thầy tôi tin, xin Thầy trợ giúp lòng tin yếu kém của tôi". Chúa Giêsu thấy đám đông tuôn đến, Người nạt thần ô uế rằng: "Hỡi thần câm điếc, Ta truyền cho mi: hãy xuất ra khỏi nó và không được nhập vào nó nữa". Sau khi kêu thét và dằn vật đứa trẻ dữ dội, quỷ xuất khỏi nó và đứa trẻ ra như chết, khiến đám đông nói: "Nó chết rồi". Nhưng Chúa Giêsu cầm tay nó nâng dậy và nó đứng lên.

Khi Chúa vào trong nhà, các môn đệ hỏi riêng Người: "Tại sao chúng con lại không thể trừ được nó?" Người đáp: "Loại đó không thể trừ được, nếu không cầu nguyện và ăn chay".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

"Chính để phá hủy công việc của ma quỉ mà Con Thiên Chúa đã tỏ mình ra" (1Gioan 3:8).

 

Suy Niệm:

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Marco thuật lại sự việc Chúa Giêsu chữa lành cho một đứa con trai cho khỏi bị quỉ câm ám. Sự việc chữa lành này xẩy ra sau biến cố Người biến hình trên núi (xem Marco 9:1-13), lúc Người cùng ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan xuống núi để đến với các môn đệ khác đang chờ Người ở dưới núi, và cũng chính là lúc "Người thấy một đám đông vây quanh các ông và những luật sĩ đang tranh luận với các ông".

 

Thánh ký Marco không thuật lại cho chúng ta biết chi tiết về vấn đề tranh luận giữa 9 môn đệ của Chúa Giêsu với các luật sĩ thông luật hơn các vị, thế nhưng chúng ta cũng có thể suy đoán rằng về vấn đề trừ quỉ, một vấn đề sau đó đã được chính các vị đặt ra hỏi Chúa Giêsu, và cũng là vấn đề thành phần luật sĩ này đã có lần trước đó xuyên tạc rằng Người lấy quỉ tướng mà trừ quỉ con (xem Marco 3:22).

 

Cũng có thể là bấy giờ các môn đệ ở dưới chân núi chờ Người thì đã cùng nhau và thay nhau trừ quỉ, nhưng không được, nên bị nhóm luật sĩ có mặt bấy giờ châm biếm: "Thày của các người đâu rồi. Các người làm gì mà trừ quỉ được, làm gì bằng sư phụ của các người, một tay phù thủy chuyên môn lấy quỉ tướng mà trừ quỉ con. Thứ tà thuật che mắt trẻ con chứ làm gì qua mặt bọn này được..."

 

Tất nhiên, nghe thấy thế, tự ái đoàn thể của các vị không thể nào không nổi lên, và vì thế các môn đệ có thể đã nhào vô bênh vực Thày và bảo vệ danh dự cho cả nhóm, chẳng hạn bằng cách chống đỡ như: "Các ông đừng có mà nói bậy. Thày của chúng tôi là một Đấng quyền năng xuất chúng chứ không phải tầm thường như các ông... Người mà có ở đây thì các ông cứ mở mắt ra mà xem... như lần trước..."

 

Chắc có thể vừa nói đến đây thì Chúa Giêsu cũng vừa xuất hiện. Bởi thế, ngay mở đầu bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Marco đã cho thấy phản ứng của dân chúng bấy giờ như sau: "Vừa thấy Người, tất cả đám đông kinh ngạc, họ sợ hãi và chạy đến chào Người...". Tại sao đám đông "kinh ngạc" - Phải chăng vừa nói đến Người thì Người liền xuất hiện!?

 

Tại sao họ lại có một phản ứng tương phản cùng một lúc: "sợ hãi" và "chạy đến chào Người"?? Đáng lẽ "sợ" Người thì theo phản ứng tự nhiên thì phải tránh Người chứ sao lại "chạy đến chào Người" là làm sao??? Phản ứng trái ngược lại xẩy ra cùng một lúc chỉ có thể hiểu là có một số thì cảm thấy "sợ hãi", chẳng hạn như thành phần luật sĩ, còn những người khác thì vui mừng "chạy đến chào Người" như họ gặp được vị cứu tinh của họ.

 

Trong những người vui mừng ấy chắc chắn là có các vị tông đồ, nhất là người cha của em trai nạn nhân bị quỉ câm ám. Bởi vì, con ông bị quỉ ám hành hạ, trong khi đó không ai có thể trừ quỉ được, thậm chí cả thành phần môn đệ của Chúa Giêsu, như ông đã thành thật mô tả cho Chúa Giêsu biết: "Lạy Thầy, tôi đem đến cùng Thầy đứa con trai tôi đang bị quỷ câm ám. Quỷ đột nhập vào nó bất kỳ ở đâu thì vật nó ngã xuống đất và nó xùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ ra. Tôi đã xin các môn đệ Thầy trừ quỷ, nhưng họ bất lực".

 

Chắc bấy giờ thành phần luật sĩ, cho dù vẫn ngờ vực quyền năng trừ quỉ của Chúa Giêsu, cũng vẫn tò mò theo dõi xem Người có thật trừ được quỉ hay chăng và trừ quỉ như thế nào. Và ngay trước mắt của họ bấy giờ, như Thánh ký Marco thuật lại, họ chứng kiến thấy rằng: "Vừa thấy Chúa Giêsu, quỷ liền dằn vặt đứa bé dữ dội, đứa bé ngã ra, xùi bọt mép, lăn lộn trên đất". Nghĩa là cái oai phong và quyền năng của Chúa Giêsu ở ngay sự hiện diện của Người, chứ chưa nói đến việc Người ra tay hay đến lúc Người ra tay.

 

Tuy nhiên, Chúa Giêsu không ra tay trừ quỉ ngay, cho dù thấy hiện tượng em trai nạn nhân bị quỉ ám hành hạ như thế. Không biết có phải Người muốn cho thành phần luật sĩ này tin vào Người hơn qua việc Người ra tay trừ quỉ ám, khi Người lên tiếng hỏi người bố một câu hỏi có vẻ dư thừa không cần thiết cho lắm, nhưng Người cố ý như vậy để người bố nói ra cho thành phần luật sĩ ngờ vực này biết tình trạng em trai nạn nhân bị quỉ ám này khốn khổ là chừng nào bao lâu còn bị quỉ ám và ma quỉ dữ dội ác độc đến đâu, để một khi em trai nạn nhân được thoát quỉ ám thì họ biết được quyền năng của Người không phải là những gì bùa phép tà thuật.

 

Người bố đã thuật lại cho riêng Chúa Giêsu và mọi người chung quanh bấy giờ đều nghe thấy rằng: "Thưa từ lúc bé! Quỷ thường xô nó vào lửa, vào nước để giết nó". Người bố còn thêm ngay sau đó rằng: "Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì thì xin Thầy thương giúp chúng tôi". "Chúng tôi" đây bao gồm gia đình của ông: cả đứa con nạn nhân và bố mẹ của cháu, vì cha mẹ cùng ông bà và anh chị em trong cùng một gia đình làm sao chịu được khi thấy một người thân yêu của mình bị quỉ ám khốn nạn kéo dài như vậy.

 

Nghe thấy thế Chúa Giêsu vẫn chưa chịu ra tay ngay. Người vẫn như chần chờ làm sao ấy. Bởi thế, trước khi ra tay, Người còn nhắc nhở người bố một điều kiện tối yếu bất khả thiếu để Người ra tay, nhờ đó thành phần luật sĩ duy luật chỉ cậy vào việc mình làm mới thấy rằng duy đức tin mới là yếu tố cứu độ chính yếu, và câu Người bảo ông bố như ngầm giục ông hãy tuyên xưng đức tin đi thì mọi sự sẽ được như ý: "'Sao lại nói: Nếu Thầy có thể? Với kẻ nào tin, thì mọi sự đều có thể được'. Tức thì cha đứa bé khóc lóc kêu lên: 'Thưa Thầy tôi tin, xin Thầy trợ giúp lòng tin yếu kém của tôi'".

 

Làm gì thì làm, Thiên Chúa bao giờ cũng lợi dụng mọi sự để mưu ích chẳng những cho người nhận ơn mà còn cho những người khác nữa. Chẳng hạn, trong bài Phúc Âm hôm nay, Người chờ cho tới khi, như Thánh ký Marco ghi lại, "thấy đám đông tuôn đến", Người mới ra tay để "trợ giúp lòng tin yếu kém của (người bố)" cũng như làm cho chính đám đông nói chung và thành phần luật sĩ nói riêng tin vào Người. Quả thật, sau đó Người không còn chần chờ gì nữa và đã chính thức công khai ra tay như thế này:

 

"Người nạt thần ô uế rằng: 'Hỡi thần câm điếc, Ta truyền cho mi: hãy xuất ra khỏi nó và không được nhập vào nó nữa'. Sau khi kêu thét và dằn vật đứa trẻ dữ dội, quỷ xuất khỏi nó và đứa trẻ ra như chết, khiến đám đông nói: 'Nó chết rồi'. Nhưng Chúa Giêsu cầm tay nó nâng dậy và nó đứng lên".

 

Sự kiện sở dĩ chỉ có Chúa Giêsu mới trừ được quí ám trong trường hợp này, trong khi môn đệ của Người thì không, chẳng những vì tự mình Người là Đấng quyền năng, mà còn vì hai lý do chính yếu sau đây:

 

Trước hết, trong khi về phía người bố thì yếu đức tin, đúng như sự thật được Chúa Giêsu vạch trần ra ngay từ đầu: "Hỡi thế hệ cứng lòng tin, Ta còn ở giữa các ngươi đến bao giờ? Ta phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Ðem nó lại đây cho Ta", như thể để Người làm cho các người thấy mà tin, thì về phía người trừ là các môn đệ của Người lại không hội đủ điều kiện, như trong câu Người trả lời riêng cho vấn nạn bất khả trừ quỉ của các vị sau đó: "'Tại sao chúng con lại không thể trừ được nó?' Người đáp: 'Loại đó không thể trừ được, nếu không cầu nguyện và ăn chay'".

 

Cảm Nghiệm:

 

Thật ra, khi chịu chết trên cây thập giá, như con rắn đồng được Moisen treo lên cột cao trong sa mạc để cứu những ai bị rắn cắn nhìn lên đó (xem Gioan 3:14-15), Chúa Kitô cũng đã trừ quỉ cho nhân loại rồi: "Chính để phá hủy công việc của ma quỉ mà Con Thiên Chúa đã tỏ mình ra" (1Gioan 3:8).

 

Thành phần lãnh nhận Phép Rửa, tức là được thông phần vào cái chết của Người (xem Roma 6:3), thật sự đã được trừ quỉ ám, nghĩa là được Người giải phóng khỏi ách nô lệ của ma quỉ, khỏi quyền thống trị của chúng, gây ra bởi nguyên tội mà họ dù không phạm cũng bị vướng mắc.

 

Tuy nhiên, cho dù nhờ Phép Rửa, Kitô hữu được thanh tẩy, được trừ khỏi bị quỉ ám, nhưng thực tế cho thấy mầm mống nguyên tội vẫn còn nguyên nơi bản thân họ, bởi thế, đam mê nhục dục và tính mê nết xấu vẫn là nội công của ma quỉ nơi họ, khiến họ vẫn bị ma quỉ tiếp tục ám một cách nào đó.

 

Thế nhưng, mỗi lần Kitô hữu bị quỉ ám hành hạ, đến độ lúc nào cũng chỉ muốn giết chết họ bằng tội trọng, như chúng đã đầy đứa bé trong bài Phúc Âm hôm nay "xô vào lửa, vào nước để giết nó", thì Kitô hữu lại cần phải trừ quỉ một lần nữa, và thường xuyên nhiều lần như vậy, bằng Bí Tích Hòa Giải!

 

Còn ai mong muốn sát hại tận diệt linh hồn con người bằng ma quỉ được gọi là tử thần này, và vì là tử thần nên hắn luôn "xô" đẩy linh hồn con người vào chỗ chết như vào "lửa" hận thù ghen ghét ("lửa" đây ám chỉ "hồ lửa" cũng là "cái chết lần hai" trong Khải Huyền 20:14-15), cũng như vào "nước" đam mê nhục dục ("nước" đây ám chỉ trận lụt hồng thủy thời Noe đã nhận chìm hết con người bấy giờ toàn là xác thịt dâm loạn - xem Khởi Nguyên 6:1-6).

 

Thật vậy, nơi Bí Tích Hòa Giải chất chứa quyền năng trừ quỉ của Chúa Kitô, Đấng giải thoát những ai tin vào Người, những ai thành tâm thống hối chạy đến với lòng thương xót bao la bất tận của Người mỗi khi thấy mình sa ngã phạm tội mất lòng Người.

 

Thành phần môn đệ của Chúa Kitô không thể nào trừ được quỉ ám nơi "các linh hồn cần đến Lòng Thương Xót Chúa hơn" nếu chính họ cũng bị quỉ ám như ai, tức là họ sống không sạch tội, một tình trạng thiêng thiêng cho thấy, họ thực sự "không cầu nguyện và chay tịnh": "không cầu nguyện" ở chỗ không sống nội tâm với Chúa, và "không chay tịnh" ở chỗ không chịu cẩn thận khổ chế giác quan và bản tính tự nhiên, nên khó tránh dịp tội và phạm tội.

 

 

 

 

Thứ Ba sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 2, 1-13

"Hãy chuẩn bị tâm hồn để chịu cám dỗ".

Trích sách Huấn Ca.

Hỡi con, khi con đến phụng sự Thiên Chúa, con hãy sống công chính và kính sợ, và hãy chuẩn bị tâm hồn để chịu thử thách. Con hãy gìn giữ tâm hồn và chịu đựng. Hãy lắng tai nghe và nhận lấy lời dạy của lương tri; và đừng vội vã trong lúc cùng quẫn.

Con hãy nương tựa vào sự nâng đỡ của Thiên Chúa và hãy liên kết với Người, và kiên nhẫn để con được thăng tiến trong ngày cuối cùng. Con hãy chấp nhận tất cả những gì xảy đến cho con và hãy kiên trì trong đau khổ, hãy nhẫn nại trong hoàn cảnh thấp hèn: vì vàng bạc được thử trong lửa, còn những người được Chúa chọn, thì được thử trong khổ nhục. Con hãy tin vào Thiên Chúa, và Người sẽ nâng đỡ con; hãy cứ thẳng đường và hy vọng vào Người. Con hãy kính sợ Người và bền vững mãi như thế.

Hỡi những kẻ kính sợ Chúa, hãy trông đợi lòng từ bi của Người, Các ngươi đừng rời xa Người kẻo phải sa ngã. Các ngươi là kẻ kính sợ Chúa, hãy tin vào Người và phần thưởng của các ngươi sẽ không mất đâu. Các ngươi là những kẻ kính sợ Chúa, hãy trông cậy vào Người, thì người sẽ lấy lòng từ bi ban thưởng cho các ngươi được hân hoan. Các ngươi là những kẻ kính sợ Chúa, hãy yêu mến Người, và lòng các ngươi sẽ được chiếu sáng.

Hỡi các con, hãy ngắm nhìn các dân thiên hạ, và hãy biết rằng không ai trông cậy vào Chúa mà phải hổ thẹn. Vì có ai sống trong giới răn của Người mà bị ruồng bỏ đâu? Hoặc có ai kêu cầu Người mà Người chê chối đâu? Vì Thiên Chúa khoan hậu và nhân từ, và trong ngày nguy khốn, Người tha thứ tội lỗi; Người là Ðấng bênh vực tất cả những kẻ tìm kiếm Người trong chân lý.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 36, 3-4. 18-19. 27-28. 39-40.

Ðáp: Bạn hãy phó thác đường lối mình cho Chúa, và để chính Người hành động (c. 5).

Xướng: 1) Hãy trông cậy vào Chúa và hãy làm lành, để được cư ngụ trong đất nước, thọ hưởng an ninh. Hãy hân hoan tin tưởng vào Chúa, Người sẽ ban cho sự lòng bạn thỉnh cầu. - Ðáp.

2) Chúa chăm lo cho mạng sống người nhân đức, và phần gia nghiệp họ còn mãi muôn đời. Ngày tai hoạ, những người đó không tủi hổ, và trong nạn đói, họ sẽ được ăn no. - Ðáp.

3) Hãy tránh ác và hãy làm lành, hầu được an cư tới ngàn thu: bởi vì Thiên Chúa yêu điều chân lý, và không bỏ rơi những tôi tớ trung thành. - Ðáp.

4) Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ, trong cơn khốn khó, Người là chỗ dung thân, Chúa bang trợ và giải thoát họ. Người giải thoát và cứu họ khỏi lũ ác nhân, vì họ đã nương tựa vào Người. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 9, 29-36

"Con Người sẽ bị nộp. Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống, rồi đi ngang qua xứ Galilêa và Người không muốn cho ai biết. Vì Người dạy dỗ và bảo các ông rằng: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người.

Các ngài tới Capharnaum. Khi đã vào nhà, Người hỏi các ông: "Dọc đàng các con tranh luận gì thế?" Các ông làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất.

Bấy giờ Người ngồi xuống, gọi mười hai ông lại và bảo các ông rằng: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người". Và Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, rồi ôm nó mà nói với các ông rằng: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Không bé nhỏ không thể chấp nhận và theo được Chúa Kitô

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua. Tuy nhiên cả 2 bài Phúc Âm đều được Giáo Hội, chứ không phải chính Thánh ký Marco, sử dụng cùng một câu Phúc Âm 9:9 "Khi ấy Chúa Giêu từ trên núi xuống", để mở đầu từng bài Phúc Âm, một bài được bắt đầu ở câu 13 (hôm qua) và một bài được bắt đầu ở câu 29. Như thể Giáo Hội muốn ghép biến cố đã xẩy ra trên núi trước đó với 2 biến cố liền ngay sau đó ở bài Phúc Âm hôm qua: trừ quỉ câm, và hôm nay: báo trước cuộc vượt qua lần 2.

 

Thật vậy, sau khi biến hình trên núi trước mặt 3 môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan, một sự kiện biến hình cho các vị thấy trước cuộc phục sinh vinh hiển của Người, Chúa Giêsu đã trừ quỉ câm, như ám chỉ rằng Người sẽ trừ quỉ cho nhân loại bằng cuộc phục sinh của Người, hoàn toàn tiêu diệt tội lỗi và sự chết do ma quỉ gây ra cho con người, và tội lỗi cùng sự chết chỉ bị tiêu diệt nơi nhân tính của Người trong cuộc khổ nạn và tử giá của Người mà thôi, như Người báo trước cho các môn đệ lần thứ hai trong bài Phúc Âm hôm nay: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại".

 

Tuy nhiên, các vị môn đệ thân cận của Người và với Người, cho dù đã sống bên Người từ đầu, thấy được các việc quyền năng đầy lạ lùng Người làm, và nghe được những lời khôn ngoan đầy khắc phục Người nói, vẫn như Thánh ký Marco thuật lại: "các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người", cho dù về ngôn từ những gì Người nói chẳng có gì là cao siêu huyền diệu hay có tính cách triết lý thần học khó hiểu.

 

Một trong những lý do các vị không hiểu hay không thể hiểu hoặc chưa thể hiểu, chẳng những vì những gì Chúa Kitô tiết lộ về bản thân của Người, về thân phận vô cùng khốn nạn của Người, cho dù bằng ngôn từ minh bạch nhất và bình dân nhất, vẫn là một mầu nhiệm siêu việt, hoàn toàn vượt trên tầm mức kiến thức tự nhiên của con người, nhất là ngược hẳn với lòng trông đợi của các môn đệ về Người, mà còn, bởi thế, vì chính bản chất trần tục thấp hèn của các môn đệ nữa. Mầu nhiệm về Thày đã cao siêu trong khi bản chất của môn đệ lại thấp hèn thì làm sao có thể hòa hợp được.

 

Đó là lý do, trong bài Phúc Âm hôm nay, khi thấy các môn đệ của mình "dọc đàng tranh luận" với nhau "xem ai là người lớn nhất", chứng tỏ các vị chẳng hiểu Người gì hết, và cũng chẳng biết các vị là ai, đang đi theo một Đấng như thế nào, trái lại, cứ tưởng Người là một Moisen "tái xuất giang hồ" để đóng vai trò Cứu Tinh dân tộc Do Thái đang bị đế quốc Roma bấy giờ, như ông đã từng đưa dân Do Thái ra khỏi Ai Cập mà về Đất Hứa ngày xưa vậy, Chúa Giêsu mới dạy cho các vị tinh thần ngược đời của Người là: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người".

 

Nếu các vị có tinh thần ngược đời này như Người dạy thì hẳn các ông đã cảm thấu được những gì Người nói trước về thân phận cứu thế của Người như một Vị Thiên Sai thực sự xuất phát từ dân Do Thái, một vị Thiên Sai được Thiên Chúa sai đến để cứu chẳng những dân Do Thái mà còn cả nhân loại nữa cho khỏi tội lỗi và sự chết hơn là cho khỏi quyền lực chính trị, một quyền lực chính trị đang thống trị họ chỉ là tiêu biểu cho quyền lực của thần dữ đang làm chủ thế gian ngay từ đầu lịch sử của nhân loại mà thôi.

 

Đúng thế, với tinh thần phàm tục của mình, chỉ thích tính toán như người lớn, chỉ muốn tranh giành như người lớn, hoàn toàn ngược lại với tinh thần của Chúa Kitô như thế, mà các vị, tuy thực tế vẫn theo Người đấy, nhưng tinh thần và ý thức của các vị vẫn còn quá non nớt và mềm yếu trong việc chấp nhận Người, nhất là chấp nhận Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người như Người tiết lộ cho các vị đến 2 lần, Người đã phải thực hiện một hành động hơi lạ được Thánh ký Marco ghi lại ở cuối bài Phúc Âm hôm nay như sau:

 

"Và Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, rồi ôm nó mà nói với các ông rằng: 'Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy'".

 

"Em bé" nào đó được diễm phúc được Người "đem đặt giữa các ông", chắc chắn không phải từ người ta đã có lần sau đó mang đến với Người (xem Marco 10:13) mà do chính Người chọn lựa, một là ở ngay trong nhà Thày trò đang ở bấy giờ, hay ở đâu đó gần nhà này. Vấn đề ở đây là tại sao Người phải làm thế, chẳng những tìm chọn cho bằng được một em nhỏ, mà còn tỏ ra rất thương mến em ấy nữa: "rồi ôm nó". Chưa hết, Người còn tự đồng hóa với em nữa: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy".

 

Phải chăng ở đây, qua cử chỉ kèm theo lời nói của mình liên quan đến em bé bấy giờ, lúc mà Chúa Giêsu muốn dạy cho các môn đệ của Người còn đầy tinh thần phàm tục một đường lối ngược đời là "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người", Người đã muốn kín đáo nhắn nhủ các vị rằng nếu các vị muốn chấp nhận Người, nhất là chấp nhận Người ở nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, các vị phải "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" (Mathêu 18:3), vì Cha của Người chỉ tỏ những điều cao siêu mầu nhiệm mà kẻ khôn ngoan thông thái lớn lao trên trần gian này không hề biết và chẳng thể biết, cho thành phần bé nhỏ mà thôi (xem Luca 10:21).

 

 

 

 

Thứ Tư sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 4, 12-22

"Ai yêu mến sự khôn ngoan, sẽ được Thiên Chúa yêu mến".

Trích sách Huấn Ca.

Sự khôn ngoan truyền sinh khí cho con cái mình, đón nhận những ai tìm mình và dẫn đường công chính. Ai yêu mến sự khôn ngoan thì yêu mến sự sống. Ai tỉnh thức đón chờ nó, thì sẽ được vui thoả. Ai chiếm được nó, sẽ được hưởng sự sống. Nó vào nơi nào, thì Thiên Chúa chúc phúc nơi đó. Ai phụng sự nó, là phụng sự Ðấng Thánh. Ai yêu mến nó, sẽ được Thiên Chúa mến yêu. Ai nghe nó, sẽ xét xử các dân tộc. Ai chăm chú nhìn nó, sẽ luôn luôn vững tâm. Ai tin tưởng nó, sẽ được nó làm gia nghiệp, và dòng dõi kẻ ấy sẽ được vững bền.

Bởi chưng sự khôn ngoan sống với kẻ ấy trong cơn thử thách và tuyển chọn kẻ ấy trước hết mọi người. Nó sẽ đổ xuống trên kẻ ấy sự kính sợ và thử thách, sẽ dùng giáo lý mà sửa dậy và rèn tập kẻ ấy trong sự gian nan, cho đến khi nắm chắc được tư tưởng của kẻ ấy, và tín nhiệm kẻ ấy. Sự khôn ngoan sẽ cho kẻ ấy được bền vững, dọn đường ngay thẳng cho kẻ ấy và làm cho kẻ ấy được vui mừng. Sự khôn ngoan sẽ mạc khải cho kẻ ấy biết những bí mật của mình, sẽ ban cho kẻ ấy kho tàng sự hiểu biết công chính. Nếu kẻ ấy cố chấp lầm đường, sự khôn ngoan sẽ bỏ rơi và trao phó kẻ ấy trong tay quân thù.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 118, 165. 168. 171. 172. 174. 175.

Ðáp: Lạy Chúa, đại bình an cho những ai yêu luật pháp Chúa (c. 165a).

Xướng: 1) Ðại bình an cho những ai yêu luật pháp Chúa, không có gì làm cớ cho họ sẩy chân. - Ðáp.

2) Con tuân giữ huấn lệnh và những lời truyền của Chúa, vì bao đường lối của con hiện ở trước nhan Ngài. - Ðáp.

3) Môi con sẽ xướng lên những bài ca ngợi, vì Chúa đã dạy con các thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.

4) Lưỡi con sẽ ca ngợi lời sấm của Chúa, vì bao chỉ thị của Chúa đều công minh. - Ðáp.

5) Lạy Chúa, con mong ơn Ngài cứu độ, và luật pháp Ngài là sự hoan lạc của con. - Ðáp.

6) Nguyện cho hồn con được sống để khen ngợi Chúa, và xin các sắc dụ của Chúa phù trợ cho con! - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 9, 37-39

"Ai không chống đối các con, là ủng hộ các con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo ta, và chúng con đã ngăn cấm y". Nhưng Chúa Giêsu phán: "Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

"Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con" 

 

Suy Niệm

 

Bài Phúc Âm hôm nay, có thể nói, vừa tiếp tục bài Phúc Âm hôm qua về văn tự (trong cùng một đoạn và tiếp tục các câu ngay sau các câu của bài Phúc Âm trước) vừa tiếp tục về tinh thần phàm tục của các tông đồ nữa.

 

Thật vậy, nếu trong bài Phúc Âm hôm qua các vị đã bày tỏ tinh thần phàm tục của mình qua việc tranh giành nhau về ngôi thứ trong nội bộ của các vị thì trong bài Phúc Âm hôm nay các vị tiếp tục tinh thần tranh giành nhau về quyền lực cùng uy thế với bất cứ ai không thuộc về nhóm của các vị, như chúng ta thấy nơi câu trình của vị tông đồ vốn tự nhận mình là "người môn đệ được Chúa Kitô yêu" (Gioan 19:26, 20:2, 21:7,20):  "Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: 'Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo ta, và chúng con đã ngăn cấm y'".

 

Ở đây, trong trường hợp này, qua lời của tông đồ Gioan, chúng ta không biết 2 điều cần: thứ nhất đó là "kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ" đây là ai? thuộc loại người nào?? - Có phải là một người biệt phái hay luật sĩ là những người vốn cảm thấy mình đầy uy lực và thế giá trước mặt dân chúng nhưng lại là thành phần hầu như đa số có khuynh hướng thù địch với chung nhóm tông đồ nhất là với riêng bản thân Chúa Giêsu là Thày của các vị hay chăng?

 

Điều thứ hai chúng ta không biết được nơi câu trình của tông đồ Gioan đó là nhân vật "nhân danh Thầy mà trừ quỷ" ấy có thành công hay chăng? Nghĩa là có thực sự trừ được quỉ hay chăng?? Như Thày của các vị??? Và nếu quả thực "kẻ" ấy trừ được quỉ như Thày của các vị, trong khi chính các vị, trong khi Thày của các vị ở trên núi biến hình thì ở dưới núi các vị đã không trừ được quỉ, như bài Phúc Âm Thứ Hai đầu tuần này cho thấy, thì chẳng có gì là khó hiểu khi Chúa Giêsu biết được và chúng ta đọc thấy thái độ dường như chất chứa lòng ghen tị của các tông đồ qua câu tông đồ Gioan nói.

 

Hai chi tiết được suy diễn trên đây có thể đúng: "kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ" là một người biệt phái hay luật sĩ và họ có thể đã thực sự trừ được quỉ. Bởi vì, có thể nói thế nhờ căn cứ vào lời Chúa Giêsu nói với chung các tông đồ chứ không phải chỉ nói riêng với tông đồ Gioan, vì Người biết được tinh thần phàm tục nơi chung thành phần môn đệ của Người chứ không phải chỉ có một môn đệ nào thôi, và cũng có thể là Người đã biết rằng các môn đệ đã xì xèo với nhau về sự kiện lạ thường xẩy ra ngoài nhóm của các vị nên các vị đã cử tông đồ Gioan dễ thương đại diện trình cho Người biết.

 

Lời của Chúa Giêsu nói ở đây được Thánh ký Marco ghi lại nguyên văn như sau: "Nhưng Chúa Giêsu phán: 'Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con'".

 

Trong câu nói này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy đối tượng được Chúa Giêsu nói tới "kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ" có thể là một nhân vật thuộc phe biệt phái hay luật sĩ, thành phần hầu như đa số thường ác cảm với Người, chống đối Người, bắt bẻ Người từng li từng tí, tím cách gài bẫy Người, thậm chí chụp mũ xuyên tạc Người nữa, cho Người lấy quỉ tướng trừ quỉ con v.v., vì Người nói đến chi tiết liên quan đến khuynh hướng và thái độ của thành phần này như sau: "Chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy".

 

Cũng căn cứ vào câu nói này của Chúa Giêsu thì có thể là "kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ" ấy, cho dù là ai chăng nữa, như một nhân vật biệt phái hay luật sĩ nào đó, vẫn có thể thực sự trừ được quỉ, vẫn có thể "làm phép lạ". Bởi vì, theo nguyên tắc, họ chỉ là phương tiện chứ không phải nguyên lý của chính việc (trừ quỉ hay phép lạ) họ làm.

 

Đúng thế, nguyên lý chính yếu trong việc trừ quỉ hay làm phép lạ, những tác động hoàn toàn vượt khỏi tầm tay hữu hạn bất lực của con người, những việc làm thuộc về thế giới thần linh, chỉ xuất phát từ thần linh, từ quyền lực bởi trời, từ uy quyền của duy "danh Thày" mà thôi. Ma quỉ là loài vốn có quyền năng hơn loài người, nó không thể bị loài người khu trừ, ngoại trừ loài người được ban cho một quyền lực cao tay hơn nó, như từ Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà tên quỉ câm đã từng ám bé trai từ lâu, như bài Phúc Âm Thứ Hai đầu tuần này thuật lại: "Vừa thấy Chúa Giêsu, quỷ liền dằn vặt đứa bé dữ dội, đứa bé ngã ra, xùi bọt mép, lăn lộn trên đất".

 

Chính vì Thiên Chúa mới là chính, còn tất cả mọi sự khác chỉ là những gì phụ thuộc, bao gồm tất cả mọi tác nhân, dù thuộc thành phần nào, dù là biệt phái hay luật sĩ hoặc tông đồ, thậm chí dù xấu đến đâu chăng nữa, (như trường hợp vị linh mục thừa tác viên thánh vừa phạm tội trọng xong, cho dù có ban các bí tích thánh ngay sau đó thì bí tích ngài ban ấy vẫn thành), cũng đều là phương tiện được Chúa sử dụng để thực hiện ý định vô cùng khôn ngoan, toàn năng và yêu thương của Ngài trong việc tỏ mình Ngài ra qua họ và cho chính họ, mà tất cả đều bình đẳng trước mặt Chúa, đều không được nghi kỵ chống đối hay tranh giành nhau, như chính Chúa Giêsu đã minh định và xác quyết với các môn đệ của Người trong câu cuối cùng của bài Phúc Âm hôm nay: "Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con". Nghĩa là ai cũng phải làm sao để có thể sống vì Chúa và cho Chúa dù ý thức hay vô thức.

 

Cảm Nghiệm

 

Trong đời sống đạo của chúng ta cũng thế, nhất là trong hoạt động tông đồ hoặc mục vụ, chúng ta, thành phần mang danh là môn đệ của Chúa Kitô, thành phần đạo đức tốt lành, thậm chí còn hăng say phục vụ cộng đồng dân Chúa để xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô trong tầm tay và hoàn cảnh của mình, thường vẫn còn mang nặng tâm thức bè phái và cạnh tranh.

 

Bởi thế, chúng ta hay có ý nghĩ hay lời nói khinh thường những ai ngoại đạo, hay đồng đạo mà sống bê tha tội lỗi. Hội đoàn hay đoàn thể của chúng ta phải nổi hơn các tổ chức khác, hay chỉ có phong trào của chúng ta mới làm được việc này việc kia. Nhất là không có cá nhân của chúng ta trong hội đoàn hay phong trào hoặc giáo xứ hay cộng đoàn thì tổ chức của chúng ta không phát triển được. Không ai có thể làm thay chúng ta hay hơn chúng ta trong tổ chức của chúng ta. Bởi thế khi có người nổi hơn chúng ta hay được dân Chúa mộ mến hơn chúng ta, chúng ta tỏ ra những lời nói và thái độ khinh thường, chỉ trích, chê bai, chụp mũ, xuyên tạc v.v. làm sao cho họ bị hạ bệ... không bằng chúng ta, không như chúng ta!

 

Vì chúng ta coi mình không phải chỉ là những gì phụ thuộc, trái lại lấy mình là chính yếu trong hết mọi sự như thế, chứ không phải là Thiên Chúa và thay cho Thiên Chúa, chiếm chỗ của Thiên Chúa, mà chúng ta, như kinh nghiệm phũ phàng cho thấy, chúng ta hay có nhiều kẻ thù, và gặp nhiều trục trặc rắc rối trong hoạt động tông đồ hoặc mục vụ của mình. Thậm chí đến độ bỏ cuộc hay phá ngang vì bất mãn và hận thù ghen ghét!

 

Tinh thần yêu thương đoàn kết trong Chúa là Chủ Tể mọi sự và là cùng đích của mọi sự là những gì khôn ngoan rất đúng với dự án thần linh và ý định cứu rỗi của Thiên Chúa bao gồm từng cá nhân cũng như chung tập thể loài người, và loài người có được Ngài sử dụng hay được ban cho hơn ai khác thì họ cũng chỉ là phương tiện của Ngài và cần phải chia sẻ những gì Ngài ký thác cho họ như những nén bạc ân sủng cần phải sinh lợi theo ý chủ là Ngài.

 

 

 

 

Thứ Năm sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 5, 1-10

"Ngươi hãy mau mau quay về với Chúa".

Trích sách Huấn Ca.

Ngươi đừng cậy vào gia sản bất chính và đừng nói: "Ðời sống của tôi thật là đầy đủ". Vì chưng trong thời báo oán trả ân, cái đó có ích gì? Khi còn mạnh khoẻ, chớ chạy theo đam mê của lòng ngươi và đừng nói: "Ai làm gì được tôi?", hoặc "Trong các việc tôi làm, ai có thể bắt tôi suy phục được?" Bởi vì chắc chắn Thiên Chúa sẽ báo oán ngươi. Ngươi đừng nói rằng: "Tôi đã phạm tội, nào có sao đâu?" Ðấng Tối Cao là Ðấng xét xử nhẫn nại. Ngươi chớ yên tâm về tội đã được tha, để rồi chồng chất tội này trên tội nọ. Và ngươi cũng đừng nói: "Lòng nhân từ của Chúa thật lớn lao, Người thứ tha muôn vàn tội lỗi của tôi", vì lòng nhân từ và cơn thịnh nộ rất gần nhau, và cơn thịnh nộ của Người đè nặng trên những kẻ tội lỗi. Ngươi hãy mau mau quay về với Chúa và đừng lần lựa rày mai; vì cơn thịnh nộ của Người sẽ đến bất ưng và huỷ diệt ngươi trong thời báo oán. Ngươi đừng ỷ lại vào những của bất chính, vì chưng trong thời báo oán trả ân, nó sẽ chẳng ích gì cho ngươi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6

Ðáp: Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa (Tv 39, 5a).

Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối của tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.

2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.

3) Kẻ gian ác không được như vậy; họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 13cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 9, 40-49 (Hl 41-50)

"Thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn đủ cả hai tay mà phải vào hoả ngục".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ai cho các con (uống) một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, thật Thầy bảo các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn.

"Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt. Vì mọi người sẽ bị ướp bằng lửa.

"Muối là vật tốt, nhưng nếu muối ra lạt, các con lấy gì mà ướp nó cho mặn lại được? Các con hãy có muối ở trong mình và sống hoà thuận với nhau".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Thiên đàng toàn là thành phần bị tàn tật

 

Suy Niệm

 

Bài Phúc Âm hôm nay, như bài Phúc Âm hôm qua, cũng tiếp tục bài Phúc Âm của ngày hôm trước. Tuy nhiên, bài Phúc Âm hôm nay đáng lẽ phải được đọc cùng với bài Phúc Âm hôm qua mới đúng. Bởi Chúa Giêsu đang nói với các môn đệ của Người chưa xong thì bị Giáo Hội cắt ngang, không cho đọc nữa, để những lời Chúa Giêsu đang muốn nói ấy sang bài Phúc Âm cho ngày hôm nay.

 

Thật vậy, lời Chúa Giêsu đang nói trong bài Phúc Âm hôm qua là "Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con", và Người chưa nói hết những gì Người đang muốn nói bấy giờ là "Ai cho các con (uống) một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, thật Thầy bảo các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu...", thì câu này, cùng với các câu sau đó, được chuyển sang câu đầu của bài Phúc Âm hôm nay.

 

Tuy nhiên, không phải là vô lý mà Giáo Hội dám cắt ngang Lời Chúa của mình như thế. Bởi có lẽ Giáo Hội thấy rằng những gì Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay là một vấn đề khác, hoàn toàn khác, nhưng được chuyển tiếp bằng câu đầu tiên vừa được trích dẫn trên đây. Thế nhưng, nếu lưu ý, chúng ta sẽ thấy vấn đề trong bài Phúc Âm hôm qua và vấn đề trong bài Phúc Âm hôm nay vẫn có tính cách liên tục và liên hệ với nhau làm sao ấy, một cách nào đó.

 

Đúng thế, trong khi vấn đề của bài Phúc Âm hôm qua liên quan đến lời minh định của Chúa Giêsu về thành phần làm việc lành thay Người cho anh chị em mình: "Chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy", thì vấn đề của bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến một loại người hoàn toàn ngược lại, đó là loại người tác hại đến phần rỗi của anh chị em mình, bằng gương mù gương xấu họ gây ra, những hành động đáng bị trừng phạt xứng đáng: "Nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn".

 

Vẫn biết ai phạm tội thì phải chịu hình phạt tương xứng với tội phạm của mình, chứ không phải mình phạm rồi người khác chịu phạt thay mình, như chúng ta có khuynh hướng đổ tội cho nhau, như thể chúng ta vấp phạm là do người khác, nên mình vẫn đáng thông cảm tha thứ, còn người làm cớ cho mình sa ngã mới đáng bị phạt hơn là mình và thay vì mình.

 

Tuy nhiên lời Chúa Giêsu vừa quả quyết trên đây về thành phần gây dịp vấp ngã cho người khác, tuy họ phải gánh chịu trách nhiệm về việc làm xấu gây tác hại thiêng liêng của họ như vậy, nhưng ai phạm tội theo gương mù gương xấu của họ vẫn phải chịu trách nhiệm về tội phạm của mình, chứ không phải họ cần phải hay buộc phải chịu tội thay cho mình.

 

Dầu sao thành phần gây ra gương mù gương xấu trên thế gian này, trong xã hội loài người, trong đời sống chung, một hiện tượng gương mù gương xấu không thể nào không có, không thể nào không xẩy ra (xem Mathêu 18:7), vì con người trần gian chúng ta ai cũng mang một bản chất bất toàn, luôn sống với một bản tính đã bị hư đi bởi nguyên tội, đầy những đam mê nhục dục, luôn xu hướng về tội và có thể liên lỉ phạm tội nếu không có ơn Chúa.

 

Thành phần gây ra gương mù gương xấu chẳng những phải chịu trách nhiệm nặng nề về những gì mình gây ra, như thể bị "buộc thớt cối xay vào cổ", mà còn phải bị "xô xuống biển" nữa, tức bị thế gian là nơi đầy những biến động như biển khơi vùi lấp đi, như Tiên Tri Giona bị đám thủy thủ trên con tầu ông đang muốn lợi dụng để tẩu thoát lệnh truyền của Thiên Chúa sai ông, con tầu đang bị bão tố biển khơi tấn công như thể sắp sửa bị lật nhào mất tích, bất đắc dĩ ném ông xuống biển để cứu bao nhiêu là sinh mạng vô tội bị chết bởi tội ông gây ra (xem Giona 1:13-15).

 

Nếu Tiên Tri Giona nhờ tai nạn "bị xô xuống biển" này để cứu bao nhiêu sinh mạng khác đáng lẽ bị chết đi bởi tội lỗi của ông được Thiên Chúa cứu sau đó nhờ một con cá nuốt vào bụng nó thế nào, và nhờ đó ông đã được vào bờ an toàn, thì thành phần gây ra gương mù gương xấu cũng có thể được cứu độ như thế, một khi biết ăn năn thống hối nhận ra lầm lỗi của mình. Đó là phần của những ai gây ra dịp tội cho người khác, phải gánh chịu hậu quả những gì mình gây ra làm thiệt hại đến phần rỗi của người khác, nhưng người khác bị hư đi thì lại do chính đương sự nạn nhân chứ không phải chính tác nhân gương mù.

 

Bởi vậy mà Chúa Giêsu còn cảnh giác cả thành phần đương sự nạn nhân trong bài Phúc Âm hôm nay nữa. Không phải hay sao, trong bài Phúc Âm hôm nay, ngay sau khi nói về thành phần tác nhân gương mù Người đã nói ngay đến thành phần đương sự chủ thể. Theo giáo huấn của Người trong bài Phúc Âm hôm nay thì dịp tội ở ngay bản thân của đương sự chủ thể, chứ không phải ở tác nhân gương mù. Một đàng ở bên ngoài đương sự chủ thể - đó là gương mù, có tính cách khách quan, một đàng ở tại bản thân đương sự chủ thể - đó là dịp tội, có tính cách chủ quan.

 

Nghĩa là, cho dù thế gian có đầy những gương mù gương xấu không thể nào không xẩy ra, nhưng đương sự chủ thể vẫn không vì thế mà sa ngã phạm tội. Chẳng hạn, người con gái ăn mặc thời trang có vẻ sexi thời đại một cách ngây thơ vô tội, không thể nào hay khó lòng mà trở thành dịp tội cho bất cứ nam nhân nào biết cẩn thẩn khổ chế ngũ quan hay sống đức tin chân chính.

 

"Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt".

 

Ở đây, qua câu Phúc Âm này, chúng ta thấy Chúa Giêsu nói đến chẳng những dịp tội ở nơi chính chủ thể, nhất là ở 3 cơ quan đặc biệt là tay, chân và mắt trên thân thể của con người, mà còn sâu xa nói đến tiến trình phạm tội của con người nữa, một tiến trình từ ngoài vào trong, liên quan đến 3 cơ quan được Người nhắc đến. Tại sao Người không nhắc đến miệng hay tai cũng là các cơ quan dễ phạm tội nhất như mắt, mà chỉ nói đến tay, chân và mắt. Theo người viết thì "tay" là tiêu biểu cho việc làm sai trái của con người, nhưng việc làm sai trái bề ngoài đó là do quyết định bên trong của con người, một tác động nhất định làm theo ý mình có thể nói được tiêu biểu nơi "chân" bước đi của con người, và con người thường chỉ quyết định sai trái lầm lạc theo phán đoán mù tối hay theo lòng tham vọng của con người, những tác động phán đoán hay tham vọng tâm linh có thể nói được tiêu biểu nơi con "mắt" của họ. 

 

Như thế, có thể nói một cách loại suy và tếu táo rằng nếu "thà con mất một tay mà được vào cõi sống... (và) thà con mất một chân mà được vào cõi sống" thì ở trên Thiên Đàng toàn là những người bị tàn tật, mù lòa và què cụt, bởi khi còn ở trên thế gian này họ đã hy sinh tất cả những phần thể ấy của họ để được rỗi, "còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục... còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục", bởi vậy khi chết đi ai mà còn lành mạnh cả thân thể thì số phận đời đời của họ chẳng còn ở đâu khác ngoài hỏa ngục.... Thật ra thì hoàn toàn ngược lại, một khi thân xác của người lành được phục sinh trong ngày sau hết thì nên giống thân thể vinh quang của Chúa Kitô (xem Philiphe 3:21), trong khi thân xác của thành phần bị "chết lần thứ hai" (Khải Huyền 20:14) cũng sống lại nhưng "bị quăng vào hồ lửa" (Khải Huyền 20:14), phản ảnh tất cả những gì là khốn cực, hư hoại và chết chóc.

 

Bởi chính dịp tội ở ngay bản thân con người chứ không phải ở ngoài con người như gương mù gương xấu thế gian mà con người cần phải giữ mình nói chung, cần phải khổ chế giác quan và tình cảm nói riêng, để khỏi bị sa ngã phạm tội, để khỏi bị ảnh hưởng tai hại hay chiều theo gương mù gương xấu thế gian, mà ở cuối bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã vừa cảnh giác vừa kín đáo dạy cho các môn đệ của Người cách thức khôn khéo như sau:

 

"Vì mọi người sẽ bị ướp bằng lửa":  bởi "mọi người" không trừ ai ở trên đời này tự mình mà không sa ngã phạm tội làm những gì trái với lương tâm nên bị lương tâm nung nấu cắn rứt như bị "ướp bằng lửa", thứ lửa trần gian còn được thanh tẩy, hơn là thứ lửa hỏa ngục trừng phạt muôn kiếp đời sau.

 

 "Muối là vật tốt, nhưng nếu muối ra lạt, các con lấy gì mà ướp nó cho mặn lại được?": "muối" đây trước hết ám chỉ tính chất khổ chế cần phải có nơi đời sống thiêng liêng để ướp cho bản thân con người vốn yếu đuối đầy những mầm mống tội lỗi chết chóc khỏi sa ngã phạm tội mà bị hư đi như những thứ cá ươn thối.

 

"Các con hãy có muối ở trong mình và sống hoà thuận với nhau": "muối" ở đây, sau nữa, còn ám chỉ tính chất nhẫn nhịn nhau trong đời sống bác ái yêu thương tha nhân, nhờ đó con người ướp cho nhau khỏi bị ươn thối gây ra bởi những thái độ và phản ứng gương mù gương xấu của mình.

 

Cảm Nghiệm

 

Chúng ta dù có xưng tội thường xuyên, nhưng nếu không biết mình, không nhận lỗi, thì việc xưng tội của chúng ta nên xét lại, bởi chúng ta chẳng những không thật lòng ăn năn thống hối mà còn chẳng biết mình xưng tội ra sao nữa. Có những tội thật chúng ta lại cho rằng không phải là tội. Chúng ta còn cho rằng chúng ta vấp phạm là do ngoại cảnh chứ chúng ta không tự mình phạm tội, không cố ý phạm tội, nếu không có dịp tội, nếu không thấy người con gái duyên dáng hấp dẫn ấy v.v.

 

Mà nếu không biết mình, không nhận lỗi thì làm sao có thể sửa lỗi và cải thiện được. Nhất là làm sao có thể ăn năn thống hối về tội mình phạm trước khi xưng tội. Bởi thế, chúng ta vẫn tiếp tục sống trong dịp tội và chiều theo dịp tội, mà cứ tưởng mình có tội gì đâu mà xưng v.v. Và nếu có thói quen xưng tội hằng tháng chăng nữa, cũng cứ tưởng mình công chính hơn người khác. Những con người không tránh dịp tội ở ngay nơi bản thân của mình, thì mọi sự, dù tự bản chất nó tốt, nó vẫn có thể trở thành cớ ("gương mù") gây ra hành động phạm tội của họ.

 

 

 

 

Thứ Sáu sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 6, 5-17

"Không gì sánh được với người bạn trung thành".

Trích sách Huấn Ca.

Lời nói ngọt ngào gia tăng số bạn hữu và thoa dịu những kẻ thù; lưỡi êm dịu nơi người hiền tăng thêm hoà khí.

Ngươi nên có nhiều bạn hữu, nhưng chỉ nên chọn một trong ngàn người làm cố vấn.

Nếu ngươi có được người bạn hữu, hãy thử thách rồi hãy nhận, và đừng dễ dàng tin tưởng người đó. Vì có thứ bạn hữu chỉ thân trong lúc vận hên và không trung thành trong cơn khốn khó. Có thứ bạn hữu sau trở thành thù địch. Có thứ bạn hữu tiết lộ những chuyện oán thù, tranh chấp và ghen tương của ngươi. Có thứ bạn hữu chỉ thân lúc ở bàn ăn, gặp lúc gian truân không nhìn thấy bóng. Có thứ bạn hữu khi được thâu nhận sẽ trở thành bình đẳng với ngươi, vì tự do hành động trong những điều thuộc nội bộ nhà ngươi. Nếu ngươi bị người ta hạ nhục, hắn sẽ phản lại ngươi, và hắn sẽ xa tránh mặt ngươi. Ngươi hãy xa lánh kẻ thù và hãy đề phòng với bạn hữu.

Người bạn trung thành là chỗ dung thân vững chắc. Ai gặp được người bạn hữu như thế, là gặp được kho báu. Không có gì sánh được với người bạn trung thành, không số lượng vàng bạc nào có thể cân nặng hơn lòng trung tín tốt lành của người bạn đó. Người bạn hữu trung thành là liều thuốc trường sinh bất tử. Những ai kính sợ Chúa, sẽ gặp được người bạn đó. Ai kính sợ Chúa, người đó cũng có tình bạn tốt, vì người bạn hữu của người đó sẽ giống như người đó.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 118, 12. 16. 18. 27. 34. 35.

Ðáp: Lạy Chúa, xin hướng dẫn con vào đường lối chỉ thị Ngài (c. 35a).

Xướng: 1) Thân lạy Chúa, Ngài muôn phúc đức, xin dạy con các thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.

2) Con lấy thánh chỉ Ngài làm hoan lạc, và lời Ngài dạy, con chẳng dám quên. - Ðáp.

3) Xin mở rộng tầm con mắt của con, để quan chiêm những điều kỳ diệu trong luật Chúa. - Ðáp.

4) Xin cho con am hiểu đường lối huấn lệnh của Chúa, để con suy gẫm các điều kỳ diệu của Ngài. - Ðáp.

5) Xin dạy con, để con vâng theo luật pháp Ngài, và để con hết lòng tuân giữ luật đó. - Ðáp.

6) Xin hướng dẫn con vào đường lối chỉ thị Ngài, vì chính trong đường lối này con sung sướng. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 10, 1-12

"Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt xứ Giuđêa và miền bên kia sông Giođan. Dân chúng lại tụ họp bên Người và Người lại dạy dỗ họ như thường lệ. Những người biệt phát đến gần và hỏi thử Người rằng: "Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?" Người đáp: "Môsê đã truyền cho các ông thế nào?" Họ thưa: "Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị". Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: "Chính vì sự cứng lòng của các ông mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vì thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không thể phân rẽ".

Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: "Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng mà lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

"Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?"

 

Vấn đề "ly dị", nếu hiểu rộng, thì bao gồm cả "ngoại tình". Tại sao thế?

 

Suy Niệm

 

Vấn đề của bài Phúc Âm hôm nay hoàn toàn khác với các vấn đề của các bài Phúc Âm trước đây trong tuần. Tuy nhiên, ở một nghĩa nào đó, có thể nói vấn đề của bài Phúc Âm hôm nay một phần nào liên hệ với vấn đề của bài Phúc Âm hôm qua. Nếu vấn đề của bài Phúc Âm hôm qua về vấn đề gương mù gương xấu trong thế gian và dịp tội nơi chủ thể phạm nhân thì vấn đề của bài Phúc Âm hôm nay về vấn đề tục lệ ly dị (liên quan đến gương mù gương xấu trong xã hội) và về thành phần ly dị (liên quan đến dịp tội ở chính bản thân đương sự phạm nhân).

 

Trước hết, về vấn đề tục lệ ly dị (liên quan đến gương mù gương xấu trong xã hội): "Những người biệt phát đến gần và hỏi thử Người rằng: 'Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?'". Sở dĩ vấn đề ly dị ở đây, dù có được phép chăng nữa: "Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị", nhưng Chúa Giêsu đã vạch trần bộ mặt bất chính của nó như sau: "Chính vì sự cứng lòng của các ông mà Môsê đã viết ra điều luật đó".

 

Sau nữa, về thành phần ly dị (liên quan đến dịp tội ở chính bản thân đương sự phạm nhân): "Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vì thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không thể phân rẽ".

 

Ở đây chính Chúa Giêsu đã trả lại cho ý nghĩa đích thực và giá trị cao cả của hôn nhân theo dự án thần linh từ nguyên thủy của Thiên Chúa Hóa Công. Chưa hết, để bổ túc thêm cho phần tích cực của hôn nhân liên quan đến ý nghĩa và giá trị của nó theo dự án thần linh, trong câu trả lời cho riêng các môn đệ của mình sau đó, Chúa Giêsu còn bồi thêm phần tiêu cực liên quan đền thành phần ly dị nữa, như sau: "Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: 'Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng mà lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình'".

 

Vấn đề "ly dị", nếu hiểu rộng, thì bao gồm cả "ngoại tình". Tại sao thế? Tại vì "ngoại tình", dù là "ngoại tình" kín đáo trong tâm tưởng (xem Mathêu 5:28), tự nó bao giờ cũng là hành động "ly dị" lén lút, "ly dị" tạm thời, bởi lòng của người vợ hay người chồng "ngoại tình" ấy đã thật sự bất trung với lời thề hứa thủy chung của mình cho tới cùng với con người được chính Thiên Chúa đã Đấng đã xe duyên kết nghĩa vợ chồng cho mình. Và chính vì hành động ngoại tình, cho dù chưa thật sự có liên hệ xác thịt với một người không phải là vơ hay chồng chính thức của mình, cũng là một trọng tội, chứ không phải là một tội nhẹ, bởi hành động "ngoại tình" này hoàn toàn phản lại với bản chất của hôn nhân theo ý Chúa. 

 

Nếu "sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không thể phân rẽ" thì người phối ngẫu của mình chính là người được Thiên Chúa chọn cho mình, được Ngài mang đến cho mình, một cách nào đó và vào một lúc nào đó, và lòng mình cảm nhận được con người thiên duyên ấy, và tự nhiên yêu thương quyến luyến với con người như thuộc về mình từ bao giờ ấy, đến độ sống không thể thiếu được người ấy, và đến độ con người ấy trở thành như thể chính bản thân mình, chính lẽ sống của mình, không thể nào không trở nên một xác thịt trong đời sống hôn nhân gia đình.

 

Thật vậy, "từ lúc khởi đầu sáng tạo", con người duy nhất bấy giờ (là Adong) được Thiên Chúa mang nàng Evà đến cho chàng, chứ không phải chàng tự đi tìm kiếm, hay nói đúng hơn, chàng hằng thiết tha khao khát một người nội trợ xứng hợp với mình, một niềm khát vọng ở tận thâm tâm của chàng được biểu hiệu qua một giấc ngủ say (xem Khởi Nguyên 2:21), để rồi khi thức dậy sau một giấc ngủ thật say, như thể nội tâm của chàng đã cảm nghiệm được chính bản thân của chàng, thì phản ứng đầu tiên ngay tức khắc và duy nhất của chàng bấy giờ là nhận biết và chấp nhận những gì từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa: "Cuối cùng nàng đây mới là xương bởi xương của tôi, thịt bởi thịt của tôi" (Khởi Nguyên 2:21-24), rồi đáp ứng bằng cách "lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả hai trở nên một thân thể" (Khởi Nguyên 2:24).

 

Chữ "cuối cùng" trong câu nói công khai đầu tiên của con người về bản thân mình cho thấy lòng khát vọng tìm được "một người nội trợ xứng hợp với mình" (Khởi Nguyên 2:20), một con người vượt trên mọi loài muông thú đã được chàng nhận biết rõ ràng và đặt tên cho từng con (xem Khởi Nguyên 2:19) nhưng chúng vẫn không hợp với chàng, nên chàng đành phải tiếp tục sống lẻ loi cô độc là một tình trạng không hợp với chàng và "không tốt" (Khởi Nguyên 2:18), nghĩa là không trọn vẹn đối với chàng là một con người chẳng những được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26), ở chỗ duy nhất, mà còn được dựng nên tương tự như Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26), ở chỗ hiệp thông, cho đến khi "cuối cùng" chàng đã được toại nguyện, ở chỗ có đôi: "Thiên Chúa đã dựng nên họ có nam có nữ" (Khởi Nguyên 1:27).

 

Sau này, cho dù có nghe theo vợ mình là Evà mà anh chồng Adong đã trở thành đồng phạm ăn trái cấm với nàng và vì thế đã trắng trợn phạm đến Thiên Chúa tối cao là Đấng đã tạo dựng nên mình, nhưng trong câu đáp lời Thiên Chúa hạch hỏi: "Ai đã bảo ngươi rằng ngươi trần truồng...?", chàng vẫn công nhận nàng chứ không bao giờ chối bỏ nàng hay ruồng bỏ vợ của chàng: "Người nữ mà Ngài đã cho ở với con đây..." (Khởi Nguyên 3:12), câu thứ hai con người thân thưa cùng Vị Thiên Chúa Hóa Công của mình.

 

Nghĩa là Adong vẫn công nhận Evà thuộc về chàng và nàng được chính Thiên Chúa cho ở với chàng, bằng không, nếu chàng bỏ nàng là chàng, trước hết và trên hết, bỏ Chúa, là chàng "phân ly những gì Thiên Chúa đã liên kết ràng buộc" chàng với nàng. Ngay từ ban đầu không có như vậy, không có vấn đề hay tình trạng ly dị, đúng như Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay.

 

Tuy nhiên, ngày nay, theo chủ nghĩa tương đối duy nhân bản, con người tôn thờ nhân quyền theo cá nhân chủ nghĩa, họ chủ trương tôi có quyền lấy người này thì tôi cũng có quyền bỏ họ mà lấy người khác tùy tôi; người phối ngẫu của tôi là do chính tôi chọn lựa theo ý thích, ý nghĩ và ý muốn chủ quan và tự do của tôi, chứ không phải Thiên Chúa chọn cho tôi nên tôi phải chấp nhận họ, và không bao giờ được bỏ họ khi tôi không còn thích họ nữa.

 

Cảm Nghiệm

 

Hôn nhân, theo lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay và mạc khải Thánh Kinh, là do Thiên Chúa thiết lập và xe duyên kết nghĩa cho từng cặp, vì con người được Ngài dựng nên "có nam có nữ", nhờ đó họ có khả năng hiệp thông như Ngài bằng yêu thương, một yếu tố bất khả thiếu khiến họ nhận biết nhau và hiệp nhất nên một với nhau như vợ chồng.

 

Chính mối hiệp nhất nên một xác thịt này giữa con người nam nữ phối ngẫu với nhau là thực tại đòi tình yêu phối ngẫu phải là một tình yêu vĩnh viễn, tình yêu trọn đời, bất chấp tất cả những gì khác biệt nơi nhau (như sở thích hay văn hóa hoặc tôn giáo), tất cả những gì nghịch lại với nhau (như tính nết hay chủ trương hoặc chọn lựa), thậm chí bất chấp tất cả những gì xúc phạm đến nhau (như khinh bỉ nhau hay nguyền rủa nhau hoặc phản bội nhau).

 

Thế nhưng, sống với bản tính đã bị hư đi theo nguyên tội, ơn gọi và đời sống hôn nhân không dễ dàng bền vững cho đến cùng, nhất là trong thế giới đang tôn thờ cái tôi, chỉ biết quyền làm người hơn tình làm người, thì động một tí là họ có thể bỏ nhau, có thể "phân ly những gì Thiên Chúa đã liên kết".

 

Kinh nghiệm phũ phàng cho thấy, chính lúc con người sống đời vợ chồng có thể chứng tỏ tình yêu thương nhau một cách chân thực nhất và hoàn hảo nhất thì họ lại ly dị nhau, đó là khi họ xúc phạm đến nhau, khi họ chịu đau khổ bởi nhau. Và sở dĩ họ bỏ nhau là vì họ yêu nhau theo sắc dục và lợi lộc hơn là trong Chúa là Đấng đã xe duyên kết nghĩa cho họ. Cho dù ngay từ đầu tình yêu của họ là một tình yêu đầy ý thức và có tính cách siêu nhiên, nhưng khi va chạm với những gian nan khốn khó và thử thách tình yêu chân thành ấy để nó trở thành tình yêu trọn hảo như tình yêu của Thiên Chúa thì họ lại không thể tiếp tục chấp nhận nhau được nữa, không thể sống với nhau được nữa, bất chấp lợi ích của con cái v.v.

 

 

 

 

Thứ Bảy sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 17, 1-13

"Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa".

Trích sách Huấn Ca.

Thiên Chúa dùng đất mà dựng nên con người và tạo tác con người theo hình ảnh của Chúa. Người lại làm cho nó trở nên hình ảnh Chúa và ban cho nó được quyền hành như Người đã có. Người cũng ban cho nó số ngày và thời gian, ban cho quyền hành trên trần gian. Người bắt mọi loài phải kính sợ nó, và cho nó thống trị các thú dữ chim trời. Rồi từ đó, Người tạo dựng một nội trợ giống như nó, Người cũng ban cho cả hai có trí, lưỡi, mắt, mũi và tâm hồn để suy tưởng, cho họ đầy sự hiểu biết và trí năng. Người tạo cho họ trí thông minh và cho lòng họ biết cảm giác, chỉ cho họ biết phân biệt lành dữ. Người đặt mắt Người vào lòng họ, chỉ cho họ thấy sự huy hoàng các công trình của Người, để họ ca tụng thánh danh Người, và họ được vinh hiển trong những việc lạ lùng của Người, hầu họ cao rao sự vĩ đại của những kỳ công Người. Người ban thêm cho họ sự thông minh và cho họ thừa hưởng luật trường sinh. Người thiết lập với họ một giao ước vĩnh cửu, chỉ cho họ biết công minh thẩm phán. Và mắt họ đã nhìn thấy sự huy hoàng vinh hiển của Người, tai họ đã nghe tiếng Người. Rồi Chúa phán với họ: "Các ngươi hãy lánh xa mọi gian ác". Và Người truyền cho mỗi người trong họ biết những giới răn liên quan đến tha nhân. Ðường lối của họ luôn luôn ở trước mặt Chúa và không hề ẩn náu khỏi mắt Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 102, 13-14. 15-16. 17-18a.

Ðáp: Lòng yêu thương của Chúa vẫn còn tồn tại, tự thuở này tới thuở kia cho những ai kính sợ Người (x. c. 17).

Xướng: 1) Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ Người. Người hiểu biết chỗ gây hình của chúng ta, Người nhớ rằng tro bụi là chính chúng ta! - Ðáp.

2) Thân con người, cuộc đời như nắm cỏ, như bông hoa ngoài đồng nội, nó nở ra. Một cơn gió vừa lướt trên hoa, hoa không còn nữa, không ai còn nhận thấy chỗ ở của hoa! - Ðáp.

3) Nhưng lòng yêu thương của Chúa vẫn còn tồn tại, tự thuở này tới thuở kia cho những ai kính sợ Người, và đức công minh Chúa còn dành để cho con cháu họ, cho những ai giữ lời minh ước của Người. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 15, 15b

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 10, 13-16

"Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó". Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Linh đạo Kitô giáo không phải ở chỗ trưởng thành lớn lên mà là trở nên ngây thơ nhỏ bé

 

Suy Niệm

 

Bài Phúc Âm hôm nay được Thánh ký Marco thuật lại một cảnh tượng hiếm hoi chưa từng thấy, đó là cảnh tượng "người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu". Sở dĩ nói rằng đây là một cảnh tượng hiếm hoi chưa từng thấy là vì thường dân chúng chỉ mang các bệnh nhân đến với Chúa Giêsu để được Người chữa lành thôi, hay dân chúng kéo đến với Người để nghe Người giảng dạy.

 

Hôm nay, trong bài Phúc Âm này, cho dù các em nhỏ chẳng có bệnh tật gì và chẳng hiểu Người nói gì, cũng được người lớn mang đến với Người, với mục đích được Thánh ký Marco tiết lộ là "để Người đặt tay trên chúng", thế thôi. Ở sự kiện này chúng ta thấy một sự lạ khác là trong khi những người mang các em nhỏ đến với Chúa Giêsu thì họ lại gặp phải một phản ứng bất lợi, đó là: "các môn đệ khiển trách họ".

 

Qua cuộc đụng độ bất ngờ này, một cuộc đụng độ ngoài dự tưởng của những người mang trẻ nhỏ tới với Chúa Giêsu, vì họ chỉ nhắm tới Chúa Giêsu thôi, chứ không để ý gì tới các môn đệ của Người. Không biết có ai trong họ cự lại các tông đồ hay chăng: "Ủa, chúng tôi mang con trẻ nhỏ ngây thơ vô tội đến với Thày của các ông là Đấng đầy yêu thương từng người mà tại sao các ông lại ngăn cản chúng tôi chứ?"

 

Chắc không có chuyện giả tưởng này, nhưng dầu sao cũng cho thấy hai tâm thức khác nhau, giữa dân chúng không sống gần Chúa Giêsu bằng các môn đệ của Người, song lại hiểu Người hơn các vị, thành phần như người con lớn trong dụ ngôn người cha nhân hậu dù liên lỉ ở với cha mà chẳng hiểu cha bằng người em hoang đàng của hắn.

 

Câu Chúa Giêsu can thiệp vào vụ đụng độ bất ngờ trước mặt Người bấy giờ đã cho thấy rõ ai hơn ai đối với Người liên quan tới tinh thần của Người:  "Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó". Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng".

 

Đúng thế, thành phần môn đệ của Chúa Kitô là thành phần người lớn, với đầy những hướng chiều và tham muốn phàm tục trong việc tranh chấp ngôi vị, như Bài Phúc Âm Thứ Ba tuần này cho thấy. Các vị coi Thầy của các vị là một Đấng uy nghi cao cả, chỉ có các vị hay thành phần giáo quyền hoặc thành phần biệt phái cùng luật sĩ hay các tư tế mới có tư cách gặp Người, hoặc những ai chính Người muốn gặp gỡ họ thôi, chứ không phải ai cũng được phép gặp Người, chẳng hạn như đám trẻ em được thành phần phụ nữ quê mùa tầm thường dẫn tới như vậy.

 

Các vị vẫn chưa hiểu được giáo huấn của Thày mình. Mới cách đó không lâu, chính Chúa Giêsu đã đích thân tìm một em bé, rồi "đem một em bé lại đặt giữa các ông, rồi ôm nó mà nói với các ông rằng: 'Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy'", thế mà các vị vẫn chưa lĩnh hội hết ý muốn của Người, nên hôm nay, trong bài Phúc Âm này, Người lại phải lợi dụng dịp này để nhắc nhở các vị.

 

Trong câu Người nói với các môn đệ trong bài Phúc Âm hôm Thứ Ba tuần này: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy" nghĩa là, như đã chia sẻ hôm Thứ Ba, "nếu các vị muốn chấp nhận Người, nhất là chấp nhận Người ở nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, các vị phải 'hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ' (Mathêu 18:3)", thì "Nước Thiên Chúa" được Người nói trong bài Phúc Âm hôm nay chính là bản thân Người.

 

Thật vậy, hình ảnh và tác động "Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng" trong bài Phúc Âm hôm nay, không phải hay sao, đã chứng thực Người chính là "Nước Thiên Chúa" , một thực tại thần linh "là của những người giống như chúng", tức của những ai để cho Người "ôm", hoàn toàn tin tưởng vào Người, chấp nhận tất cả những gì Người tỏ ra cho họ, bằng không, một khi coi mình là người lớn, xấu hổ không để cho Người "ôm" thì họ sẽ không thể nào có thể ở trong Người và Người ở trong họ: "Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó"

 

Cảm Nghiệm

 

Linh đạo của Kitô giáo không phải là một tiến trình tiến đức lớn lên mà là nhỏ lại. Ở chỗ, Thiên Chúa càng làm chủ linh hồn thì linh hồn càng tràn đầy Chúa, khi Chúa tỏ mình ra cho họ và qua họ cho thế gian, nhờ đó thế gian nhận biết Ngài qua họ và nhờ họ.

 

Kinh nghiệm tu đức cho thấy, trong đời sống thiêng liêng của Kiô hữu, Thiên Chúa bao giờ cũng muốn làm cho linh hồn nhận biết Người, nghĩa là Ngài luôn tỏ mình ra cho họ, cho đến khi họ có thể đạt tới tầm vóc vẹn toàn của Chúa Kitô là đầu (xem Epheso 4:13,15).

 

Bởi thế, Thiên Chúa bao giờ cũng chủ động; con người chỉ làm sao đón nhận và đáp ứng. Kitô hữu trưởng thành (hay "lớn lên") trong đời sống thiêng liêng nhờ Thiên Chúa càng ngày càng sống trong họ, nơi ý nghĩ lòng muốn của họ, qua lời nói phát ngôn của họ và ở hành vi cử chỉ cùng phản ứng có tính cách thần linh của họ.

 

Thế nhưng, bởi nguyên tội, con người vốn xu hướng về "trái cấm", nghĩa là luôn xu hướng về tất cả những gì trái với ý muốn của Thiên Chúa, bởi thế, để được thừa hưởng Nước Trời, con người cần phải "hoán cải và trở nên như những trẻ nhỏ" (Mathêu 18:3), và để cứu độ con người mù quáng, chính Thiên Chúa cũng phải "ra tay uy quyền đánh tan người kiêu ngạo", cũng phải "hạ người quyền hạnh xuống khỏi vị cao" và cũng phải "để người giầu có trở về tay không" (Luca 1:51-53), nghĩa là Ngài làm cho họ phải nhỏ bé lại và làm sao biết kính sợ Ngài, như lòng thương xót Ngài đối với họ.