CÔNG GIÁO VIỆT NAM
2020
Đức Ái Trọn Hảo
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, BVL
Một tâm hồn biết hoàn tin tưởng vào Thiên Chúa, vào Lòng
Thương Xót Chúa, để Ngài chiếm đoạt và làm chủ, là tâm hồn đã đạt tới mức độ tu
đức thần hiệp, sau khi đã trải qua tầm mức tu dức khởi sinh (từ bỏ tội lỗi, thế
gian và bản thân) và tiến sinh (tập tành các nhân đức trọn lành). Đời sống của
họ phản ảnh một đức ái trọn hảo, “như Cha trên trời là Đấng trọn hảo”
(Mathêu 5:48), ở chỗ “xót thương” (Luca 6:36).
Thật vậy, nếu đức tin tuân phục là lòng tin tưởng của
linh hồn đối với chính Thiên Chúa thế nào, thì đức ái trọn hảo là tình yêu
thương tha nhân nơi linh hồn sống đức tin tuân phục như vậy. Vì “đức tin
được thể hiện qua đức ái” (Galata 5:6).
Tuy nhiên, đức ái trọn hảo này không phải của chính
bản thân linh hồn sống đức tin tuân phục, mà là từ chính “Thiên Chúa là tình
yêu” (1Gioan 4:8,16), Đấng sống trong họ và tỏ mình ra qua họ, đến độ,
không phải là họ chỉ yêu thương tha nhân như chính bản thân mình mà còn hơn cả
bản thân mình, ở chỗ họ yêu như Chúa Kitô yêu, như một Alter Christus:
“Thày đã yêu thương các con thế nào, các
con cũng hãy yêu thương nhau như vậy” (Gioan 15:12; 13:34).
“Đức ái trọn hảo” là thành ngữ được Giáo Hội sử dụng
lần đầu tiên qua nhan đề của sắc lệnh canh tân đổi mới đời tận hiến tu trì, được
Công Đồng Chung Vaticanô II ban bố: “Perfectae caritatis”
(ngày 28/10/1965).
Tuy nhiên, “đức ái trọn hảo” không phải chỉ là bản chất và là đích điểm cho đời
sống tận hiến tu trì thôi, mà còn cho tất cả mọi thành phần thuộc về “Giáo Hội
thánh thiện” nữa. Bởi phần tử nào trong Giáo Hội, được gọi là Hội Thánh, cũng
được kêu gọi nên thánh, ở chỗ: “nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn
lành” (Mathêu 5:48).
Mà “nên trọn lành như Cha trên trời” ở chỗ
nào, nếu không phải, theo tinh thần và giáo huấn của Chúa Kitô ở Bài Giảng Trên
Núi về đời sống phúc đức trọn lành, xứng với tư cách và phẩm vị của thành phần
con cái Thiên Chúa, của thành phần là môn đệ của Đấng đã “yêu cho đến cùng”
(Gioan 13:1), là ở chỗ yêu thương cả kẻ thù của mình, chứ không phải chỉ yêu
thương thân nhân hay thân hữu của mình, theo chủ trương “pro-choice”: “Ai là
cận nhân của tôi?” (Luca
10:29).
Thật vậy, nếu sống yêu thương theo chủ trương hay khuynh
hướng “pro-choice” thì không thể nào có thể vươn tới và đạt tới "đức ái trọn
hảo”. Thực tế cho thấy ngay trong thế giới văn minh vật chất hiện đại chưa từng
có, một thế giới có thể nói, về nhân bản, đã lên tới tột đỉnh về văn hóa, ở chỗ
con người, qua bản tuyên ngôn nhân quyền được Liên Hiệp Quốc công b61 ngày
10/12/1948, đã biết được chính phẩm giá cao quí của mình, nơi các quyền lợi bất
khả phân ly với phẩm giá làm người, những quyền lợi bất khả xâm phạm, thế mà con
người lại sống yêu thương “pro-choice” hơn bao giờ hết, ở chỗ phá thai, ở chỗ ly
dị, ở chỗ đồng tính.
Nếu yêu thương “pro-choice” của thế giới ngày nay
càng văn minh thuần về vật chất, chứ không phải “văn minh yêu thương –
civilization
of love” (ĐTC Phaolô VI), và càng văn hóa
thuần về nhân bản, thứ “văn hóa sa thải – culture of throwing; culture of waste” (ĐTC Phanxicô),
chứ không phải thứ “văn hóa gặp gỡ - culture of encounter” (ĐTC Phanxicô), chỉ
cống hiến cho con người một thứ “văn hóa chết chóc – culture of death” (ĐTC
Gioan Phaollô II), hay thứ “văn
hóa tận số - terminal culture” (ĐTC Phanxicô), thì đức ái trọn hảo của Kitô
giáo, nơi thành phần chứng nhân trung thực và sống động của Chúa Kitô, mới có
thể mang lại “sự sống và sự sống viên mãn” (Gioan 10:10) mà thôi!
Sống “Đức ái trọn hảo”, như thế, chắc chắn là phải sống
ngược lại với khuynh hướng và chủ trương “pro-choice” trong yêu thương, nghĩa là
phải sống làm sao để trở thành một con người quốc tế (universal person), hay nói
cách khác, trở thành một con người công giáo (catholic person), chỉ biết sống
cho mọi người, như chính Con Thiên Chúa làm người đã làm gương, Đấng “đến
không phải để được hầu hạ mà là hầu hạ và hiến mạng sống mình cho nhiều người
được cứu độ” (Mathêu 20:28).
Đó
là lý do, khi được hỏi “ai là cận nhân của tôi”, Chúa Giêsu đã không
trả lời dứt khoát ai là cận nhân của vấn nhân, mà là đảo ngược vấn nạn, đúng
hơn, đảo ngược vấn nhân thành cận nhân của người khác, qua dụ ngôn phản ảnh của
chính mình, đó là dụ ngôn về người Samaritanô nhân lành (xem Luca 10:25-37).
Đúng thế, tất cả mọi cử chỉ và từng tác động của người
Samaritanô nhân lành, được Chúa Giêsu diễn tả trong dụ ngôn Người muốn giảng
dạy, chẳng những cho vấn nhân bấy giờ, mà còn cho cả thành phần môn đệ của Người
hiện diện lúc ấy nữa, đều cho thấy một đức ái trọn hảo nơi mẫu gương “yêu
cho đến cùng” (Gioan 13:1) của Người, một mẫu gương đức ái trọn hảo hoàn
toàn và thực sự phản ảnh nơi nhân vật dụ ngôn Samaritanô nhân lành này làm. Ở
chỗ:
1-
Coi tất
cả mọi người đều là cận nhân của mình, nhất là những cận nhân đang gặp gian nan
khốn khổ cần phải giúp đáp lập tức – Đó là lý do Người Samaritanô trong dụ ngôn
mới cảm thấy “động lòng thương” (Luca 10:33) khi vừa trông thấy nạn
nhân người Do Thái, thành phần vốn khinh bỉ và xa tránh người Samaritanô, một
nạn nhân bị bỏ rơi và xa lánh bởi chính đồng bào của mình, bởi chính những vị
chức sắc đạo đức tốt lành trước mặt dân chúng, một nạn nhân bị bọn cướp chẳng
những tước lột mọi sự mà còn tàn nhẫn ra tay đánh đập, đến độ đang quằn quại dở
sống dở chết bên lề đường, một con đường nguy hiểm nhưng vẫn không thể ngăn cản
đức ái trọn hảo của nhân vật dụ ngôn Samatitanô này.
2-
Ân cần
chăm sóc cho nạn nhân như chính những người thân yêu của mình, những người mình
thương mến, bằng cách chẳng những xuống lừa, xuống khỏi một vị thế cao cả và dễ
chịu của mình, coi mình ngang hàng với nạn nhân, ở chỗ tiến gần đến nạn nhân,
chứ không cứ ngồi trên lưng lừa mà hỏi han nạn nhân, rồi quẳng xuống cho nạn
nhân một chút bố thí nào đó đoạn bỏ đi, mà còn lấy rượu và dầu sẵn mang theo bên
mình, như một vị lương y chuyên cứu thương vào bất cứ lúc nào và cho bất cứ ai
mình gặp, để rửa sạch các thương tích của nạn nhân bằng rượu có chất sát trùng,
cho nạn nhân khỏi bị nhiễm trùng, đoạn chữa lành cho nạn nhân bằng cách xức dầu
vào vết thương của nạn nhân.
3-
Cảm thấy
chính cái đau của nạn nhân, và sẵn sàng chịu khổ thay cho nạn nhân, ở chỗ, nhân
vật dụ ngôn Samaritanô này, không phải chỉ xuống khỏi lừa, đến gần nạn nhân và
chăm sóc cho nạn nhân là đủ, lại còn tìm cách chữa trị nạn nhân cho đến khi hoàn
toàn lành mạnh nữa, trước hết, bằng cách cố gắng nâng nạn nhân, một con người bấy
giờ hầu như hoàn toàn bất lực, với một thân xác nặng gần như một tử thi vô hồn,
lên lưng lừa của mình cho bằng được, bất chấp cái mệt nhọc và vất vả khôn lường
của mình, cho nạn nhân chiếm lấy vị trí của mình một cách thoải mái dễ chịu,
trong khi nhân vật này phải đi bộ hết sức khổ sở và khó khăn, vì phải quan tâm
đến nạn nhân, để làm sao cho nạn nhân không bị đau đớn hay bị rơi xuống đường,
cho đến khi vào đường một quán trọ mà nhân vật này có thể quen biết để dẫn nạn
nhân tới cho bằng được, nơi nạn nhân cần được phục sức và dưỡng sức, cho đến khi
nạn nhân hoàn toàn bình phục và lành mạnh, cho dù có phải trang trải tất cả mọi
phí tổn trong thời gian nạn nhân ở đây.
Một tâm hồn sống đức ái trọn hảo cũng thế, cũng phải
làm sao để có thể: chẳng những biết “động lòng thương” anh chị em khốn khổ của
mình, thành phần anh em hèn mọn nhất của Chúa Kitô, được chính Người đồng hóa
với Người (xem Mathêu 25:40,45),
cảm thấy cái đau của họ, đau cái đau với họ và đau
cái đau thay họ, và tìm cách chữa lành cho họ bằng chính những hy sinh của mình,
những thiệt thòi của mình, miễn là người anh chị em của mình được cứu độ.
Việc cứu độ anh chị em khốn khổ của mình, chẳng những về
thể lý, nhất là về luân lý, chẳng những liên quan trực tiếp đến lợi ích về vật
chất hay thiêng liêng của họ, mà nhất là lien quan đến chính Chúa Kitô, Đấng đã
yêu thương họ đến cùng, Đấng không muốn dể lạc mất một con chiên nào, bằng
không, công ơn cứu độ vô cùng cao quí của Người trở thành vô ích nơi từng linh
hồn bất tử hư vong.
Một tâm hồn sống đức ái trọn hảo không thể nào không cảm
thấy cái đau của Chúa Kitô, với Chúa Kitô và thay Chúa Kitô, như Mẹ của Người
khi thấy thi thể của Người bị lưỡi đòng đâm thâu, trước một tội nhân đáng
thương, thành phần nạn nhân bị ma quỉ cướp mất lương tri hay Thánh sủng và đang
bất lực không thể tìm về với ơn cứu độ, rất nguy hiểm đến phần rỗi vô cùng cao
quí và khẩn thiết của họ, và tìm hết cách để cứu họ, cho dù phải hy sinh phần
rỗi của mình cho họ được sống đời đời.
"
ở cái link sau đây: